
















Preview text:
Câu 2: 
Khái niệm: Tư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất,những mối 
liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật và hiệntượng trong hiện thực khách quan 
mà trước đó ta chưa biết 
-Quá trình tư duy bao gồm nhiều giai đoạn, từ khi cá nhân gặp những tìnhhuống có vấn đề và 
nhận thức được vấn đề, đến khi vấn đề đó được giải quyết.Đó là các giai đoạn: xác định vấn đề 
và biểu đạt; xuất hiện các liên tưởng; sànglọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết; kiểm tra 
giả thuyết; giải quyết nhiệmvụ tư duy 
-Tư duy là một mức độ nhận thức mới về chất so với cảm giác và tri giác.Nếu cảm giác và tri 
giác mới chỉ phản ánh được những thuộc tính bên ngoài,những mối liên hệ bên ngoài của sự vật, 
hiện tượng thì tư duy phản ánh những thuộc tính bên trong, bản chất của sự vật, hiện tượng; phản 
ánh những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính chất quy luật của sự vật và hiện tượng trong  hiện thực khách quan. 
-Tư duy có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động thực tiễn cũng như đối với hoạt động 
nhận thức của con người. Tư duy giúp con người nhận thức được quy luật khách quan từ đó có 
thể dự kiến một cách khoa học xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng và có kế hoạch biện 
pháp cải tạo hiện thực khách quan Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển của mình, con người 
không chỉ tư duy nhằm giải quyết các vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra mà con người còn tiến 
hành tư duy nhằm lĩnh hội nền văn hóa xã hội để hình thành và phát triển nhân cách của mình, 
trên cơ sở đó đóng góp những kết quả hoạt động của mình vào kho tàng văn hóa xã hội của loài  người. 
Đặc điểm của tư duy: Tư duy có các đặc điểm cơ bản: tính có vấn đề, tính gián tiếp, tính trừu 
tượng và tính khái quát hóa, tư duy gắn liền với ngôn ngữ, tư duy liên hệ với nhận thức cảm tính. 
1. Tính “có vấn đề” của tư duy 
-Vấn đề là những tình huống, hoàn cảnh chứa đựng một mục đích, một vấn đề mới mà những 
hiểu biết cũ, những phương pháp hành động cũ tuy còn cần thiết song không đủ sức giải quyết. 
Trên thực tế, tư duy chỉ được nảy sinh khi chúng ta gặp tình huống có vấn đề. Tình huống “có 
vấn đề” là tình huống chưa có đáp số nhưng đáp số đã tiềm tàng bên trong tình huống chứa điều 
kiện giúp ta tìm ra đáp số đó. Muốn giải quyết vấn đề đó con người phải tìm cách thức giải quyết 
mới, tức là con người phải tư duy. 
Ví dụ: Giả sử để giải một bài toán, trước hết học sinh phải nhận thức được yêu cầu, nhiệm vụ 
của bài toán, sau đó nhớ lại các quy tắc, công thức, định lí có liên quan về mối quan hệ giữa cái 
đã cho và cái cần tìm, phải chứng minh để giải được bài toán. Khi đó tư duy xuất hiện. 
-Tuy nhiên, không phải bất cứ hoàn cảnh nào tư duy cũng xuất hiện. Vấn đề chỉ trở nên “tình 
huống có vấn đề” khi: 
+chủ thể nhận thức được tình huống có vấn đề, nhận thức được mâu thuẫn chứa đựng trong vấn  đề 
+chủ thể phải có nhu cầu giải quyết và phải có những tri thức liên quan đến vấn đề. 
+Vừa sức với chủ thể 
Ví dụ: Nếu đặt câu hỏi “Giai cấp là gì?” với học sinh lớp 1 thì sẽ không làm học sinh phải suy  nghĩ.  + Ý nghĩa:     
• Kích thích tính tích cực nhận thức của người học, thúc đẩy sự phát triển của bản thân. 
• Làm cơ sở cho việc đề ra phương pháp dạy học mới hiện nay, dạy học nêu vấn đề.  + Bài học sư phạm: 
• Phải đưa học sinh vào những tình huống có vấn đề để kích thích học sinh tư duy (Lưu ý: 
cần phải xem xét khả năng hiện có của đối tượng để đặt ra tình huống phù hợp). 
• Phải phân loại trình độ học sinh để đưa ra những bài tập phù hợp. 
• Trong dạy học luôn "nguỵ trang" một hay một số dữ kiện. 
• Hệ thống câu hỏi phải gợi mở... 
• Một bài toán có nhiều đáp án tự chọn... đều nhằm tạo hoàn cảnh có vấn đề để kích thích  học sinh suy nghĩ. 
2. Tính gián tiếp của tư duy: Thể hiện ở 3 phương diện: 
-Xảy ra khi ko có SVHT tđ tr tiếp. Ở mức độ nhận thức cảm tính, con người p/ ánh tr tiếp 
SVHT= giác quan của mình, trên c sở đó ta có h/a cảm tính về SVHT. Đến tư duy, con người ko 
nhận thức thế giới 1 cách tr tiếp mà có khả năng nhận thức nó 1 cách gián tiếp. 
-tính gián tiếp của tư duy thể hiện trước hết ở việc con người sử dụng ngôn ngữ để tư duy. Khi tư 
duy chúng ta sẽ sử dụng ngôn ngữ để thể hiện những tư duy của mình, con người tư duy bằng 
não vì thế những gì ta tư duy không thể thể hiện ra bên ngoài cũng như người khác không thể  nhìn thấy được. 
Nhờ có ngôn ngữ mà con người sử dụng các kết quả nhận thức (quy tắc, công thức, khái niệm…) 
vào quá trình tư duy (phân tích tổng hợp, so sánh…) để nhận thức được cái bên trong bản chất 
của sự vật hiện tượng. Vì vậy ngôn ngữ là một phương tiện nhận thức đặc thù của con người. Ví 
dụ: để giải một bài toán thì trước hết học sinh phải biết được yêu cầu, nhiệm vụ của bài toán, nhớ 
lại các công thức định lí… có liên quan để giải bài toán. Ta thấy rõ trong quá trình giải bài toán 
đó con người đã dùng ngôn ngữ thể hiện các quy tắc định lí, ngoài ra còn có cả kinh nghiệm của 
bản thân chủ thể thông qua giải các bài tập trước đó 
-trong quá trình tư duy con người sử dụng các phương tiện công cụ khác nhau để nhận thức sự 
vật, hiện tượng mà không thể trực tiếp tri giác. Ví dụ: muốn biết nhiệt độ của nước, chúng ta có 
thể dùng nhiệt kế để đo nhiệt độ. Sở dĩ có thể nhận thức được gián tiếp vì giữa các sự vật hiện 
tượng mang tính quy luật 
-Nhờ có tính gián tiếp mà tư duy của con người đã mở rộng không giới hạn những khả năng 
nhận thức của con người, con người không chỉ phản ánh những gì xảy ra trong hiện tại mà còn 
phản ánh cả quá khứ và tương lai. Ví dụ: từ những dữ liệu thiên văn, con người nghiên cứu rồi 
có thể dự báo được thời tiết, nhờ đó mà phòng tránh được những thiên tai như bão, lũ lụt, động 
đất… giảm thiểu thiệt hại cho nhân loại. 
