Tài nguyên - xâm nhận thị trường Hàn Quốc - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen
Tài nguyên - xâm nhận thị trường Hàn Quốc - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả
Preview text:
5. Tài nguyên Hàn Quốc. 5.1. Nhân công lành nghề.
Sự phát triển đầy thắng lợi của Hàn Quốc đã đưa nền kinh tế của đất nước này lên vị trí thứ 11
trên thế giới. Các tập đoàn lớn thuộc sở hữu gia đình hoặc các tập đoàn lớn , chẳng hạn như
Samsung, Hyundai và LG, đã trở thành những thương hiệu sản xuất ưu việt trên toàn cầu. Tuy
nhiên, những công nhân lành nghề có kỷ luật cao, có năng lực về công nghệ của Hàn Quốc,
những người đã xây dựng nên những thương hiệu này chỉ được biết đến nhờ lực lượng liên minh
lao động thành công của họ, mà trong những thập kỷ gần đây đã bị chỉ trích là “ích kỷ” tập thể
đã cho phép họ thịnh vượng bằng cách trả giá của những người lao động khác.
Hyung-A Kim kể câu chuyện về thế hệ công nhân lành nghề đầu tiên của Hàn Quốc trong lĩnh
vực công nghiệp nặng và hóa chất, sau quá trình chuyển đổi mạnh mẽ của họ từ những “chiến
binh công nghiệp” thời 1970 sang chiến binh liên minh lao động “Chiến binh Goliat” và cuối
cùng là “lao động tầng lớp quý tộc ”với sự đảm bảo về công ăn việc làm, mức lương cao hơn, và
thậm chí có thể thừa kế công việc cho con cái của họ. Ngược lại, hàng triệu nhân viên không
thường xuyên của Hàn Quốc, đặc biệt là những người trẻ tuổi, phải vật lộn trong công việc bấp bênh và không đảm bảo.
Tài liệu phong phú này chứng minh rằng mục tiêu lâu dài nhất của công nhân công nghiệp là tiến
bộ kinh tế của chính họ, chứ không phải là một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa rộng lớn hơn,
và cho thấy con đường của những cá nhân này thể hiện hậu quả của sự phát triển nhanh chóng như thế nào. 5.2. Nguyên vật liệu thô
Hàn Quốc PPI: Dữ liệu Nguyên liệu thô được báo cáo là 167.800 1995 vào tháng 5 năm 2003.
Con số này giảm so với con số trước đó là 182.800 1995 cho tháng 4 năm 2003. Hàn Quốc PPI:
Dữ liệu nguyên liệu được cập nhật hàng tháng, trung bình 91.600 1995 từ Tháng 1 năm 1980 đến
tháng 5 năm 2003, với 281 quan sát. Dữ liệu đạt mức cao nhất mọi thời đại là 193.000 1995 vào
tháng 1 năm 1998 và mức thấp kỷ lục là 57.310 1995 = 100 vào tháng 1 năm 1980. Hàn Quốc
PPI: Dữ liệu về nguyên liệu vẫn còn hoạt động trong CEIC và được báo cáo bởi Ngân hàng Hàn
Quốc. Dữ liệu được phân loại theo Cơ sở dữ liệu toàn cầu của Hàn Quốc. 5.3. Lao động
Tỷ lệ thất nghiệp tại Hàn Quốc tháng 7 vừa qua ở mức thấp kỷ lục 2,9%. Tình trạng thiếu lao
động đã dẫn đến gia tăng tỷ lệ người cao tuổi - từ 60 tuổi trở lên - trong lực lượng lao động ở
Hàn Quốc lên 58%. Nhưng cho dù như vậy cũng chưa đủ để giảm bớt tình trạng thiếu nhân công
trong các lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp ở nền kinh tế lớn thứ 4 châu Á.
Dữ liệu của Ngân hàng trung ương Hàn Quốc (BOK) cho thấy hơn 230.000 người trong số
những người từ 60 tuổi trở lên đã tìm được việc làm tại các nhà máy và công trường kể từ đầu
năm 2020, trong khi những người ít tuổi hơn không muốn lựa chọn công việc lao động chân tay
và đã rời bỏ các lĩnh vực này.
