













Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI KHOA NGỮ VĂN
HỌC PHẦN :NGHIỆP VỤ NGHIÊN CỨU VÀ
VIẾT BÀI BÁO CÁO KHOA HỌC
GIẢNG VIÊN: TS ĐỖ VĂN HIỂU
ĐỀ TÀI : VẦN ĐỀ THÂN THỂ TRONG TÁC PHẨM “ LÀM ĐĨ ”
CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG STT: 09
Họ và tên : Vũ Ngọc Bích
Mã sinh viên: 745611010 Lớp : E1K74 LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bài báo khoa học “ Vấn đề thân thể trong tác phẩm
Làm đĩ của nhà văn Vũ Tọng Phụng ” là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn khoa học của T.S Đỗ Văn Hiểu. Bài nghiên cứu không
có sự trùng lặp hay sao chép bất kì công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả khác. Tác giả Vũ Ngọc Bích
Tóm tắt : Bài viết tiếp cận tiểu thuyết “Làm đĩ” của Vũ Trọng Phụng từ góc nhìn thân thể,
xem thân thể như một trung tâm diễn ngôn của nghệ thuật mang ý nghĩa cả về xã hội, văn hóa
và giới tính sâu sắc. Trên cơ sở khảo sát các quan niệm về vấn đề thân thể trong nghệ thuật và
văn học, bài viết chứng minh rằng thân thể trong văn chương không chỉ đơn thuần là một thực
thể sinh học mà còn là một kí hiệu thẩm mĩ, xã hội, nơi hội tụ các diễn ngôn đạo đức, quyền lực và định kiến giới.
Thông qua phân tích tiểu thuyết “Làm đĩ” cho thấy thân thể người phụ nữ bị kiểm soát nghiêm
ngặt bởi lễ giáo và đạo đức phong kiến, bị ý thức hệ hóa thông qua các khái niệm như trinh tiết,
danh dự và ô nhục. Trong tác phẩm, tính dục không được trình hiện như khoái cảm tự nhiên mà
xuất hiện trong trạng thái bị tha hóa, gắn với sợ hãi, tổn thương và mặc cảm. Khi bước vào
không gian đô thị, thân thể tiếp tục bị thương mại hóa, trở thành một loại hàng hóa trao đổi, qua
đó phơi bày bản chất đạo đức giả dưới sự bao bọc của xã hội tư sản nửa mùa. Việc đặt thân thể
nữ ở trung tâm bi kịch không chỉ thực hiện một cuộc phê phán xã hội quyết liệt mà còn thể hiện
rõ giá trị nhân đạo sâu sắc. “Làm đĩ” vì thế không chỉ là tiểu thuyết hiện thực phê phán mà còn
là một văn bản sớm góp phần hình thành ý thức hiện đại về thân thể, nhân phẩm và quyền sống
của con người trong văn học Việt Nam vào đầu thế kỉ XX.
Từ khoá: Thân thể I. MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh phát triển của các lý thuyết nhân văn hiện đại, vấn đề về thân thể ngày
càng được nhìn nhận như một phạm trù trung tâm trong việc kiến tạo và giải mã ý nghĩa văn
hóa, xã hội và thẩm mỹ. Không còn bị giới hạn trong phạm vi sinh học hay nhục cảm thuần túy,
thân thể được xem như một “không gian diễn ngôn”, nơi các quan hệ quyền lực, chuẩn mực đạo
đức, ý thức hệ giới và kinh nghiệm hiện sinh cùng lúc vận hành và va chạm. Sự dịch chuyển
nhận thức này đã mở ra những hướng tiếp cận mới cho nghiên cứu nghệ thuật nói chung và văn
học nói riêng, trong đó thân thể trở thành một đối tượng phân tích giàu tiềm năng đi sâu vào cấu
trúc tư tưởng và những xung đột xã hội tiềm ẩn sau hình thức ngôn từ.
Trong văn học, thân thể không chỉ là đối tượng được miêu tả mà còn là một ký hiệu thẩm
mỹ xã hội được kiến tạo thông qua diễn ngôn nghệ thuật. Thân thể được viết ra, được mã hóa và
tổ chức theo những hệ hình tư tưởng nhất định, qua đó phản ánh cách con người hiểu về chính
mình, về vị trí của cá nhân trong trật tự xã hội. Đặc biệt, thân thể nữ trong lịch sử văn học
thường là nơi hội tụ rõ nét nhất của các cơ chế kiểm soát đạo đức, định kiến giới và quyền lực
phụ quyền. Việc tiếp cận văn học từ góc nhìn thân thể vì thế không chỉ giúp mở rộng biên độ
giải mã văn bản mà còn cho phép nhận diện sâu sắc hơn những bất bình đẳng giới, những hình
thức áp chế tinh vi và các bi kịch nhân sinh bị che khuất bởi các diễn ngôn chính thống.
Văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, trong bối cảnh xã hội nửa thực dân nửa phong kiến và
quá trình hiện đại hóa đầy mâu thuẫn, là một không gian đặc biệt cho việc khảo sát diễn ngôn
thân thể. Sự va chạm giữa đạo đức Nho giáo truyền thống và các giá trị phương Tây đã đẩy thân
thể, đặc biệt là thân thể người phụ nữ, vào tình trạng bị ý thức hệ hóa sâu sắc. Những khái niệm
như trinh tiết, danh dự, ô nhục không chỉ chi phối đời sống tinh thần mà còn trực tiếp quy định
cách xã hội nhìn nhận và định giá thân thể nữ giới. Chính trong bối cảnh ấy, tiểu thuyết “Làm 1
đĩ” của Vũ Trọng Phụng xuất hiện như một văn bản mang tính đột phá, đặt thân thể ở trung tâm
của diễn ngôn phê phán xã hội.
Trong tác phẩm, thân thể không tồn tại như một thực thể tự nhiên thuần túy, mà luôn bị
bao vây, chi phối và tái định nghĩa bởi các diễn ngôn đạo đức, quyền lực và giới tính. Thân thể
người phụ nữ trở thành nơi gánh chịu các mâu thuẫn giữa bản năng và lễ giáo, giữa khát vọng
cá nhân và áp lực xã hội, giữa quyền sống và sự phán xét. Qua việc đặt thân thể nữ vào trung
tâm bi kịch, Vũ Trọng Phụng không chỉ phơi bày bản chất đạo đức giả của xã hội tư sản nửa
mùa mà còn thể hiện một cái nhìn nhân đạo sâu sắc đối với số phận con người bị tước đoạt
quyền tự chủ thân thể và nhân phẩm.