-KLSP:• Không nên cung cấp đầy đủ, rõ ràng các dữ kiện khi ra bài tập cho học sinh để phát huy 
khả năng suy luận của các em. 
• Sử dụng đồ dùng trực quan hợp lý, đúng mực, nếu lạm dụng sẽ làm mất dần khả năng phản 
ánh gián tiếp của tư duy tập thể của học sinh bằng cách trao đổi, thảo luận nhóm... 
+Dấu hiệu trung gian phải cxac 
+Rèn luyện khả năng ngngu cho HS 
3. Tính trừu tượng và khái quát hóa của tư duy     
-Khác với nhận thức cảm tính, tư duy không phản ánh hiện tượng một cách cụ thể riêng lẻ. Tư 
duy có khả năng trừu xuất khỏi sự vật, hiện tượng những thuộc tính, những dấu hiệu cụ thể, cá 
biệt chỉ giữ lại những thuộc tính bản chất nhất, chung cho nhiều sự vật, hiện tượng rồi trên cơ sở 
đó mà khái quát các sự vật, hiện tượng riêng lẻ khác nhau nhưng có chung những thuộc tính bản 
chất thành một nhóm, một loại, một phạm trù. Nói cách khác tư duy mang tính trừu tượng và  khái quát. 
-Trừu tượng hóa là quá trình con người sử dụng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc tính, 
những liên hệ, quan hệ thứ yếu không cần thiết và chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết để tư duy. Ví 
dụ: khi người ta nghĩ tới “cái ghế” là một cái ghế nói chung chứ không chỉ nghĩ đến cụ thể là cái 
ghế đó to hay nhỏ, làm bằng gỗ hay nhựa… 
-Khái quát hóa là quá trình con người dùng trí óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác nhau có 
chung thuộc tính liên hệ, quan hệ nhất định thành một nhóm một loại. Ví dụ: khái quát gộp 
những đồ vật có thuộc tính: giấy có nhiều chữ, có nội dung, có tên tác giả, có giá bìa, có màu 
sắc… tất cả xếp chung vào nhóm sách. 
⟶ Tính trừu tượng là cơ sở để có tính khái quát của tư duy. Đây là đặc điểm đặc trưng nhất của 
tư duy, là cơ sở phân biệt giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. 
+ Ý nghĩa: Nhờ có tính trừu tượng và khái quát của tư duy mà con người có khả năng phản ánh 
được những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ, quan hệ có tính chất quy luật của sự vật hiện 
tượng; nhận thức chúng, dự đoán chiều hướng phát triển và cải tạo chúng. 
-Nhờ có tính trừu tượng và khái quát của tư duy con người không chỉ giải quyết được những 
nhiệm vụ hiện tại mà có thể giải quyết được những nhiệm vụ của tương lai. Nhờ có tính khái 
quát, tư duy trong khi giải quyết nhiệm vụ cụ thể vẫn có thể xếp nó vào một nhóm, một loại, một 
phạm trù để có những quy tắc phương pháp giải quyết tương tự.  -KLSP: 
• Cần rèn luyện cho học sinh khả năng nhanh chóng phát hiện ra những dấu hiệu chung, những 
mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật. 
• Cần phải hệ thống hoá tri thức cho học sinh. 
+Chọn lọc cái chung nhất để tr bày 
+Cần có sự tóm tắt, khái quát v đề 
+Khi giải quyết các nvu, cần xếp nó vào 1 nhóm, 1 phạm trù nhất định, sd những k/n, q tắc để  giải q v đề 
.4. Tư duy gắn liền với ngôn ngữ 
-Sở dĩ tư duy mang tính “có vấn đề”, tính gián tiếp, tính trừu tượng và khái quát vì nó gắn chặt 
với ngôn ngữ. Tư duy và ngôn ngữ có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nếu không có ngôn ngữ 
các quá trình tư duy của con người không diễn ra được đồng thời sản phẩm của tư duy cũng 
không được người khác tiếp nhận. Tư duy gắn liền với ngôn ngữ, đây còn là một đặc điểm khác 
biệt cơ bản giữa tâm lí người và tâm lí động vật. Tâm lí động vật bao giờ cũng dừng lại ở tư duy 
hành động trực quan, không có khả năng vượt qua khỏi phạm vi đó 
-Mối liên hệ giữa tư duy và ngôn ngữ là mối liên hệ biện chứng. Tư duy không thể tồn tại dưới 
bất kì hình thức nào khác ngoài ngôn ngữ. Ngôn ngữ cố định lại các kết quả của tư duy, là vỏ vật 
chất của tư duy và là phương tiện biểu đạt kết quả của tư duy, do đó có thể khách quan hóa kết 
quả của tư duy người khác cũng như cho chính bản thân chủ thể tư duy. Và ngược lại, bất kì ý     
nghĩ, tư tưởng nào cũng đều nẩy sinh phát triển gắn liền với ngôn ngữ. Nếu không có tư duy thì 
ngôn ngữ chỉ là sản phẩm của chuỗi âm thanh vô nghĩa. Tuy nhiên ngôn ngữ không phải là tư 
duy, ngôn ngữ chỉ là phương tiện của tư duy. Đó là mối liên hệ giữa nội dung và hình thức. Ví 
dụ: trong quá trình tư duy giải bài tập toán thì phải sử dụng các công thức, kí hiệu, khái niệm 
được biểu hiện dưới dạng ngôn ngữ, nếu không có ngôn ngữ thì chính bản thân người đang tư 
duy cũng không thể giải được bài tập 
+ Ý nghĩa: Nhờ có ngôn ngữ mà tư duy con người có tính trừu tượng và khái quát, tính gián tiếp,  tính có vấn đề,...  -KLSP: 
+GV có n vụ trau dồi rèn luyện ngngu cho HS qua bộ môn của mik 
+HS cx phải tự giác rèn luyện ngngữ 
+ Ứng dụng: Trong dạy học việc phát triển tư duy cho học sinh không tách rời với việc trau dồi 
ngôn ngữ. Đặc biệt việc giúp cho học sinh nắm vững ngôn ngữ khoa học của môn học có ý nghĩa 
quan trọng trong việc phát triển tư duy trừu tượng cho học sinh. Ngôn ngữ càng phong phú, 
chính xác, giàu hình tượng thì tư duy lôgic, ngắn gọn và dễ hiểu, tập cho học sinh diễn đạt những  ý nghĩ của mình. 
5. Tư duy gắn liền với hoạt động nhận thức cảm tính 
+ Biểu hiện: "Không có tư duy nào trần tục cả, tư duy không xuất phát từ con số không" (Lênin). 