Lao động nhập cư ngày càng đóng góp quan trọng vào lĩnh vực việc làm trong các nhà máy tại
Hàn Quốc. Dữ liệu của Chính phủ Hàn Quốc cho thấy kể từ đầu năm 2020, lượng lao động nước
ngoài mới nhập cư hằng tháng ở nước này ở mức khoảng 35% mức của năm 2019, thời điểm
trước khi xảy ra đại dịch COVID-19. Nhật Bản cũng đang gặp phải vấn đề tương tự, với các biện
pháp kiểm soát đại dịch nghiêm ngặt khiến lao động nhập cư không được tiếp cận việc làm và do
đó các vị trí tuyển dụng phụ thuộc vào đội ngũ những người lao động cao tuổi trong nước.
Vừa qua, Chính phủ Hàn Quốc cho biết chính phủ dự kiến nới lỏng các hạn chế về thị thực và
giảm bớt quy định đối với lao động nước ngoài để giúp lấp đầy các vị trí tuyển dụng. 5.4. Đổi mới công nghệ
Hàn Quốc là một trong những Quốc gia sáng tạo nhất thế giới. Nước này chỉ đứng sau Đức trong
Chỉ số đổi mới 2020 của Bloomberg, đã đứng đầu danh sách 60 quốc gia trong 5 năm trước đó.
Trong chỉ số Đổi mới toàn cầu năm 2019 do Đại học Cornell, Insead và Tổ chức sỡ hữu trí tuệ
thế giới công bố Hàn Quốc đứng vị trí 11 trong số 129 quốc gia đang xếp hạng.
Cả hai chỉ số đều nêu bật thành tích nổi bật của Hàn Quốc về cường độ nghiên cứu và phát triển
(R&D), một chỉ số dựa trên đầu tư cho R&D của chính phủ và ngành công nghiệp và số lượng
các nhà nghiên cứu làm việc trong và giữa cả hai lĩnh vực. Ví dụ, Hàn Quốc có tỷ lệ lớn nhất về
các nhà nghiên cứu chuyển từ ngành công nghiệp sang học viện trong năm 2017 đến 2019 trong
số 71 quốc gia, dữ liệu từ công ty tuyển dụng học thuật, League of Scholars, cho thấy. 5.5. Giáo dục
Hệ thống trường học hiện đại ở Hàn Quốc gồm sáu năm tiểu học, ba năm trung học cơ sở và ba
năm trung học phổ thông. Học sinh bắt buộc phải học tiểu học và trung học cơ sở nhưng không
phải trả chi phí giáo dục, ngoại trừ một khoản phí nhỏ gọi là “Phí hỗ trợ hoạt động của nhà
trường”. Khoản phí này khác nhau tùy theo từng trường học.
Chương trình đánh giá học sinh quốc tế – do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế thế
giới (OECD) khởi xướng và chỉ đạo – hiện đang xếp hạng giáo dục khoa học của Hàn Quốc tốt
thứ ba trên thế giới và cao hơn mức trung bình của OECD.
Hệ thống giáo dục tại Hàn Quốc gồm
6 cấp, cũng giống hệ thống tại Việt Nam. Tuy nhiên, Hàn
Quốc chú trọng trong việc giáo dục bậc tiểu học với thời gian là 6 năm bắt buộc, nhiều hơn so
với Việt Nam 1 năm, để tạo một nền tảng kiến thức vững chắc cũng như rèn luyện đạo đức và
tính kỷ luật cho học sinh tiểu học trước khi bước vào bậc trung học cơ sở.
Tại các trường ở Hàn Quốc một năm học chia làm 2 kỳ:
Học kỳ 1 bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8,
Học kỳ 2 bắt đầu từ tháng 9 và kết thúc vào tháng 2 năm sau.
Mỗi năm học sẽ có 2 kỳ nghỉ:
Kỳ nghỉ hè từ tháng 7 đến tháng 8 và
Kỳ nghỉ đông từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau.
Thời gian học của học sinh Hàn Quốc nhiều hơn Việt Nam rất nhiều. Trung học học sinh Hàn
Quốc học trên lớp 16 tiếng một ngày kể cả thứ 7 (khoảng từ 8h sáng đến 10 tối). Đối với các học
sinh có lực học trung bình chúng sẽ phải học nhiều hơn để tiến gần tới mục tiêu đậu vào trường
đại học. Thời gian rảnh học sinh Hàn Quốc thường dành nhiều thời gian đọc sách và tự học trên
thư viện để nâng cao tinh thần tự giác học tập và rèn luyện. Vì thời gian học trên lớp chiếm phần
lớn thời gian nên những sinh hoạt ăn uống nghỉ ngơi ngay tại trường với đồ ăn được chuẩn bị sẵn
từ nhà mang theo hoặc có căng tin phục vụ ngay trong khuôn viên trường học.