Bài viết lựa chọn tiếp cận tiểu thuyết “Làm đĩ” của Vũ Trọng Phụng từ góc nhìn thân thể, xem
thân thể như một trung tâm diễn ngôn nghệ thuật mang ý nghĩa xã hội, văn hóa và giới tính với
mục là làm rõ chỉ ra thân thể như một công cụ phê phán hiện thực và một phương tiện biểu đạt
tư tưởng nhân đạo. Qua đó, bài viết góp phần khẳng định giá trị tư tưởng và tính hiện đại của
tiểu thuyết “Làm đĩ”, cũng như nhấn mạnh tiềm năng của hướng tiếp cận thân thể trong nghiên
cứu văn học Việt Nam hiện đại. II. NỘI DUNG
1. Vấn đề “thân thể” trong nghệ thuật
Trong lịch sử nhân loại, thân thể là một trong những đối tượng phạm trù trung tâm của
mỹ học. Từ thời cổ đại, thân thể đã được coi là thước đo của cái đẹp. Ở mỗi thời kì tiêu chuẩn
về cái đẹp thân thể sẽ có những cách nhìn khác nhau, nó sẽ thay đổi theo từng thời kỳ văn hóa.
Nếu thời trung cổ xem thân thể như đối tượng cần che giấu, gắn liền với những quan niệm đạo
đức tôn giáo nghiêm ngặt sang thời Phục Hưng, thân thể trở lại vị trí trung tâm của nghệ thuật
như một biểu tượng của sự giải phóng tinh thần và sự phục sinh của cá nhân. Như vậy, xuyên
suốt lịch sử, thân thể không chỉ là hình ảnh thể hiện góc nhìn, thẩm mỹ về cái đẹp của con
người mà còn là tấm gương phản chiếu hệ giá trị thẩm mỹ, triết học và đạo đức của từng thời
đại. Nghệ thuật không miêu tả thân thể như nó vốn có, mà luôn “đọc” và “mã hóa” thân thể theo
các cấu trúc tư tưởng, quyền lực và cảm quan thẩm mỹ khác nhau. Hiện tại thân thể không còn
bị xem là nhục dục hay thấp kém mà trở thành một phạm trù tư tưởng, nơi giao thoa giữa sinh
học và xã hội. Nhiều lý thuyết gia như M. Foucault, J. Butler, M. Merleau-Ponty… đã chỉ ra
rằng thân thể là nơi diễn ra sự vận hành của quyền lực, giới tính, chuẩn mực đạo đức và những
trải nghiệm hiện sinh của con người. Chính vì những lẽ trên mà thân thể trong nghệ thuật được
coi là một mảnh đất đa sắc màu được săn đón và khai thác trong thế giới nghệ thuật. Trong nghệ
thuật hiện đại và đương đại, thân thể xuất hiện như một phương tiện diễn đạt cảm xúc cá nhân
(tranh biểu hiện), một đối tượng phân tích mang tính triết học (nghệ thuật trình diễn), một
không gian chính trị phơi bày bạo lực, giới tính, quyền lực và sự giám sát của xã hội, hay có thể
là một biểu tượng hiện sinh cho những lo âu, bất an, đổ vỡ của con người hiện đại. Trong bối
cảnh ấy, việc nghiên cứu thân thể trong nghệ thuật không chỉ là nghiên cứu hình ảnh cơ thể mà
còn là nghiên cứu cách con người hiểu về chính bản thân mình, về những giới hạn cũng như vị
trí cá nhân trong những vòng xoáy của xã hội. 2
Trong thế giới văn học, thân thể không chỉ đơn thuần là mô tả hình dạng, kích thước hay chức
năng sinh học, mà còn là một biểu tượng phức hợp mang theo những giá trị thẩm mỹ, xã hội và
văn hóa. Thân thể trong văn học là điểm giao giữa “hữu hình” và “ẩn dụ” nơi người đọc không
chỉ nhìn thấy xác thịt mà còn đọc được những lớp ý nghĩa sâu xa về tâm lý, dục vọng, quyền
lực, giới tính và mâu thuẫn xã hội.
Thân thể trở thành vật mang nghĩa (semiotic object), biểu trưng cho các giá trị đạo đức,
quyền lực, giới tính, xã hội hoặc tâm linh.Hình tượng nhân vật Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
được hiện lên với một nhân vật đầy những vết sẹo chằng chịt trên mặt
mỗi vết sẹo là sự méo mó nhân tính do xã hội phong kiến tha hóa. Thân thể Chí không chỉ bị
tổn thương vật lý, mà còn là “dấu vết” của sự hủy hoại nhân cách. Trong truyện cổ tích “Tấm
Cám” việc nhân vật Tấm “hóa thành chim vàng anh”, “cây xoan đào”, “khung cửi”,…trải qua
bao nhiêu lần tái sinh cuối cùng Tấm trở lại thành người , gặp lại được nhà vua và quay về
hoàng cung trừng trị mẹ con Cám việc này như ẩn dụ cho vòng đời , sự phục sinh và công lý.
Trong truyền thống văn học trung đại thường xem thân thể là không gian đạo đức, nơi
thể hiện phẩm hạnh và các chuẩn mực xã hội. Các mô tả trong “Chinh phụ ngâm” với gương
mặt phai hương và vóc dáng gầy héo của người chinh phụ, là minh chứng cho việc thân thể trở
thành biểu tượng của sự thủy chung và nỗi đau ly biệt của người chinh phụ xa chồng. Trong
“Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu Kiều Nguyệt Nga giữ trọn “tiết hạnh”của mình qua
đây có thể thấy được thân thể được xem như biểu tượng của phẩm giá nữ nhi.
Đến hiện đại, thân thể lại mang một đặc điểm mới nó trở thành trung tâm cảm giác và trải
nghiệm tồn tại, nơi các cá nhân tiếp nhận thế giới bằng các xung năng trực tiếp. Thơ Bích Khê
với những hình ảnh thân thể giàu nhục cảm, thiên về cảm giác “Da thịt ơi!... thôi đã vàng phai”
cho thấy thân thể không chỉ là hình hài mà còn là điểm hội tụ của cảm giác, dục tính, ý thức
hiện sinh. Hay trong tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh các chấn thương cơ thể của
Kiên là cánh cửa bước vào dòng ký ức chiến tranh, như một con dao găm xoáy sâu vào nỗi đau thể xác và tinh thần.