-Nhận thức cảm tính ảnh hưởng đến tư duy: 
+cảm giác tri giác cung cấp ng liệu cho tư duy 
+Tư duy phải dựa vào tài liệu cảm tính do cảm giác tri giác đem đến 
Ví dụ: Khi có một vụ tai nạn giao thông xảy ra mà ta thấy. Thì trong đầu ta sẽ đặt ra hàng loạt 
các câu hỏi như: Tại sao lại xảy ra tai nạn? Ai là người có lỗi? … đó là từ những nhận thức cảm 
tính như: nhìn, nghe… quá trình tư duy bắt đầu xuất hiện. 
-Ngược lại, tư duy cũng ảnh hưởng đến nhận thức cảm tính, đó là làm cho khả năng cảm giác của 
con người tinh vi, nhạy cảm hơn và làm cho tri giác của con người mang tính lựa chọn, tính ý 
nghĩa. Tư duy chính là kim chỉ nam định hướng cho nhận thức cảm tính cần tập trung vào sự vật, 
hiện tượng nào, từ đó đạt đến cái đích đúng theo định hướng, như vậy nhận thức cảm tính mới 
sâu sắc và chính xác được. Chính vì lẽ đó, Ph. Angghen đã viết: “Nhập vào với con mắt của 
chúng ta chẳng những có cảm giác khác mà còn có hoạt động của tư duy ta nữa”.  + Ứng dụng: 
Việc phát triển tư duy phải gắn liền với việc rèn luyện cảm giác, tri giác, năng lực quan 
sát và trí nhớ cho học sinh. Bởi lẽ thiếu những tài liệu cảm tính thì tư duy không thể diễn ra  được. 
Tăng cường dạy học trực quan nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức cảm tính. 
Song không phải bất cứ lúc nào, nó cũng có tác dụng tích cực đối với việc nắm vững tri thức của 
học sinh. Nếu sử dụng thiếu làm cho học sinh không thấy hết tính chất đa dạng, biến thiên của sự 
vật. Làm cho tri thức phiến diện, dẫn đến khái quát không đầy đủ và phản ánh không đúng bản 
chất của sự vật. Nếu sử dụng tràn lan thì hạ thấp tính tích cực, kìm hảm sự phát triển tư duy trừu 
tượng của học sinh. Việc sử dụng trực quan cần phải đúng lúc, đúng chỗ, mới phát huy được 
hiệu quả của nó. Điều này phụ thuộc vào tài năng sư phạm của người thầy giáo trong quá trình  dạy học.     
➢ Từ những đặc đ của tư duy, có thể rút ra những kết luận cần thiết trong quá trình giảng 
dạy và giáo dục của người giáo viên như sau:  (T145)    Câu 5 
Quy luật h thành lĩ xảo: 
1 *Quy luật về sự tiến bộ không đều của kĩ xảo: 
Trong quá trình luyện tập kĩ xảo có sự tiến bộ không đều 
- Có loại kĩ xảo khi mới luyện tập thì tiến bộ nhanh, sau đó chậm dần.VD:Khi mới học lái xe, 
học viên thường nắm được các thao tác cơ bản như khởi động xe, đổi số, đánh lái, sau một vài 
buổi tập.Nhưng để lái xe an toàn trong mọi điều kiện (như trong giao thông đông đúc, trời mưa, 
hay ban đêm) hoặc lái xe một cách điêu luyện (như đỗ xe nhanh, lái xe địa hình) thì cần nhiều 
thời gian và kinh nghiệm hơn. 
- Có loại kĩ xảo khi mới luyện tập thì tiến bộ chậm, nhưng đến một giai đoạn thì tiến bộ nhanh. 
Ví dụ, Chơi cờ (ví dụ: cờ vua, cờ tướng): Khi mới học, người chơi có thể cảm thấy bị "ngợp" bởi các quy 
tắc, chiến thuật, và phải suy nghĩ rất lâu để đưa ra nước đi hợp lý. Tuy nhiên, sau khi làm quen và tích 
lũy kinh nghiệm, họ bắt đầu nhận ra các mô hình quen thuộc trong trận đấu và có thể lên kế hoạch 
chiến lược nhanh hơn, dẫn đến cải thiện vượt bậc. 
- Có trường hợp khi bắt đầu luyện tập thì sự tiến bộ tạm thời lùi lại sau đó tăng dần. Ví dụ, Khi 
người học ngoại ngữ quen với cách phát âm sai, họ có thể giao tiếp dễ dàng hơn ở mức độ cơ 
bản. Tuy nhiên, khi giáo viên yêu cầu họ sửa lỗi phát âm để đạt độ chính xác cao hơn (ví dụ: 
trong tiếng Anh, âm "th" hoặc trọng âm từ), họ có thể cảm thấy khó nói hơn và tốc độ giao tiếp 
giảm. Sau một thời gian luyện tập, cách phát âm chuẩn sẽ giúp họ nói tự tin hơn và hiệu quả hơn. 
- Nắm được quy luật này, khi hình thành kỹ xảo cần phải kiên trì, không nóng vội, không chủ 
quan để luyện tập có kết quả  VD: 
• Dốt đến đâu học lâu cũng biết 
• Ngọc kia chuốt mãi cũng tròn, 
• Sắt kia mài mãi cũng còn nên kim. 
• Lửa thử vàng gian nan thử sức. 
• Luyện mãi thành tài, miệt mài tất giỏi. 
• Người có chí thì nên, nhà có nền thì vững. 
• Kiến tha lâu đầy tổ.  • Vận dụng: 
- Thường xuyên củng cố hành động cũ. 
- Kết hợp các phương pháp rèn luyện kỹ xảo, nhưng chú ý để các phương pháp không ảnh hưởng  xấu đến nhau. 
- Tổ chức các cuộc thi để rèn luyện hành động, phản xạ tạo hứng thú cho học sinh. 
- Khi đã đạt đến "đỉnh" của kỹ xảo bằng phương pháp nào đó, muốn đạt kỹ xảo cao hơn phải đổi  phương  pháp. 
2*Quy luật về sự tác động qua lại giữa kĩ xảo cũ và kĩ xảo mới     
Trong quá trình luyện tập kỹ xảo mới, những kỹ xảo đã có (cũ) ảnh hưởng rõ rệt đến việc hình 
thành kỹ xảo mới. Sự ảnh hưởng này diễn ra theo hai chiều hướng sau: 
+ Kỹ xảo cũ ảnh hưởng tốt, có lợi cho việc hình thành kỹ xảo mới, làm cho kỹ xảo mới 
hình thành nhanh hơn, dễ dàng hơn, bền vững hơn. Đó là hiện tượng di chuyển (hay còn gọi là 
cộng) kỹ xảo. Ví dụ, đã biết đánh máy chữ (máy cơ) thì việc soạn thảo văn bản bằng máy vi tính 
dễ dàng hơn. Khi học một ngoại ngữ thành thạo sẽ tạo thuận lợi cho việc học ngoại ngữ thứ hai. 
