Tài sản là gì? Cho ví dụ về tài sản? Nước, không khí, phần mềm có phải là tài sản?
Tài sản là các vật có giá trị bằng ền và là đối tượng của quyền tài sản và các lợi ích vật chất khác. Tài
sản bao gm vt có thực, vật đang tổn tại sẽ có như hoa lợi, lợi tức, vật sẽ được chế tạo theo mẫu đã
được thoả thuận giữa các bên, ền và các giấy ttrị giá được bằng ền và quyền tài sản.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm về tài sản
Tài sản - với tư cách là khách thể của quan hệ sở hữu - đã được Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 c
định như sau:
"Tài sản là vật, ền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.
Vật chính là đối tượng của thế giới vật chất theo nghĩa rộng bao gồm c động vật, thực vật và mọi vật
khác vói ý nghĩa vật lí ở mọi trạng thái (rắn, lỏng, khí).
Vi ý nghĩa là một phạm trù pháp lí, vật là bộ phận của thế gii vật chất có thể đáp ứng được một nhu
cầu nào đó (vật chất) của con người. Tuy nhiên, không phải bất cứ bộ phận nào của thế giới vật chất
đều được coi là vật. Vì vậy, có những bộ phận của thế giới vật chất dạng này thì được coi là vt
nhưng ở dạng khác lại không được coi là vt.
2. Cho ví dụ về tài sản
Ví dụ: Không khí trong tự nhiên, nước suối, nước sông, nước biển... không được coi là vật. Nhưng nếu
các vật này được đóng vào bình nước hay được làm nóng, làm lạnh... lại được coi là vt.
Như vậy, ngoài yếu tố đáp ứng được nhu cầu của con người, vật với tư cách là tài sản phải nằm trong
sự chiếm hữu của con người, có đặc trưng giá trị và trở thành đối tượng của các giao dịch dân sự.
3. Phần mềm máy nh có phải là một dạng tài sản hay không ?
Do sự phát triển của khoa học, công nghệ, khái niệm vật trong khoa học pháp lí cũng được mở rộng.
Ví dụ: Phần mềm trong máy nh hoặc chất thải nếu sử dụng làm nguyên liệu sẽ được coi là vật nhưng
bình thường không được coi là vt.
Vật là tài sản không chỉ là những vật tồn tại hiện hữu mà còn bao gm cnhững vật (hay tài sản) chắc
chắn sẽ có. Điều 175 Bộ luật dân sự năm 2015 đã xác định loại tài sản này là hoa lợi và lợi tức - đây
chính là sự gia tăng của tài sản ữong những điều kiện nhất định. Tương tự, ền và những loại giấy tờ
có giá cũng được xác định là những loại tài sản có nh chất đặc biệt.
Cần phân biệt tài sản với khái niệm hàng hoá trong khoa học chính tri - kinh tế học (là sản phẩm do
con người tạo ra có giá trị và giá trị sử dụng). Giá trị của hàng hoá được xác định bằng lao động xã hội
đã bỏ ra để sản xuất hàng hoá đó. Đất đai, tài nguyên thiên nhiên là vật (tài sản) nhưng không phải
hàng hoá vì không gắn với lao động xã hội. Vì vậy, khái niệm tài sản có phạm vi ngoại diên rộng hơn
khái niệm hàng hoá.
Ngoài vật, ền..., tài sản còn được xác định là quyền tài sản theo quy định tại Điều 115 Bộ luật dân sự
năm 2015:
"Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng ền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở
hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác".
Quyền tài sản hiểu theo nghĩa rộng là quyền của cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thực hiện
hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi
ích vật chất cho mình. Xét theo ý nghĩa này thì quyền sở hữu cũng là quyền tài sản (vật quyền). Quyền
yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ tài sản (trái quyền) cũng là quyền tài sản. Trên cơ sở quan niệm
như vậy, Luật La Mã phân loại quyền tài sàn (quyền dân sự) thành vật quyền và trái quyền mà không
phân thành quyền tài sản và quyền sở hữu vì suy cho cùng quyền sở hữu tài sản cũng là quyền tài sản.
Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định quyền tài sản là quyền trị giá được bằng ền. Theo quy
định này, nhà lập pháp muốn nói tới quyền đối nhân, tức là quyền của một chủ thể đối với một chủ
thể khác và quyền này trị giá bằng ền.
Vậy, theo quy định tại Điều 115 thì quyền tài sản là quyền yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ
giá trị bằng một khoản ền nhất định như trả nợ, bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu người khác
chuyển giao giá trị của một vật. Ví dụ: quyền yêu cầu thanh toán giá trị tài sản chung.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự
quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phạm vi tài sản với tư cách là khách thể của
quan hệ sở hữu là không hạn chế. Chúng bao gồm toàn bộ các tư liệu sản xuất và tư liệu êu dùng
trong xã hội. Nghĩa là quyền sở hữu có thể được xác lập với bất kì loại tài sản nào, miễn là pháp luật
không cấm lưu thông dân sự.
Bất động sản và động sản là hai êu chí để phân loại tài sản trong quyền sở hữu. Chúng ta có thể
nghiên cứu các hệ thống luật chuyên ngành khác như luật kinh doanh bất động sản để m hiểu chi ết
về các loại tài sản này.