Đồng thời, thân thể trong văn học còn là đối tượng của quyền lực. Điều này biểu hiện rất rõ qua
văn học hiện thực phê phán. Trong “Làm đĩ” của nhà văn Vũ Trọng Phụng, thân thể của Loan
luôn ở trong trạng thái bị kiểm soát bởi các chuẩn mực đạo đức Nho giáo và cái nhìn nghiêm
khắc của xã hội đối với nữ giới. Thân thể ở đây không chỉ được mô tả mà còn trở thành trường
tranh chấp giữa khát vọng cá nhân và sự áp chế của thiết chế xã hội thời kì phong kiến. Ví dụ
tương tự có thể tìm thấy trong “Chí Phèo”, nơi gương mặt “đầy những vết sẹo” của Chí trở
thành dấu vết của quá trình tha hóa do bạo lực quyền lực gây ra,thân thể phản ánh một quá trình
bị xã hội tước đoạt nhân tính. Bên cạnh đó, văn học cũng khai thác thân thể như một diễn ngôn
giới và dục tính, tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương, nơi thân thể nữ giới được mã hóa bằng hệ
thống ẩn dụ độc đáo “bánh trôi nước”, “cái quạt”, tạo nên một giọng điệu phản kháng và giải
phóng chống lại trật tự phụ quyền, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của thời kì phong kiến lúc bấy giờ.
Ở cấp độ đầu tiên, thân thể xuất hiện như một phương tiện thẩm mỹ nhằm diễn tả cảm xúc và
trạng thái nội tâm. Trong thơ trữ tình, thân thể thường được chuyển hóa thành hình tượng mang 3
tính biểu trưng. Chẳng hạn, trong thơ Xuân Quỳnh, hình ảnh “trái tim” một bộ phận cơ thể được
thẩm mỹ hóa thành ký hiệu của tình yêu:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có.”
( Tự hát - Xuân Quỳnh )
Ở đây, “trái tim” vừa là thực thể sinh học “máu thịt”, vừa là trung tâm của xúc cảm, cho
thấy thân thể có khả năng chứa đựng chiều sâu tinh thần. Thân thể được thi ca hóa, gắn với vẻ
đẹp nhân bản và những rung động tự nhiên của con người.
Thân thể không chỉ được biểu hiện dưới hình thức dùng để mô tả ngoại hình đơn thuần
mà còn là một hệ thống ký hiệu nghệ thuật góp phần diễn đạt cảm xúc, tâm lý, ý thức xã hội và
nhận thức văn hoá của nhân vật cũng như của cả cộng đồng. Theo các nghiên cứu lý luận về “
Ngôn ngữ thân thể và diễn ngôn thân thể ” biểu hiện của thân thể trong văn học thể hiện ở nhiều
phương diện khác nhau, bao gồm: biểu hiện như ký hiệu thẩm mỹ, diễn ngôn tâm lý và cảm
xúc, chứa đựng dấu ấn lịch sử ,xã hội và là ngôn ngữ cơ thể mang tính cá nhân hóa. Cụ thể, ở
cấp độ ngoại hình và biểu tượng thẩm mỹ, thân thể thường được dùng để mô tả vẻ đẹp, phẩm
chất nghệ thuật hoặc các giá trị biểu tượng cao. Trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
có câu “Làn thu thủy, nét xuân sơn” vẻ đẹp đôi mắt Kiều được mỹ cảm hóa, lý tưởng hóa, thể
hiện sự hài hòa giữa “thần” và “hình”. Trong thơ Xuân Diệu:
“Môi gần không dám nói yêu
Cánh hồng tơ ý bao nhiêu là tình”
( Yêu – Xuân Diệu )
“Thân thể” ở đây là môi và hình ảnh cánh hồng tơ được biểu tượng hóa cho tình yêu và sức
sống. Trong thơ trữ tình một số nhà thơ như Nguyễn Quang Thiều, Ý Nhi, Vi Thùy Linh dùng
thân thể miêu tả như vùng cảm xúc tinh tế, giàu mỹ cảm đã chỉ ra như một trong những biểu
hiện cơ bản của thân thể trong thi ca. Ở cấp độ diễn ngôn tâm lý cảm xúc, thân thể được sử
dụng để bộc lộ nội tâm nhân vật hoặc cảm xúc thẩm mỹ, vượt ra ngoài mô tả vật lý. Ngôn ngữ
thân thể trong văn học hiện đại xuất hiện các mô tả về cảm nhận cơ thể, trạng thái cảm xúc nơi
thân thể phản chiếu tâm trạng, suy tư và cảm xúc nội tại của nhân vật.
Một biểu hiện quan trọng khác, thân thể như không gian để văn học diễn giải giới và tính dục.
Trong văn học trung đại, đặc biệt ở thơ Hồ Xuân Hương, thân thể người phụ nữ được mang vào
diễn ngôn văn chương như một cách tự khẳng định tiếng nói nữ giới:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non.”
( Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương )
Thân thể của nhân vật được mô tả một cách trực diện vừa trắng vừa tròn là hành động phá vỡ
những quy ước Nho giáo, vốn coi việc nhắc đến thân thể phụ nữ là bất nhã huống chi là miêu tả
và phơi bày ra như vậy. Thân thể trở thành phương thức tự ý thức của chủ thể nữ, nó phản ánh
khát vọng được nhìn nhận và được sở hữu chính cơ thể của mình. Dưới lăng kính nữ quyền hiện
đại, đây là một trong những diễn ngôn sớm về thân thể như quyền tự chủ và quyền hiện diện
của phụ nữ trong văn học. 4
Không chỉ dừng lại ở phạm vi cá nhân, thân thể còn được biểu tượng hoá để diễn đạt sức mạnh
cộng đồng, bản sắc dân tộc. Hình tượng Thánh Gióng trong truyền thuyết là ví dụ điển hình.
Chi tiết cậu bé Gióng “ăn bảy nong cơm, ba nong cà, uống một hơi cạn khúc sông rồi vươn vai
thành tráng sĩ” thân thể trong tác phẩm được phóng đại nhằm biểu trưng hóa sức mạnh tiềm ẩn
của dân tộc. Hành động vươn vai đứng dậy mà giết giặc của Gióng biểu tượng cho sự trưởng
thành, sẵn sàng chiến đấu của dân tộc ta khi đất nước có biến cố. Ở đây, thân thể không phải đối
tượng miêu tả hiện thực mà là biểu hiện ẩn dụ cho văn hóa, tinh thần, nơi xã hội gửi gắm lý
tưởng , sức mạnh ý chí của dân tộc.