Từ năm 2015, chính phủ Hàn Quốc đã đặt ra rất nhiều chính sách ưu đãi dành cho sinh viên quốc
tế. Nhằm thu hút được sinh viên quốc tế đến học tập tại đất nước này. Hàn đã công bố kế hoạch
sẽ cán mốc tiếp nhận 200.000 sinh viên quốc tế vào năm 2023. Cho đến nay đã có hơn 100.000
sinh viên quốc tế theo học tại đất nước này. Một con số kỷ lục từ trước tới nay của nền giáo dục Hàn Quốc.
Những chính sách ưu đãi đặc biệt dành riêng cho sinh viên quốc tế có thể kể đến như:
Được phép làm thêm trong khi còn đang đi học và hỗ trợ tìm việc làm thêm cho sinh viên quốc tế.
Mức học phí của du học sinh ngang với học phí của sinh viên Hàn Quốc.
Hàng năm vẫn có rất nhiều các suất học bổng rất hấp dẫn của chính phủ và các trường đại học
của Hàn dành riêng cho sinh viên quốc tế.
Hỗ trợ tìm việc làm sau khi tốt nghiệp cho sinh viên. 5.6. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng ở Hàn Quốc được ước tính sẽ tăng trưởng với tốc độ CAGR khoảng 6% trong giai đoạn dự báo.
Chất lượng cơ sở hạ tầng của Hàn Quốc được xếp hạng cao (6/140 vào năm 2018, 8/137 vào
năm 2017). Chính phủ Hàn Quốc đã công bố các biện pháp mới để duy trì cơ sở hạ tầng an toàn,
bền vững, Chi tiêu cho cơ sở hạ tầng xã hội sẽ trung bình 8 nghìn tỷ KRW mỗi năm từ năm 2020
đến năm 2023. Nhà nước có kế hoạch phân bổ 490,8 tỷ KRW để thay thế các đường ống dẫn khí
và dầu từ năm 2019 đến năm 2023, nhiều hơn gấp bốn lần ngân sách của giai đoạn năm năm trước.
Chính phủ Hàn Quốc đã lên kế hoạch chi 3,9 tỷ USD trong ngân sách năm 2020 cho các công
nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI), nhằm thúc đẩy R&D, cơ sở hạ tầng và tăng trưởng kinh tế.
Hàn Quốc đã lên kế hoạch khởi động 17 nghìn tỷ KRW (14,7 tỷ USD) các dự án cơ sở hạ tầng
của khu vực tư nhân trong năm nay (2020) để thúc đẩy phục hồi kinh tế thông qua đầu tư. Trong
số các dự án cơ sở hạ tầng mới đang được xem xét có các dự án đường bộ và đường sắt chính trị
giá 13,5 nghìn tỷ KRW và các doanh nghiệp liên quan đến môi trường trị giá 3,5 nghìn tỷ
KRW. Ngoài ra, chính phủ sẽ bắt đầu 35 dự án cơ sở hạ tầng khu vực tư nhân trị giá 16 nghìn tỷ KRW từ năm nay (2020).
Là một phần trong nỗ lực thúc đẩy đầu tư của chính phủ, các khoản đầu tư trị giá khoảng 100
nghìn tỷ KRW sẽ được thực hiện thông qua các dự án doanh nghiệp quy mô lớn, dự án khu vực
công và đầu tư tư nhân vào các dự án công trong năm nay (2020). 5.7. Vị trí
Hàn Quốc là một bán đảo dài 750 dặm (1.200 km) nằm ở cực đông của lục địa Châu Á. Ngày
nay, đất nước được chia thành hai miền Nam và Bắc Triều Tiên , nhưng trong tâm trí của hầu
hết người dân, nó vẫn là một quốc gia duy nhất không thể bị chia cắt.
Hàn Quốc có nhiều ngọn núi, nhưng chúng nhỏ so với những ngọn núi khác trên thế giới. Trải
qua hàng triệu năm, đỉnh núi của chúng đã bị mưa gió bào mòn. Hầu hết các đỉnh đều ở độ sâu dưới 1.000 mét.
Trên đảo Jeju của Hàn Quốc và dọc theo một dải hẹp ở phía nam, độ ẩm và lượng mưa cao đã
tạo ra các khu rừng nhiệt đới thường xanh. Bán đảo cũng được bao quanh bởi khoảng 3.000 hòn đảo núi lửa.