+ Kỹ xảo cũ ảnh hưởng xấu, gây trở ngại cho việc hình thành kỹ xảo mới, đó là hiện 
tượng “giao thoa” kỹ xảo. Ví dụ, một người chơi bóng bàn giỏi, khi chuyển sang chơi cầu lông 
những động tác séc bít, cắt xoáy bóng bàn lúc đầu cũng được sử dụng để séc bít, đỡ cầu. Điều đó 
làm cho việc chơi cầu lông khó khăn hơn. Học tiếng nước ngoài mà nói viết theo ngữ pháp tiếng  Việt. 
Do đó, khi luyện tập hình thành kỹ xảo mới cho học sinh ta cần tìm hiểu và tính đến các 
kỹ xảo đã có ở học sinh. 
VD: +Ngựa quen đường cũ  + Phép vua thua lệ làng 
+ Nguồn đục thì dòng không trong, gốc cong thì cây không thẳng  • Vận dụng: 
- Những hành động cũ là nền tảng cho những hành động mới. 
- Vận dụng linh hoạt các kĩ xảo cũ và mới để đạt hiệu quả tốt trong công việc và cuộc sống. 
3*Quy luật về đỉnh của phương pháp luyện tập 
-Mỗi phương pháp luyện tập kĩ xảo chỉ đem lại kết quả cao nhất đối với nó, gọi là “đỉnh” của  phương pháp đó. 
-Muốn đạt kết quả cao hơn phải thay đổi quá trình luyện tập. Quy luật này cho ta thấy rõ sự cần 
thiết phải thường xuyên thay đổi phương pháp giảng dạy, học tập và công tác. 
Ví dụ: Chạy bộ (hoặc các môn thể thao sức bền): 
• Quá trình: Một người tập chạy bộ mỗi ngày với quãng đường cố định, ví dụ 5 km trong 
30 phút. Ban đầu, họ cải thiện rất nhanh về thời gian và sức bền. 
• "Đỉnh": Sau một thời gian, họ đạt tốc độ tối đa hoặc hoàn thành 5 km mà không cảm 
thấy thử thách. Dù tiếp tục luyện tập, thời gian hoặc sức bền không cải thiện thêm. 
• Giải pháp: Tăng quãng đường, thay đổi cường độ, hoặc thêm bài tập HIIT (chạy nước 
rút kết hợp chạy chậm) để kích thích cơ thể vượt qua giới hạn. 
• Con đường cao không qua núi thấp 
• Muốn trồng cây được bóng mát, phải chăm sóc từ ngọn cây 
• Chuột chạy mèo nhảy 
• Nuôi chim không chỉ để nghe hot  Vận dụng: 
- Giáo viên nên luôn cập nhật và áp dụng các phương pháp giảng dạy mới và hiệu quả. Họ nên 
sẵn lòng thay đổi cách tiếp cận và xây dựng môi trường học tập khuyến khích sự sáng tạo và 
tích cực từ phía học sinh. 
- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần tạo ra môi trường thúc đẩy học sinh khám phá, tìm 
hiểu và phát triển kỹ năng mới. Điều này có thể kích thích sự tò mò và đam mê học tập của học  sinh.     
- Đạt thành tích học tập cao, học sinh cần có quyết tâm và sẵn lòng vượt qua khó khăn. Thay vì 
sợ hãi và tránh né những thử thách, họ nên chấp nhận những núi đồi của kiến thức và chăm chỉ  vượt qua chúng.   
4*Quy luật dập tắt kĩ xảo 
-Một kĩ xảo đã được hình thành nếu không luyện tập, củng cố và sử dụng thường xuyên có thể bị 
suy yếu và cuối cùng bị mất đi. Ví dụ, một người chơi bóng bàn giỏi, nhưng không luyện tập, 
củng cố thường xuyên, thì những kỹ năng, kỹ xảo trong việc thực hiện các thao tác chơi bóng sẽ  bị mai một đi. 
Ngoài ra, chúng ta còn thấy có sự dập tắt kỹ xảo tạm thời, khi con người có những xúc 
động mạnh mẽ, khi bị mệt mỏi. 
-Cần củng cố, giữ gìn, ôn tập kiên trì và có hệ thống. 
* Ở mức độ kỹ năng vẫn còn là hành động ý chí, đòi hỏi phải “động não”, suy xét, tính toán, 
phải có nỗ lực của ý chí thì mới hoàn thành được. Chỉ khi nào kỹ năng đã được củng cố vững 
chắc, trở nên tự động hoá, hoặc bán tự động hoá, thì mới biến thành kỹ xảo. Kỹ xảo là kỹ năng 
đã được củng cố và tự động hoá.  VD:  • Văn ôn võ luyện 
• Có công mài sắt, có ngày nên kim 
➢ Vận dụng: Củng cố kiến thức có vai trò quan trọng trong quá trình học tập của học sinh, 
giúp học sinh ghi nhớ các kiến thức và rèn luyện các kĩ năng học tập. Vì vậy, trong quá 
trình dạy học, cùng với việc trang bị kiến thức cho học sinh, giáo viên cần hình thành và 
trang bị cho các em kĩ năng tự củng cố kiến thức 
* Những điều cần chú ý khi hình thành kỹ xảo: 
+ Phải thông hiểu mục đích, ý nghĩa của kỹ xảo, nắm được các quy chế thường xuyên 
luyện tập, có hứng thú, tự tin và quyết tâm trong học tập. 
+ Tập trung ý chí cao độ khi luyện tập. 
+ Luyện tập có kế hoạch, đều đặn, thường xuyên. 
+ Kiểm tra đánh giá và rút kinh nghiệm. 
+ Thay đổi điều kiện, phương pháp luyện tập một cách linh hoạt.  Câu 6  I. KHÍ CHẤT 
- Khí chất là thuộc tính tâm lí phức hợp của cá nhân biểu hiện cường độ tốc độ nhịp độ của các 
hoạt động tâm lí thể hiện sắc thái hành vi cử chỉ cách nói năng của cá nhân. 
- Khí chất không tiền định giá trị đạo đức của nhân cách. 
- Khí chất không tiền định những nét tình cảm của cá nhân.Khí chất là nền tảng tự nhiên của tính 
cách quy định hình thức thể hiện tính cách trong một mức độ đáng kể. 
- Không tiền định trình độ năng lực của nhân cách. 
- Khí chất có cơ sở sinh lí và các kiểu thần kinh. Kiểu thần kinh khác làm cho nhịp độ tốc độ 
hành động tâm lí đặc điểm hành vi con người khác  II. Các kiểu khí chất     
-Kiểu khí chất là cấu trúc tương đối ổn định bao gồm những thuộc tính của kí chất, các thuộc 
tính đó QH vs nhau theo 1 q luật nhất định để tạo ra 1 kiểu khí chất nhất định. 