Trong nhiều tác phẩm hiện đại thân thể được coi là công cụ đo đạt quyền lực , đồng thời cũng là
nơi cất lên nỗi đau của những số phận bất công bị kiểm soát bởi những thế lực xấu xa của xã
hội. Các nghiên cứu về văn học Trung Quốc hiện đại cho thấy trong một số tác phẩm như
truyện “Ếch” của Mạc Ngôn thân thể người phụ nữ trong truyện bị đặt dưới sự kiểm soát tuyệt
đối của chính sách sinh sản. Những phụ nữ “đi đẻ theo lệnh”, thân thể họ không còn thuộc về
họ. Công nhân như bị biến thành “ cỗ máy biết thở”. Văn học lúc này sử dụng thân thể để diễn
giải bi kịch của những con người bị tước quyền tự chủ thân thể của chính mình.
Những biểu hiện đa dạng của thân thể trong văn học từ thẩm mỹ hóa, tự ý thức, biểu tượng hóa,
giải thiêng đến chính trị hóa cho thấy thân thể là một mã nghệ thuật màu mỡ để khai thác. Thân
thể không chỉ phản ánh bản chất cá nhân mà còn là nơi hội tụ các vấn đề xã hội, văn hóa và quyền lực.
Tiểu kết : Từ việc khảo sát các quan niệm, biểu hiện của thân thể trong nghệ thuật và văn học,
có thể khẳng định rằng hình tượng “thân thể” không chỉ là một thực thể sinh học, mà còn là một
kí hiệu mang tính thẩm mĩ, văn hóa, xã hội. Trong văn học, thân thể luôn được kiến tạo thông
qua ngôn ngữ nghệ thuật và chịu sự chi phối của các hệ hình tư tưởng, các diễn ngôn đạo đức,
giới tính và quyền lực. Do đó, thân thể trở thành nơi hội tụ và bộc lộ những xung đột sâu sắc
giữa cá nhân và xã hội, giữa bản năng tự nhiên và các thiết chế văn hóa. Các nghiên cứu hiện
đại cho thấy thân thể trong văn học thường được biểu hiện qua nhiều phương diện: thân thể
mang biểu tượng cộng đồng, là không gian của tính dục, có thể là đối tượng bị kiểm soát hoặc
thương mại hóa, và là nơi tích tụ những sang chấn tinh thần. Đặc biệt, trong các tiếp cận gắn với
diễn ngôn thân thể và nữ quyền, thân thể nữ được nhìn nhận như một phạm trù mang tính chính
trị , xã hội, phản ánh rõ nét sự bất bình đẳng giới và cơ chế áp đặt quyền lực trong đời sống con
người. Như vậy, việc tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn thân thể không chỉ giúp mở rộng
biên độ giải mã văn bản, mà còn cho phép nhận diện sâu hơn những vấn đề về con người, đạo
đức và cấu trúc xã hội ẩn sau hình thức nghệ thuật. Những cơ sở lí luận này là tiền đề quan
trọng để đi vào phân tích tác phẩm “Làm đĩ” của nhà văn Vũ Trọng Phụng ,một tác phẩm tiêu
biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam, nơi thân thể, đặc biệt là thân thể nữ, được đặt ở
trung tâm của bi kịch xã hội và diễn ngôn phê phán.
2.Biểu hiện của thân thể trong tác phầm “Làm đĩ” của nhà văn Vũ Trọng Phụng
Từ những cơ sở lí luận về thân thể trong văn học đã được trình bày ở Phần 1, có thể thấy
rằng thân thể là một phạm trù thẩm mĩ , xã hội, chính trị và đạo đức phức hợp, phản ánh sâu sắc
các quan hệ quyền lực, đạo đức và giới tính trong từng bối cảnh lịch sử cụ thể. Trên nền tảng
đó, việc khảo sát tiểu thuyết “Làm đĩ” của Vũ Trọng Phụng không chỉ nhằm nhận diện các biểu 5
hiện nghệ thuật của thân thể, mà còn hướng tới việc làm rõ cách nhà văn sử dụng thân thể như
một công cụ phê phán hiện thực và bộc lộ quan điểm nhân đạo. Phần 2 của bài viết sẽ tập trung
phân tích vấn đề thân thể trong “Làm đĩ”, đặc biệt là thân thể nữ trong mối quan hệ với diễn
ngôn đạo đức, tính dục và quyền lực xã hội.
Tiểu thuyết “Làm đĩ” của Vũ Trọng Phụng ra đời trong bối cảnh xã hội Việt Nam giai
đoạn 1930–1945 một thời kỳ lịch sử đặc biệt, khi xã hội Việt Nam tồn tại trong trạng thái nửa
thực dân, nửa phong kiến, đồng thời chịu tác động mạnh mẽ của quá trình đô thị hóa và giao lưu
văn hóa Đông – Tây. Chính trong hoàn cảnh lịch sử đầy mâu thuẫn ấy, vấn đề thân thể con
người, đặc biệt là thân thể phụ nữ, trở thành một “điểm nóng” của đời sống xã hội và văn hóa,
đồng thời là đối tượng phản ánh và phê phán quan trọng của văn học hiện thực phê phán.
Quá trình đô thị hóa đầu thế kỉ XX đã làm biến đổi sâu sắc cấu trúc đời sống truyền
thống. Sự hình thành tầng lớp thị dân mới, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, báo chí, giáo dục
kiểu Tây học đã góp phần làm lung lay những chuẩn mực đạo đức phong kiến vốn tồn tại bền
vững trong xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, sự thay đổi ấy không diễn ra theo hướng triệt để hay
đồng bộ, mà thường xuyên rơi vào tình trạng nửa vời, chắp vá. Một mặt, xã hội tiếp nhận các
giá trị hiện đại như tự do cá nhân, tình yêu lãng mạn, quyền sống cá nhân mặt khác, vẫn duy trì
những chuẩn mực khắt khe của đạo đức Nho giáo, đặc biệt là trong cách nhìn nhận thân thể và
đời sống giới tính của phụ nữ. Chính sự chồng chéo mâu thuẫn giữa hai hệ giá trị ấy đã tạo nên
một không gian xã hội đầy nghịch lý, nơi thân thể người phụ nữ vừa là đối tượng nhắm đến,
vừa bị kiểm soát và trừng phạt.