Preview text:

Tài sản là gì? Cho ví dụ về tài sản? Nước, không khí, phần mềm có phải là tài sản?
Tài sản là các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của quyền tài sản và các lợi ích vật chất khác. Tài
sản bao gồm vật có thực, vật đang tổn tại sẽ có như hoa lợi, lợi tức, vật sẽ được chế tạo theo mẫu đã
được thoả thuận giữa các bên, tiền và các giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản.

Mục lục bài viết
1. Khái niệm về tài sản
Tài sản - với tư cách là khách thể của quan hệ sở hữu - đã được Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 xác định như sau:
"Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.
Vật chính là đối tượng của thế giới vật chất theo nghĩa rộng bao gồm cả động vật, thực vật và mọi vật
khác vói ý nghĩa vật lí ở mọi trạng thái (rắn, lỏng, khí).

Với ý nghĩa là một phạm trù pháp lí, vật là bộ phận của thế giới vật chất có thể đáp ứng được một nhu
cầu nào đó (vật chất) của con người. Tuy nhiên, không phải bất cứ bộ phận nào của thế giới vật chất
đều được coi là vật. Vì vậy, có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này thì được coi là vật
nhưng ở dạng khác lại không được coi là vật.

2. Cho ví dụ về tài sản
Ví dụ: Không khí trong tự nhiên, nước suối, nước sông, nước biển... không được coi là vật. Nhưng nếu
các vật này được đóng vào bình nước hay được làm nóng, làm lạnh... lại được coi là vật.

Như vậy, ngoài yếu tố đáp ứng được nhu cầu của con người, vật với tư cách là tài sản phải nằm trong
sự chiếm hữu của con người, có đặc trưng giá trị và trở thành đối tượng của các giao dịch dân sự.

3. Phần mềm máy tính có phải là một dạng tài sản hay không ?
Do sự phát triển của khoa học, công nghệ, khái niệm vật trong khoa học pháp lí cũng được mở rộng.
Ví dụ: Phần mềm trong máy tính hoặc chất thải nếu sử dụng làm nguyên liệu sẽ được coi là vật nhưng
bình thường không được coi là vật.

Vật là tài sản không chỉ là những vật tồn tại hiện hữu mà còn bao gồm cả những vật (hay tài sản) chắc
chắn sẽ có. Điều 175 Bộ luật dân sự năm 2015 đã xác định loại tài sản này là hoa lợi và lợi tức - đây
chính là sự gia tăng của tài sản ữong những điều kiện nhất định. Tương tự, tiền và những loại giấy tờ
có giá cũng được xác định là những loại tài sản có tính chất đặc biệt.

Cần phân biệt tài sản với khái niệm hàng hoá trong khoa học chính tri - kinh tế học (là sản phẩm do
con người tạo ra có giá trị và giá trị sử dụng). Giá trị của hàng hoá được xác định bằng lao động xã hội

đã bỏ ra để sản xuất hàng hoá đó. Đất đai, tài nguyên thiên nhiên là vật (tài sản) nhưng không phải
hàng hoá vì không gắn với lao động xã hội. Vì vậy, khái niệm tài sản có phạm vi ngoại diên rộng hơn khái niệm hàng hoá.

Ngoài vật, tiền..., tài sản còn được xác định là quyền tài sản theo quy định tại Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015:
"Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở
hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác".

Quyền tài sản hiểu theo nghĩa rộng là quyền của cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thực hiện
hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi
ích vật chất cho mình. Xét theo ý nghĩa này thì quyền sở hữu cũng là quyền tài sản (vật quyền). Quyền
yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ tài sản (trái quyền) cũng là quyền tài sản. Trên cơ sở quan niệm
như vậy, Luật La Mã phân loại quyền tài sàn (quyền dân sự) thành vật quyền và trái quyền mà không
phân thành quyền tài sản và quyền sở hữu vì suy cho cùng quyền sở hữu tài sản cũng là quyền tài sản.

Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền. Theo quy
định này, nhà lập pháp muốn nói tới quyền đối nhân, tức là quyền của một chủ thể đối với một chủ
thể khác và quyền này trị giá bằng tiền.

Vậy, theo quy định tại Điều 115 thì quyền tài sản là quyền yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ có
giá trị bằng một khoản tiền nhất định như trả nợ, bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu người khác
chuyển giao giá trị của một vật. Ví dụ:
quyền yêu cầu thanh toán giá trị tài sản chung.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự
quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phạm vi tài sản với tư cách là khách thể của
quan hệ sở hữu là không hạn chế. Chúng bao gồm toàn bộ các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng
trong xã hội. Nghĩa là quyền sở hữu có thể được xác lập với bất kì loại tài sản nào, miễn là pháp luật
không cấm lưu thông dân sự.

Bất động sản và động sản là hai tiêu chí để phân loại tài sản trong quyền sở hữu. Chúng ta có thể
nghiên cứu các hệ thống luật chuyên ngành khác như luật kinh doanh bất động sản để tìm hiểu chi tiết
về các loại tài sản này.