2.3.3. Mối quan hệ giữa khí chất và tính cách 
- Khí chất quy định hình thức thể hiện của tính cách, mặt cơ động của tính cách. Ví dụ: 
Sự thể hiện của tính tự phê bình (nét tính cách) sẽ khác nhau ở người có khí chất bình thản và 
người có khí chất nóng nảy. Người có khí chất bình thản sẽ phân tích những thiếu sót của mình 
một cách bình tĩnh, có suy nghĩ, có căn cứ, còn người có khí chất nóng nảy sẽ vội vã, thường 
biểu lộ tình cảm của mình một cách mạnh mẽ. 
- Khí chất có ảnh hưởng sự dễ dàng hay khó khăn và phát triển các nét tính cách. Ví dụ, 
người có khí chất hoạt bát thì dễ giáo dục tính cởi mở, quảng giao, óc sáng kiến,… nhưng lại khó 
giáo dục tính kiên trì, nhẫn nại, kỹ năng tiến hành công việc đến cùng… 
- Tính cách đang được hình thành và đã được hình thành lại ảnh hưởng đến khí chất và 
điều chỉnh sự thể hiện của nó.  Caâu 3 Trí nhớ 
1.1. Định nghĩa trí nhớ 
Trí nhớ là một quá trình tâm lý phản ánh những kinh nghiệm đã có của cá nhân dưới 
hình thức biểu tượng, bao gồm sự ghi nhớ, giữ gìn và tái tạo lại sau đó ở trong óc cái mà con 
người đã cảm giác, tri giác, xúc cảm, hành động hay suy nghĩ trước đây. 
- Quá trình tâm lý này không phải tự nhiên mà có, không diễn ra một cách tự động mà nó 
chỉ xảy ra trong hoạt động của cá nhân tốt hay xấu. Trí nhớ của mỗi người không phụ thuộc vào 
bản thân trí nhớ mà phụ thuộc vào nội dung, tính chất và phương pháp hoạt động của người ấy. 
- Nét đặc trưng nhất của trí nhớ là trung thành với tất cả những gì cá nhân đã trải qua, tức  nó hành động máy móc. 
- Nếu cảm giác, tri giác chỉ phản ánh được sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào 
giác quan, thì trí nhớ phản ánh các sự vật hiện tượng đã tác động vào ta trước đây mà không cần 
sự tác động của chúng trong hiện tại. 
- Sản phẩm của trí nhớ là biểu tượng. Đó là những hình ảnh của sự vật, hiện tượng nảy sinh trong 
óc chúng ta khi không có sự tác động trực tiếp của chúng vào giác quan ta. 
Biểu tượng khác với hình ảnh của tri giác ở chỗ: nó phản ánh sự vật, hiện tượng một cách 
khái quát hơn. Tuy nhiên, tính khái quát và trừu tượng của biểu tượng trí nhớ ít hơn biểu tượng  của tưởng tượng. 
1.2. Vai trò của trí nhớ 
Trí nhớ là quá trình tâm lý có liên quan chặt chẽ với toàn bộ đời sống tâm lý con người. 
Không có trí nhớ thì không có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm thì không thể có một hoạt 
động nào, không thể tự ý thức, do đó cũng không thể hình thành nhân cách được. “Nếu không có 
trí nhớ thì con người mãi mãi ở tình trạng của một đứa trẻ sơ sinh” ( I.M. Xêtrênôv). 
Trí nhớ là điều kiện không thể thiếu được để con người có đời sống tâm lý bình thường. (VD: 
giảm trí nhớ dẫn tới khố vận cụng mọi kinh nghiệm đã có vào đời sống; mất trí nhớ thì con người trở  nên lú lẩn mọi thứ).     
Đối với nhận thức, trí nhớ có vai trò đặc biệt to lớn. Nó giữ lại các kết quả của quá trình 
nhận thức, nhờ đó con người có thể học tập và phát triển trí tuệ của mình. Vd Tiếp thu ngôn ngữ: 
• Trí nhớ cho phép con người ghi nhớ từ vựng, ngữ pháp, và cấu trúc của ngôn ngữ để giao  tiếp hiệu quả.  • Ví dụ: 
o Một đứa trẻ học nói bằng cách nhớ từ và cách phát âm từ cha mẹ. 
o Một người học ngoại ngữ cần ghi nhớ từ vựng và cách sử dụng từ để giao tiếp lưu  loát. 
Đối với đời sống tình cảm con người: không có trí nhớ thì không thể có tình cảm, kể cả 
những tình cảm thiêng liêng nhất. (VD). Tình cảm gia đình: 
• Trí nhớ giúp con người ghi lại những khoảnh khắc yêu thương và sự gắn bó giữa các 
thành viên trong gia đình.  • Ví dụ: 
o Một đứa trẻ nhớ những lần được cha mẹ chăm sóc, yêu thương, từ đó hình thành 
tình cảm gắn bó sâu sắc với cha mẹ. 
o Một người trưởng thành nhớ những kỷ niệm thời thơ ấu, như những bữa cơm gia 
đình, giúp họ cảm nhận tình yêu thương và giá trị của gia đình. 
Nếu ko có trí nhớ thì ta ko thể nhớ được khuôn mặt, tính cách hay kỉ niệm.... 
Đối với hành động: không có trí nhớ thì không thể định hướng được hành động, không 
nắm được thứ tự các bước hành động. (VD) Trong học tập: 
• Vai trò của trí nhớ: Ghi nhớ các quy trình và phương pháp để giải bài tập hoặc thực  hành kỹ năng.  • Ví dụ: 
o Một học sinh làm toán cần nhớ thứ tự các bước giải phương trình: chuyển vế, đơn 
giản hóa, rồi tìm nghiệm. Nếu không có trí nhớ, bài toán sẽ không thể hoàn thành. 
o Trong phòng thí nghiệm, học sinh nhớ quy trình sử dụng hóa chất và các bước 
thực hiện thí nghiệm để đảm bảo an toàn và đạt kết quả chính xác. 
Việc rèn luyện trí nhớ cho học sinh là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác 
trí dục lẫn đức dục trong nhà trường. Vì vậy, V.I. Lê nin đã nói: “Người ta chỉ có thể trở thành 
người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức 
mà nhân loại đã tạo ra”. 
3. CÁC QUÁ TRÌNH CƠ BẢN CỦA TRÍ NHỚ 
Trí nhớ diễn ra theo nhiều quá trình khác nhau và có quan hệ chặt chẽ với nhau. 
3.1. Quá trình ghi nhớ 
Đây là quá trình diễn ra đầu tiên của trí nhớ. Quá trình tạo nên dấu vết (ấn tượng) của đối 
tượng trên não, đồng thời hình thành mối liên hệ giữa tri thức của tài liệu mới với tri thức cũ đã     
có, cũng như sự liên hệ giữa các bộ phận trong tài liệu mới với nhau để nhớ. Quá trình ghi nhớ 
rất cần thiết để tiếp thu tri thức, tích luỹ kinh nghiệm. 
Hiệu quả của việc ghi nhớ phụ thuộc không chỉ vào nội dung tính chất của tài liệu nhớ 
mà còn phụ thuộc chủ yếu vào động cơ, mục đích, phương thức hành động của cá nhân. Để ghi 
nhớ tốt, người ta đã phối hợp nhiều loại ghi nhớ khác nhau để nhớ đó là: ghi nhớ không chủ định 
và ghi nhớ có chủ định. 