Trong bối cảnh đó, thân thể không chỉ còn là một thực thể sinh học tự nhiên mà dần bị ý
thức hệ hóa, trở thành đối tượng của các diễn ngôn đạo đức và quyền lực. Thân thể nữ giới, hơn
bất cứ đối tượng nào khác, bị đặt vào vị trí trung tâm của những chuẩn mực đạo đức truyền
thống như trinh tiết, danh dự, tiết hạnh. Trinh tiết không chỉ đơn là một trạng thái sinh học, mà
bị nâng lên biến thành thước đo đạo đức tuyệt đối, gắn chặt với danh dự gia đình và trật tự xã
hội. Việc kiểm soát thân thể phụ nữ vì thế không đơn thuần mang tính cá nhân mà trở thành một
cơ chế xã hội mang tính hệ thống.
Sự du nhập của văn hóa phương Tây, đặc biệt qua báo chí, tiểu thuyết lãng mạn và giáo dục Tây
học, đã phần nào làm thay đổi nhận thức về thân thể và tình yêu. Tuy nhiên, trong thực tế xã hội
Việt Nam đương thời, những tư tưởng mới ấy thường chỉ tồn tại ở bề mặt, thiếu nền tảng tri
thức và thể chế bảo vệ. Người phụ nữ được khuyến khích “hiện đại hóa” trong cách ăn mặc,
giao tiếp, nhưng lại không được trang bị tri thức về thân thể, giới tính và quyền tự chủ cá nhân.
Điều này tạo nên một nghịch lý sâu sắc thân thể phụ nữ được phơi bày nhiều hơn trong đời sống
đô thị, nhưng quyền làm chủ thân thể của họ lại không hề được thừa nhận.
Chính trong bối cảnh xã hội đầy mâu thuẫn ấy, “Làm đĩ” xuất hiện như một văn bản có
tính chất “phá rào”, trực diện đưa vấn đề thân thể và tính dục nữ giới ra ánh sáng văn chương.
Khác với nhiều tác phẩm đương thời thường né tránh hoặc lãng mạn hóa vấn đề này, Vũ Trọng
Phụng lựa chọn cách tiếp cận hiện thực trần trụi, không che đậy, nhằm phơi bày bản chất phi
nhân và đạo đức giả của xã hội đương thời. Nhà văn không chỉ kể câu chuyện về một cá nhân sa
ngã, mà thông qua thân thể nhân vật nữ, đã đặt ra những vấn đề căn bản về đạo đức, quyền lực và nhân phẩm con người. 6
Trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam, Vũ Trọng Phụng được xem là cây bút có
cái nhìn sắc lạnh và triệt để nhất đối với xã hội thành thị. Nếu “Số đỏ” phơi bày sự lố lăng của
tầng lớp tư sản mới nổi, Giông tố bóc trần mối quan hệ quyền lực – tiền bạc – tình dục trong xã
hội nông thôn và thành thị, thì “Làm đĩ” đi sâu vào phương diện khác đặt thân thể con người
như nơi hội tụ và va chạm của các diễn ngôn xã hội. Việc đặt thân thể nữ vào trung tâm của tác
phẩm không chỉ thể hiện bản lĩnh hiện thực phê phán của nhà văn, mà còn cho thấy một ý thức
nghệ thuật mang tính hiện đại, vượt lên những giới hạn đạo đức thông thường của thời đại.
Đặc biệt tác phẩm không ra đời trong khoảng trống văn học, mà đối thoại trực tiếp với
các diễn ngôn đương thời về người phụ nữ. Nếu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, người phụ
nữ thường được nhìn từ khát vọng cá nhân và tình yêu lãng mạn, thì trong “Làm đĩ”, Vũ Trọng
Phụng phơi bày mặt trái của những khát vọng ấy khi chúng va chạm với một xã hội chưa sẵn
sàng thừa nhận quyền tự do thân thể và tính dục của phụ nữ. Nhân vật Huyền không phải là
biểu tượng của sự buông thả, mà là sản phẩm bi kịch của một xã hội vừa cấm đoán, vừa dụ dỗ,
vừa rao giảng đạo đức, vừa âm thầm dung dưỡng sự sa đọa.
Từ góc độ này, có thể thấy rằng tiểu thuyết không chỉ phản ánh hiện thực xã hội, mà còn
đặt ra một vấn đề mang tính nền tảng thân thể người phụ nữ thuộc về ai? Thuộc về cá nhân hay
thuộc về gia đình, xã hội và các thiết chế quyền lực? Việc Vũ Trọng Phụng đặt câu hỏi này
trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX cho thấy một ý thức nghệ thuật mang tính tiên
phong, vượt trước thời đại.
Bối cảnh lịch sử xã hội của “Làm đĩ” không chỉ là phông nền cho câu chuyện, mà chính
là yếu tố quyết định cách thân thể được nhìn nhận, kiểm soát và phán xét trong tác phẩm. Thân
thể trong “Làm đĩ” là sản phẩm của một xã hội đang khủng hoảng về đạo đức, nơi các giá trị
truyền thống và hiện đại va chạm dữ dội nhưng không tìm được điểm dung hòa. Trên nền bối
cảnh ấy, thân thể nữ trở thành nơi hội tụ những xung đột xã hội sâu sắc nhất, đồng thời mở
đường cho việc phân tích cụ thể hơn các biểu hiện của thân thể trong mối quan hệ với đạo đức, tính dục và quyền lực.
Trong “Làm đĩ”, thân thể người phụ nữ không tồn tại như một thực thể tự nhiên thuộc
quyền sở hữu cá nhân, mà ngay từ đầu đã bị đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của gia đình, lễ giáo
và các chuẩn mực đạo đức phong kiến. Vũ Trọng Phụng đã cho thấy rằng, trong xã hội Việt
Nam đầu thế kỉ XX, thân thể nữ giới là nơi xã hội ký thác các diễn ngôn đạo đức, danh dự và
trật tự quyền lực giới, khiến người phụ nữ bị tước đoạt quyền tự chủ đối với chính cơ thể mình.
Nhân vật Huyền – trung tâm tự sự của tiểu thuyết lớn lên trong một môi trường giáo dục
mang tính cấm đoán và áp đặt. Gia đình và xã hội dạy cô phải “giữ gìn”, phải “trong sạch”,
nhưng lại tuyệt đối né tránh việc trang bị cho cô những hiểu biết tối thiểu về thân thể và giới
tính. Thân thể vì thế trở thành một vùng cấm, một điều “không được nói tới”, thay vì được nhìn
nhận như một phần tự nhiên của đời sống con người. Sự thiếu vắng kiến thức, kinh nghiệm ấy
không phải là ngẫu nhiên, mà là kết quả của một hệ thống đạo đức coi việc kiểm soát thân thể
phụ nữ là điều kiện để duy trì trật tự xã hội.
Trong “Làm đĩ”, trinh tiết được xem như thước đo đạo đức tuyệt đối, nơi giá trị con
người của người phụ nữ bị quy giản vào trạng thái sinh học của thân thể. Khi Huyền đánh mất
trinh tiết, đó không được coi như một biến cố cá nhân, mà lập tức bị xã hội quy kết thành “tội 7
lỗi”. Nhân vật tự thuật: “Tôi không hiểu gì cả. Tôi chỉ biết rằng từ hôm ấy, người ta nhìn tôi
khác hẳn.” Cái “nhìn khác hẳn” ấy chính là biểu hiện của diễn ngôn đạo đức đang vận hành
thân thể từ chỗ được xem là “trong sạch” lập tức bị gắn nhãn “ô uế”, kéo theo sự phán xét và
loại trừ của cộng đồng.
Điều đáng chú ý là, trong cách kiến tạo bi kịch của Huyền, Vũ Trọng Phụng không đặt trọng
tâm vào hành vi cá nhân, mà tập trung phơi bày cơ chế xã hội đứng sau sự phán xét ấy. Huyền
không được giáo dục để hiểu thân thể mình, không được chuẩn bị cho những va chạm của đời
sống giới tính, nhưng lại phải gánh chịu toàn bộ hậu quả đạo đức khi bi kịch xảy ra. Qua đó,
nhà văn đã chỉ ra một nghịch lý cay đắng rằng chính sự khắt khe của lễ giáo, chứ không phải sự
buông thả cá nhân, đã góp phần đẩy người phụ nữ vào con đường sa ngã.
Thân thể nữ trong “Làm đĩ” vì thế bị ý thức hệ hóa mạnh mẽ. Nó không còn là nơi cư trú
của cảm xúc và bản ngã, mà trở thành “địa điểm” để xã hội áp đặt các chuẩn mực đạo đức. Khi
thân thể còn “nguyên vẹn”, người phụ nữ được công nhận, khi thân thể bị tổn hại, họ lập tức bị
tước đoạt tư cách đạo đức. Huyền ý thức sâu sắc điều này khi nhận ra rằng, từ khoảnh khắc ấy,
mọi phẩm chất khác của cô tri thức, nhân cách, cảm xúc đều trở nên vô nghĩa trước con mắt xã hội.
Cơ chế kiểm soát thân thể không chỉ đến từ gia đình, mà còn được duy trì và củng cố bởi
dư luận xã hội. Trong “Làm đĩ”, những ánh nhìn dò xét, những lời đồn đại vô hình nhưng đầy
sức nặng đã tạo thành một mạng lưới giám sát bao quanh thân thể người phụ nữ. Huyền không
chỉ bị phán xét bởi hành vi đã xảy ra, mà còn bị định nghĩa lại toàn bộ con người mình. Như
chính nhân vật thừa nhận: “Người ta không cần biết tôi là ai, người ta chỉ cần biết tôi đã như
thế nào.” Thân thể, trong trường hợp này, trở thành bản án xã hội được tuyên mà không cần xét xử.
Ở đây, có thể thấy rõ tính chất quyền lực của diễn ngôn đạo đức. Quyền lực ấy không cần
đến bạo lực thể xác trực tiếp, mà vận hành thông qua sự xấu hổ, mặc cảm và tự kết án. Huyền
dần nội tâm hóa cái nhìn của xã hội, tự xem thân thể mình là nguồn cơn của tội lỗi: “Tôi thấy
ghét chính thân thể tôi, như thể nó là nguyên nhân của mọi tai họa.” Câu văn cho thấy mức độ
sâu sắc của sự áp bức xã hội không chỉ kiểm soát thân thể từ bên ngoài, mà còn là con dao hai
lưỡi buộc người phụ nữ quay lại trừng phạt chính mình từ bên trong.
Vũ Trọng Phụng đã rất tỉnh táo khi phơi bày tính chất giới của sự kiểm soát này. Trong
cùng một xã hội, thân thể nam giới được hưởng sự khoan dung, thậm chí được hợp thức hóa
trong những hành vi sa đọa, trong khi thân thể nữ giới lại bị gắn chặt với danh dự và đạo đức.
Nhân vật Huyền cay đắng nhận ra sự bất công ấy qua một so sánh ngắn gọn nhưng sắc lạnh:
“Đàn ông thì người ta bảo là trăng hoa, còn đàn bà thì người ta bảo là đĩ.” Câu nói không chỉ
phản ánh định kiến giới, mà còn cho thấy sự bất bình đẳng trong cách xã hội phân phối quyền
lực đạo đức lên thân thể con người.
Từ góc độ này, tác phẩm không đơn thuần là câu chuyện về sự sa ngã của một cá nhân, mà là
một bản cáo trạng đối với hệ thống đạo đức phong kiến và tư sản nửa mùa nơi thân thể phụ nữ
bị biến thành công cụ duy trì trật tự xã hội. Việc kiểm soát thân thể không nhằm bảo vệ người
phụ nữ, mà nhằm bảo vệ danh dự gia đình, quyền lực nam giới và những chuẩn mực đạo đức mang tính hình thức. 8
Có thể khẳng định rằng, trong cuốn tiểu thuyết này thân thể nữ là một “văn bản xã hội” bị
viết lại bởi các diễn ngôn đạo đức và quyền lực. Thông qua việc phơi bày cơ chế kiểm soát và ý
thức hệ hóa thân thể, Vũ Trọng Phụng đã đi đến một cái nhìn nhân đạo sâu sắc bi kịch của
người phụ nữ không bắt nguồn từ thân thể họ, mà từ chính xã hội đã biến thân thể ấy thành đối
tượng phán xét và trừng phạt.
Không chỉ để thân thể nhân vật nữ trong chính tác phẩm của mình được nhìn nhận chủ
yếu như một đối tượng bị kiểm soát và ý thức hệ hóa bởi các diễn ngôn đạo đức lễ giáo, thì sang
bình diện tính dục, Vũ Trọng Phụng tiếp tục đẩy bi kịch ấy đi xa hơn khi trình hiện thân thể
trong trạng thái bị tha hóa sâu sắc. Trong tác phẩm, tính dục không xuất hiện như biểu hiện tự
nhiên của bản năng sống hay khoái cảm cá nhân, mà chủ yếu gắn với sợ hãi, mặc cảm, tổn
thương và bạo lực tinh thần. Qua đó, nhà văn đã tách rời tính dục khỏi diễn ngôn lãng mạn để
biến nó thành một công cụ phê phán xã hội sắc bén.