3.1.1. Ghi nhớ không chủ định 
Đó là sự ghi nhớ không có mục đích đặt ra từ trước, không đòi hỏi phải nỗ lực ý chí hoặc 
không dùng một thủ thuật nào để ghi nhớ, tài liệu được ghi nhớ một cách tự nhiên. Loại ghi nhớ 
này đặc biệt có hiệu quả khi nó gắn liền với cảm xúc mạnh mẽ, khi con người có hứng thú. Độ 
bền vững và lâu dài phụ thuộc vào đặc điểm của đối tượng như màu sắc, âm thanh, tính di động. 
Do vậy, trong dạy học, nếu giáo viên tạo ra được ở học sinh động cơ học tập đúng đắn, có hứng 
thú sâu sắc đối với môn học thì học sinh sẽ dễ dàng ghi nhớ tài liệu một cách không chủ định, 
việc học tập trở nên nhẹ nhàng, hấp dẫn.\ 
Vd: Một học sinh nhớ được một câu chuyện lịch sử mà giáo viên kể trong lớp vì nó hấp dẫn, dù 
không cố ý ghi chép hay học thuộc. 
3.1.2. Ghi nhớ có chủ định 
Đó là một loại ghi nhớ có mục đích đặt ra từ trước, nó đòi hỏi sự nỗ lực ý chí nhất định 
và cần có những thủ thuật và phương pháp nhất định. 
Vd: Một hướng dẫn viên du lịch ghi nhớ các thông tin về địa điểm tham quan để giới  thiệu cho du khách. 
Hiệu quả của ghi nhớ có chủ định phụ thuộc rất nhiều vào động cơ, mục đích ghi nhớ. 
Việc sử dụng phương pháp hợp lý là một điều kiện rất quan trọng để đạt hiệu quả cao. Ghi nhớ 
có chủ định được thực hiện bằng 2 phương pháp: ghi nhớ máy móc và ghi nhớ ý nghĩa. 
- Ghi nhớ máy móc: là loại ghi nhớ dựa trên sự lặp đi lặp lại nhiều lần một cách giản đơn, 
tạo ra mối liên hệ bề ngoài giữa các phần của tài liệu ghi nhớ, không cần thông hiểu nội dung tài 
liệu. Vd: Học vẹt là một loại biểu hiện của ghi nhớ này. Học sinh nhớ máy móc trong các trường  hợp sau đây: 
+ Do không hiểu hoặc lười hiểu ý nghĩa tài liệu. 
+ Do các phần của tài liệu rời rạc không liên hệ lôgic với nhau. 
+ Do giáo viên thường xuyên yêu cầu trả lời đúng từng chữ, từng câu trong sách giáo  khoa. 
Ghi nhớ máy móc thường dẫn đến sự ghi nhớ một cách hình thức, tốn nhiều thời gian, khi 
quên khó có thể hồi tưởng được. Tuy nhiên ghi nhớ loại này trở nên hữu ích trong trường hợp 
ghi nhớ những tài liệu như địa chỉ, số nhà, số điện thoại... 
- Ghi nhớ ý nghĩa (ghi nhớ lôgic): là loại ghi nhớ dựa trên sự thông hiểu nội dung của tài 
liệu, trên sự nhận thức được mối quan hệ logic giữa các bộ phận của tài liệu đó, loại ghi nhớ này 
nó gắn liền với quá trình tư duy, tưởng tượng. 
Vd: Bạn ghi nhớ nội dung một bài thơ bằng cách hiểu thông điệp và cảm xúc mà tác giả muốn  truyền tải.     
Ghi nhớ có ý nghĩa là loại ghi nhớ chủ yếu trong học tập của học sinh. Nó đảm bảo cho 
việc lĩnh hội tri thức một cách sâu sắc, bền vững và nếu quên thì cũng dễ nhớ lại hơn. Nó ít tốn 
thời gian so với việc ghi nhớ máy móc, nhưng lại tiêu hao năng lượng thần kinh nhiều hơn. 
Học thuộc lòng là sự kết hợp giữa ghi nhớ ý nghĩa và ghi nhớ máy móc trên cơ sở thông 
hiểu được tài liệu ghi nhớ, nó hoàn toàn khác với học vẹt. 
Thuật nhớ là sự ghi nhớ có chủ định bằng cách tạo ra mối liên hệ bên ngoài để nhớ. Ví 
dụ: đặt các từ cần nhớ thành câu có vần điệu để dễ nhớ: “Đi học, khóc hoài, đòi kẹo, không đưa” 
nghĩa là Sinx= đối chia huyền, Cosx= kề chia huyền, tgx= đối chia kề, cotgx= kề chia đối. 
“ Không được bắt trẻ học thuộc lòng bất cứ điều gì ngoài những điều đã thật hiểu”  (Kômenxki). 
3.1.3. Các biện pháp ghi nhớ lôgic 
- Lập dàn bài cho tài liệu, nghĩa là phát hiện những đơn vị lôgic cấu tạo nên tài liệu đó. 
Có thể làm những việc sau: phân chia tài liệu thành từng đoạn; đặt cho mỗi đoạn một tên tương 
ứng với nội dung của nó (điểm tựa); nối những điểm tựa lại bằng một tên gọi thích hợp. 
- Phân tích, tổng hợp, mô hình hoá, so sánh, phân loại và hệ thống hoá tài liệu. 
- Biện pháp tái hiện tài liệu dưới hình thức nói thầm theo các bước: 
+ Cố gắng tái hiện toàn bộ tài liệu một lần. 
+ Tiếp đó là tái hiện từng phần, đặc biệt những phần khó. 
+ Lại tái hiện toàn bộ tài liệu. 
- Khi thực hiện những việc trên cần đặc biệt chú ý vào những thao tác sau: 
+ Định hướng vào toàn bộ tài liệu. 
+ Phân tích tài liệu thành những nhóm yếu tố cơ bản của nó. 
+Xác định các mối liên hệ trong mỗi nhóm. 
+ Xác định mối liên hệ giữa các nhóm. 
3. 2. Quá trình giữ gìn 
- Là quá trình củng cố vững chắc những dấu vết hình thành trên vỏ não trong quá trình 
ghi nhớ. Có 2 hình thức giữa gìn: tích cực và tiêu cực. 
+ Giữ gìn tiêu cực là sự giữ gìn được dựa trên sự tri giác đi, tri giác lại nhiều lần đối với 
tài liệu một cách giản đơn. 
+ Giữ gìn tích cực là sự giữ gìn được thực hiện bằng cách nhớ lại trong óc tài liệu đã 
được ghi nhớ mà không phải tri giác lại tài liệu đó. Kinh nghiệm “đi truy, về trao” của học sinh 
chính là một cách ôn tập tích cực. 