Khác với nhiều diễn ngôn hiện đại coi tính dục là dấu hiệu của tự do cá nhân, “Làm đĩ”
cho thấy tính dục của người phụ nữ trong xã hội nửa thực dân nửa phong kiến bị đặt trong một
nghịch lý cay đắng vừa bị che giấu, cấm đoán, vừa là đối tượng được nhắm đến khai thác , là
trung tâm gây ra, gánh chịu mọi tội lỗi và sự trừng phạt. Nhân vật Huyền không bước vào đời
sống tính dục bằng sự chủ động hay ý thức lựa chọn, mà trong trạng thái mù mờ, thiếu chuẩn bị
và bị dẫn dắt bởi những áp lực xã hội vô hình. Chính sự thiếu hụt tri thức về thân thể và giới
tính đã khiến những trải nghiệm xác thịt đầu tiên của cô mang nặng cảm giác hoảng sợ và nhục nhã hơn là khoái cảm.
Những miêu tả về trải nghiệm tính dục trong “Làm đĩ” luôn được đặt trong không khí nặng nề,
u ám. Huyền hồi tưởng: “Tôi thấy nhục nhã, sợ hãi, và hình như có cái gì đó trong người tôi
vừa mất đi mãi mãi.” Câu văn cho thấy tính dục không được cảm nhận như một sự mở rộng của
đời sống cảm xúc, mà như một sự mất mát không thể bù đắp. Thân thể, thay vì trở thành nơi trú
ngụ của niềm vui sống, lại trở thành nơi ghi dấu sự đổ vỡ của nhân phẩm và niềm tin vào bản thân.
Điều đáng chú ý là Vũ Trọng Phụng không hề miêu tả tính dục bằng giọng điệu kích
thích hay dung tục. Ngược lại, ông cố ý tước bỏ mọi yếu tố lãng mạn để phơi bày bản chất phi
nhân của những quan hệ xác thịt trong xã hội đương thời. Những lần tiếp xúc thân xác của
Huyền thường gắn với cảm giác trống rỗng, ghê sợ, thậm chí là tự khinh ghét chính mình. Tính
dục, vì thế, không còn là biểu hiện của bản năng tự nhiên, mà trở thành một dấu hiệu của sự áp
bức giới và bất bình đẳng xã hội.
Thân thể phụ nữ bị đặt trong thế bị động tuyệt đối. Họ không được quyền lựa chọn thời
điểm, không gian và ý nghĩa của những trải nghiệm tính dục. Xã hội không cho phép người phụ
nữ được “muốn”, nhưng lại sẵn sàng trừng phạt họ khi “đã”. Chính nghịch lý ấy khiến thân thể
nữ rơi vào trạng thái tha hóa vừa là đối tượng của dục vọng, vừa là đối tượng của sự lên án đạo
đức. Vũ Trọng Phụng đã phơi bày một sự thật cay đắng trong xã hội ấy, thân thể phụ nữ không
được thừa nhận như một chủ thể cảm xúc, mà chỉ bị nhìn nhận như phương tiện thỏa mãn hoặc
như bằng chứng của sự suy đồi.
Sự tha hóa của thân thể còn thể hiện rõ khi Huyền buộc phải bước vào con đường “làm đĩ” như
một phương thức tồn tại. Tại đây, tính dục bị thương mại hóa triệt để. Thân thể không còn thuộc 9
về đời sống riêng tư, mà trở thành hàng hóa trao đổi công khai. Giá trị của thân thể được đo
bằng tuổi trẻ, nhan sắc và khả năng sinh lợi: “Người ta không hỏi tôi nghĩ gì, chỉ hỏi tôi còn trẻ
không, còn đẹp không.” Câu nói cho thấy thân thể đã bị tách rời hoàn toàn khỏi nhân phẩm và
nội tâm, trở thành một loại “vốn” mà người phụ nữ buộc phải khai thác để sinh tồn.
Trong không gian đô thị, sự tha hóa ấy càng trở nên trần trụi. Xã hội tư sản nửa mùa vừa
công khai lên án nghề “làm đĩ” như biểu hiện của suy đồi đạo đức, vừa ngầm dung dưỡng và
hưởng lợi từ chính sự tồn tại của nó. Thân thể phụ nữ bị kéo vào một vòng luẩn quẩn bị đẩy ra
ngoài lề xã hội, nhưng đồng thời lại bị xã hội dom ngó và khai thác. Vũ Trọng Phụng đã chỉ ra
sự đạo đức giả của tầng lớp thị dân, nơi những chuẩn mực đạo đức chỉ tồn tại trên diễn ngôn,
còn trong thực tế, thân thể phụ nữ vẫn bị sử dụng như một công cụ mua vui.
Không chỉ dừng lại ở sự tổn thương thể xác, sự tha hóa của thân thể trong “Làm đĩ” còn
để lại những hệ quả nặng nề về mặt tinh thần. Huyền dần nội tâm hóa cái nhìn khinh miệt của
xã hội, coi thân thể mình như nguồn gốc của tội lỗi và ô nhục. Cô tự thú: “Tôi thấy ghét chính
thân thể tôi, như thể nó là nguyên nhân của mọi tai họa.” Ở đây, thân thể không chỉ bị xã hội
phán xét, mà còn trở thành đối tượng của sự tự trừng phạt. Đây chính là biểu hiện sâu sắc nhất
của sự áp bức: khi nạn nhân tiếp nhận và lặp lại diễn ngôn kết tội của kẻ áp bức.