3.3. Quá trình tái hiện 
- Là quá trình trí nhớ làm sống lại những nội dung đã ghi nhớ và giữ gìn. 
- Các mức độ tái hiện:     
+ Nhận lại: là sự nhớ lại một đối tượng nào đó trong điều kiện tri giác lại đối tượng đó, 
hoặc tri giác lại cái gần giống với đối tượng trước đây đã được tri giác. 
+ Nhớ lại: là hình thức nhớ lại không diễn ra sự tri giác lại đối tượng. Nhớ lại không diễn 
ra tự nó, mà bao giờ cũng có nguyên nhân, theo quy luật liên tưởng, mang tính lôgic chặt chẽ và  có chủ định. 
Nhớ lại không chủ định là sự nhớ lại một cách tự nhiên một điều gì đó, khi gặp một hoàn 
cảnh cụ thể, không cần phải xác định nhiệm vụ cần nhớ lại. 
Nhớ lại có chủ định là nhớ lại một cách tự giác, đòi hỏi phải có một sự cố gắng nhất định, chịu 
sự chi phối của nhiệm vụ nhớ lại. 
+ Hồi tưởng: là hình thức tái hiện đòi hỏi sự cố gắng rất nhiều của trí tuệ.  3.4. Sự quên 
- Quên là không tái hiện lại được nội dung đã ghi nhớ trước đây vào thời điểm nhất định. 
- Sự quên cũng có nhiều mức độ: 
+ Quên hoàn toàn (không nhớ lại, cũng không nhận lại được). 
+ Quên cục bộ (không nhớ lại nhưng nhận lại được). 
Phát hiện của PenField cho thấy rằng: Không có sự quên hoàn toàn tuyệt đối, dù ta có 
không bao giờ nhận lại và nhớ lại một điều gì đó đã gặp trước đây, thì nó vẫn còn để lại dấu vết 
nhất định trên vỏ não chúng ta. 
Ngoài trường hợp quên “vĩnh viễn” còn có trường hợp quên tạm thời. Nghĩa là một thời 
gian dài không thể nhớ lại được, nhưng trong một lúc nào đó lại đột nhiên nhớ lại được. Đó là 
hiện tượng “sực nhớ”. 
- Sự quên diễn ra theo những quy luật nhất định: 
+ Người ta thường quên những cái gì không liên quan hoặc ít liên quan đến đời sống, không phù 
hợp với hứng thú, sở thích, nhu cầu của cá nhân. 
+ Những cái gì không được sử dụng thường xuyên trong hoạt động hàng ngày của cá  nhân. 
+ Người ta hay quên khi gặp những kích thích mới lạ hay những kích thích mạnh. 
+ Sự quên diễn ra theo một trình tự xác định: quên cái chi tiết, vụn vặt trước, quên cái cụ  thể chính yếu sau. 
Sự quên diễn ra với tốc độ không đồng đều: ở giai đoạn đầu tốc độ quên khá lớn, về sau 
tốc độ giảm dần (quy luật E- bin- gao).vd: Học từ vựng ngoại ngữ: 
• Bạn học 20 từ mới tiếng Anh vào buổi sáng. 
• Ngày đầu tiên: Ngay sau khi học, bạn nhớ được tất cả 20 từ. Sau 1 ngày, bạn chỉ còn  nhớ khoảng 10-12 từ. 
• Ngày thứ hai: Nếu không ôn lại, số từ nhớ được giảm xuống còn 6-8 từ. 
• Sau một tuần: Bạn chỉ còn nhớ khoảng 3-4 từ. Tuy nhiên, những từ này sẽ được lưu giữ  lâu hơn.     
+ Về nguyên tắc, quên là một hiện tượng hợp lý, hữu ích, là một cơ chế tất yếu trong hoạt 
động đúng đắn của trí nhớ.vd:Quên thông tin không cần thiết trong học tập: Một học sinh chuẩn 
bị cho kỳ thi học kỳ. Sau khi kỳ thi kết thúc, học sinh sẽ dần quên những thông tin không quan 
trọng hoặc không liên quan đến kiến thức cần thiết trong cuộc sống sau này. Điều này giúp bộ 
não tập trung vào các chủ đề mới hoặc hữu ích hơn. 
Hiểu được các quy luật quên (nguyên nhân quên) giúp ta biết cách giữ gìn tốt tri thức trong 
trí nhớ. Trong học tập, để nhớ tốt tri thức là phải thường xuyên ôn luyện và thực hành. Thực tế 
cho thấy, nội dung tài liệu có ý nghĩa và liên quan với nhu cầu, hứng thú và mục đích hoạt động 
của cá nhân thì được trí nhớ giữ gìn tốt và còn tạo ra cho nó một chất lượng mới. 
3. Hướng rèn luyện trí nhớ cho học sinh 
- Phải tập trung chú ý cao khi ghi nhớ, có hứng thú, say mê với tài liệu ghi nhớ, ý thức được tầm 
quan trọng của tài liệu cần ghi nhớ. 
- Lựa chọn và phối hợp các loại ghi nhớ một cách hợp lý nhất, phù hợp với tính chất và nội dung 
của tài liệu, với nhiệm vụ và mục đích ghi nhớ. 
- Phải biết phối hợp nhiều giác quan để ghi nhớ, phải sử dụng các thao tác trí tuệ để ghi nhớ tài 
liệu, gắn tài liệu ghi nhớ với vốn kinh nghiệm của bản thân. 
- Bên cạnh đó, cần ôn tập một cách tích cực tài liệu đã học 
- Phải ôn tập xen kẽ, không nên ôn tập liên tục một môn học. 
- Ôn tập phải có nghỉ ngơi, không nên ôn tập trong một thời gian dài. 
- Có thể sử dụng sự liên tưởng, nhất là liên tưởng nhân quả để hồi tưởng vấn đề gì đó   
Khái niệm tâm lí, tâm lí học 
-Tâm lí bao gồm tất cả hiện tượng t thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành 
mọi hành động, hoạt động của con người  -Đặc điểm: 
+Tâm lí người là các h tượng có thật, rất gần gũi với đời sống con người mặc dù nó ko cân đo 
đong đếm hay nhìn thấy được 
+Các h tượng tâm lí trong 1 con người luôn có MQH chặt chẽ 
+Tâm lí người là các h tượng tâm lí phức tạp, đa dạng phong phú 
+Tâm lí người là các h tượng t thần, do đó ko thể nghên cứu 1 cách tr tiếp 
+Tâm lí người có vtro rất lớn đối vs đ sống con người, nó có thể làm tăng or giảm sm vật chất of  con người 
+Tâm lí người thay đổi theo giới tính, hoàn cảnh, lứa tuổi 
+Tâm lí người la khoa học nghiên cứu về các ht tâm lí 
1. Bản chất tâm lý người: 
Quan niệm về bản chất của hiện tượng tâm lý người tùy thuộc vào thế giới quan và phương pháp 
luận của mỗi trường phái. 