Vũ Trọng Phụng cũng đặc biệt nhấn mạnh sự bất bình đẳng giới trong cách xã hội nhìn
nhận sự sa đọa tính dục. Đàn ông được phép trăng hoa, được xã hội dung thứ và thậm chí tẩy
rửa quá khứ, trong khi phụ nữ bị giam cầm vĩnh viễn trong dấu ấn của thân thể đã “ô uế”. Thân
thể nữ trở thành một “dấu vết định mệnh”, không thể xóa bỏ, không thể chuộc lại. Chính sự bất
công ấy đã đẩy bi kịch của Huyền từ mức độ cá nhân lên tầm xã hội. Bằng cách trình hiện tính
dục trong trạng thái tha hóa và tổn thương, “Làm đĩ” đã vượt xa mục đích phản ánh hiện thực
đơn thuần. Thân thể và tính dục trong tác phẩm trở thành những ký hiệu xã hội, nơi hội tụ các
xung đột giữa bản năng và đạo đức, giữa cá nhân và quyền lực, giữa con người và những thiết
chế phi nhân. Qua đó, Vũ Trọng Phụng không chỉ phê phán một xã hội suy đồi về đạo đức, mà
còn bộc lộ rõ thái độ nhân đạo khi đặt mình về phía những thân thể bị tổn thương và bị loại trừ. KẾT LUẬN :
Thông qua việc tiếp cận tiểu thuyết “Làm đĩ” của Vũ Trọng Phụng từ góc nhìn thân thể, bài viết
đã làm rõ cách nhà văn kiến tạo thân thể như một trung tâm diễn ngôn nghệ thuật mang ý nghĩa
xã hội và văn hóa sâu sắc. Thân thể trong tác phẩm không chỉ là thực thể sinh học gắn với cá
nhân, mà còn là nơi hội tụ của các diễn ngôn đạo đức, quyền lực và giới tính, qua đó phản ánh
bản chất bất công và đạo đức giả của xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Trong “Làm đĩ” thân
thể phụ nữ bị kiểm soát nghiêm ngặt bởi lễ giáo và các chuẩn mực đạo đức truyền thống, đồng
thời bị tha hóa trong các quan hệ tính dục méo mó và quá trình thương mại hóa của xã hội đô
thị. Thân thể không chỉ chịu tổn thương về thể xác mà còn là không gian tích tụ bi kịch tinh
thần, nơi nhân vật nội tâm hóa cái nhìn phán xét của xã hội và đánh mất quyền tự ý thức về bản
thân. Qua đó, Vũ Trọng Phụng đã phơi bày sự bất bình đẳng giới và tính phi nhân của các thiết
chế xã hội vốn nhân danh đạo đức để áp đặt lên con người yếu đuối, lầm lỡ giống như nhân vật
Huyền trong trong tiểu thuyết. Việc đặt thân thể nữ ở trung tâm bi kịch cho thấy rõ giá trị phê
phán và nhân đạo trong tư duy nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng. “Làm đĩ” không nhằm khai 10
thác thân thể và tính dục như yếu tố gây sốc hay dung tục, mà sử dụng chúng như một phương
tiện để chất vấn các chuẩn mực đạo đức giả, đồng thời bày tỏ sự cảm thông sâu sắc đối với số
phận người phụ nữ. Từ góc độ này, tác phẩm không chỉ là một thành tựu của văn học hiện thực
phê phán, mà còn góp phần hình thành ý thức hiện đại về thân thể, nhân phẩm và quyền sống
của con người trong văn học Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu, có thể khẳng định rằng tiếp cận
văn học từ vấn đề thân thể là một hướng nghiên cứu giàu tiềm năng, giúp mở rộng biên độ giải
mã tác phẩm và kết nối văn học với các vấn đề văn hóa, giới và quyền lực xã hội. Nghiên cứu
“Làm đĩ” của Vũ Trọng Phụng từ góc nhìn này không chỉ góp phần làm sâu sắc thêm giá trị tư
tưởng của tác phẩm, mà còn gợi mở những hướng tiếp cận mới đối với văn học Việt Nam hiện
đại trong bối cảnh đối thoại với các lí thuyết văn học đương đại.
MỤC LỤC THAM KHẢO :
1. Bích Khê. (2010). Thơ Bích Khê. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.
Duras, M. (2010). Diễn ngôn thân thể trong Người tình và Người tình Hoa Bắc. Văn nghệ Quân
đội. Truy cập ngày 15/12/2025, Link URL:
http://vannghequandoi.com.vn/binh-luan-van-nghe/dien-ngon-than-the-trong-nguoi-tinh-va-
nguoi-tinh-hoa-bac-cua-mduras_10110.html
2. Hồ Xuân Hương. (2004). Thơ Hồ Xuân Hương. Nhà xuất bản Văn học.
3. Nam Cao. (2003). Chí Phèo. Nhà xuất bản Văn học.
4. Nguyễn Du. (2002). Truyện Kiều. Nhà xuất bản Văn học.
5. Nguyễn Huy Thiệp. (2018). Ngôn ngữ thân thể và hành trình đi tìm cái đẹp của Nguyễn
Huy Thiệp. Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Truy cập ngày 15/12/2025, Link URL:
https://nguvan.hnue.edu.vn/Nghi%C3%AAn-c%E1%BB%A9u/V%C4%83n-h%E1%BB
%8Dc-Vi%E1%BB%87t-Nam-hi%E1%BB%87n-%C4%91%E1%BA%A1i/p/ngon-ngu-
than-the-va-hanh-trinh-di-tim-cai-dep-cua-nguyen-huy-thiep-413
6. Nguyễn Văn Hùng. (2019). Nhận diện thân thể sáng tác trong văn học đương đại Trung
Quốc. Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Truy cập ngày 15/12/2025, link URL:
https://nguvan.hnue.edu.vn/Nghi%C3%AAn-c%E1%BB%A9u/V%C4%83n-h%E1%BB
%8Dc-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-ngo%C3%A0i/p/nhan-dien-than-the-sang-tac-trong-
van-hoc-duong-dai-trung-quoc-1154
7. Trương Thị Thu Thanh. (2020). Diễn ngôn thân thể và tâm thức nữ quyền trong truyện
ngắn của các tác giả nữ Việt Nam đương đại. Truy cập ngày 15/12/2025, link URL :
https://tailieuhoc.net/dien-ngon-than-the-va-tam-thuc-nu-quyen-trong-truyen-ngan-cua-
tac-gia-nu-viet-nam-duong-dai-11347/
8. Vi Thùy Linh. (2018). Thân thể trong thơ Vi Thùy Linh từ góc độ kí hiệu học. Truy cập ngày 15/12/2025, Link URL:
https://thyebooks.wordpress.com/2018/12/30/than-the-trong-tho-vi-thuy-linhtu-goc-do- ki-hieu-hoc/
9. Vũ Trọng Phụng (1939). Làm đĩ. Nhà xuất bản Văn học. 11
10.Diễn ngôn thân thể trong văn học. (n.d.). Docsity. Truy cập ngày 15/12/2025, Link URL :
https://www.docsity.com/en/docs/dien-ngon-than-the-trong-van-hoc/11884338/
11.Thân thể trong thơ trữ tình Việt Nam sau 1986. Tailieu.vn. Truy cập ngày 15/12/2025, Link URL:
https://tailieu.vn/doc/than-the-trong-tho-tru-tinh-viet-nam-sau-1986-2602633.html
12.Truyền thuyết Thánh Gióng (2000). Trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Nhà xuất bản Mỹ Thuật.
13.Tấm Cám (2000). Trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Nhà xuất bản Mỹ Thuật.
14.Xuân Quỳnh (2011). Thơ Xuân Quỳnh. Nhà xuất bản Văn học. 12