- Quan niệm duy tâm cho rằng, tâm lý của con người là do thượng đế, do trời sinh ra và nhập vào 
thể xác con người. Nó không phụ thuộc vào thế giới khách quan cũng như điều kiện thực tại của  đời sống.     
- Quan niệm duy vật tầm thường cho rằng, tâm lý, tâm hồn cũng như mọi sự vật hiện tượng đều 
được cấu tạo từ vật chất, do vật chất trực tiếp sinh ra giống như gan tiết ra mật vậy 
- Quan niệm chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực 
khách quan vào não người thông qua chủ thể, tâm lý người có bản chất xã hội - lịch sử. 
* Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể 
- Nguồn gốc, nội dung tâm lý người xuất phát từ hiện thực khách quan. Tâm lí người kp do 
thượng đế, do trời sinh ra, cx kp do não tiết ra như gan tiết ra mật, tâm lí người là sự p/anh 
HTKQ vào não người thông qua lăng kính chủ quan. 
+Hiện thực khách quan là tất cả những gì tồn tại ngoài ý thức ta. Nó bao gồm hiện tượng vật 
chất và hiện tượng tinh thần. 
+Hiện tượng khách quan tác động vào não tạo ra tâm lý 
VD: Nhìn một bức tranh xong, nhắm mắt lại có thể hình dung màu sắc, cảnh vật vẽ trong tranh. 
“Trí nhớ là hình ảnh của hiện thực khách quan” 
- Phản ánh là thuộc tính chung của mọi vật chất đang vận động. Đó là sự tác động qua lại giữa hệ 
thống này lên hệ thống khác, kết quả là để lại dấu vết (hình ảnh) trên cả hai hệ thống. Phản ánh 
diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hóa lẫn nhau: từ phản ánh cơ, lý, hóa, sinh vật 
đến phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm lý. 
VD: Viên phấn được dùng để viết lên bảng đen để lại vết phấn trên bảng và ngược lại bảng đen 
làm mòn (để lại vết) trên viên phấn (phản ánh cơ học) 
- Tâm lý là một hình ảnh tinh thần do thế giới khách quan tác động vào một thứ vật chất đặc biệt 
có tổ chức cao nhất là bộ não. C.Mác viết: "Tư tưởng, tâm lý chẳng qua là vật chất được chuyển 
vào trong đầu óc, biến đổi trong đó mà có". 
-Phản ánh tâm lí tạo ra “h/a tâm lí”. H/a tâm lí là kq của quá trình p/a TGKQ vào não,nó khác về 
chất so với h/a cơ, vli, sinh vật ở chỗ: 
+ Hình ảnh tâm lý mang tính sinh động, sáng tạo. VD, hình ảnh tâm lý về cuốn sách trong đầu 
một người biết chữ khác xa về chất hình ảnh vật lý có tính “chết cứng” của cuốn sách đó ở trong  gương. 
+ Hình ảnh tâm lý mang tính chủ thể. Mỗi cá nhân khi tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới đã đưa 
vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, cái riêng của mình... vào trong hình ảnh đó, làm cho nó mang  đậm màu sắc chủ quan 
- Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý thể hiện ở chỗ: 
• Cùng nhận sự tác động của thế giới về cùng một hiện thực khách quan nhưng ở những 
chủ thể khác nhau xuất hiện những hình ảnh tâm lý với những mức độ, sắc thái khác 
nhau. VD, cùng xem một bức tranh nhưng có người cho là đẹp, có người cho là bình  thường. 
• Cũng có khi cùng một hiện thực khác quan tác động đến một chủ thể duy nhất nhưng vào 
những thời điểm khác nhau, ở những hoàn cảnh khác nhau với trạng thái cơ thể, trạng 
thái tinh thần khác nhau có thể cho ta thấy mức độ biểu hiện và các sắc thái tâm lý khác 
nhau ở chủ thể ấy. VD, cùng một bản nhạc khi mình nghe ở thời điểm này, hoàn cảnh 
này, trong trạng thái tinh thần vui vẻ,... thì cảm thấy hay, nhưng khi nghe vào lúc khác 
với tinh thần buồn chán... thì không cảm thấy hay.     
+ Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người cảm nhận, cảm nghiệm và thể hiện nó rõ nhất. 
Cuối cùng thông qua các mức độ và sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể tỏ thái độ, hành vi 
khác nhau đối với hiện thực. Sở dĩ tâm lý người này khác với tâm lý người kia là do mỗi con 
người có những đặc điểm riêng về cơ thể, tinh thần và bộ não; mỗi người có hoàn cảnh sống và 
điều kiện giáo dục, mức độ tích cực hoạt đông và giao tiếp không như nhau trong các mối quan  hệ xã hội khác nhau. 
=> Từ luận điểm trên, có thể rút ra một số kết luận thực tiễn sau: 
+Tâm lý con người có nguồn gốc là thế giới khách quan, vì thế khi nghiên cứu, hình thành, cải 
tạo tâm lý người cần phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con người sống và hoạt động. VD, 
muốn tìm hiểu tâm lý học sinh, phải nghiên cứu môi trường học sinh đó sống và học tập: gia 
đình, bạn bè, láng giềng,... 
-Tâm lý con người mang tính chủ thể, vì thế trong dạy học, giáo dục, trong quan hệ ứng xử phải 
chú ý nguyên tắc sát đối tượng (cái riêng trong tâm lý mỗi người). Tùy vào từng đặc điểm lứa 
tuổi của đối tượng mà đưa ra nội dung, phương pháp dạy học, giáo dục phù hợp. VD, học sinh 
giỏi thì ra bài tập nâng cao, học sinh kém cần quan tâm nhiều hơn và ra bài tập vừa sức,. 
-Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức hoạt động và các quan hệ 
giao tiếp để nghiên cứu, hình thành và phát triển tâm lý con người. 
* Tâm lý người có bản chất xã hội - lịch sử 
-Tâm lí người là sự p/a HTKQ, là CN of não, là kinh ngh của mỗi người. Tâm lí người khác vs 
tâm lí of các loài ĐV bậc cao vì tâm lí người có bản chất XH và mang tính LS.BH: 
+Tâm lý người có nguồn gốc xã hội. Trong thế giới, phần tự nhiên có ảnh hưởng đến tâm lý, 
nhưng phần xã hội trong thế giới: các quan hệ kinh tế, các quan hệ xã hội, đạo đức, pháp quyền, 
quan hệ con người - con người có ý nghĩa quyết định tâm lý con người. Trên thực tế, những 
trường hợp trẻ em do động vật nuôi từ bé, tâm lý của các trẻ này không hơn hẳn tâm lý loài vật. 
Mác nói: con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Nếu không được sống trong xã hội loài 
người, tâm lý con người sẽ không được hình thành và phát triển. 
VD: Tâm lí tuân theo chuẩn mực XH: Trong một xã hội đề cao sự tôn trọng người lớn tuổi, con 
cháu thường hình thành tâm lý kính trên nhường dưới. Ví dụ, ở Việt Nam, việc chào hỏi lễ phép 
với người lớn tuổi là biểu hiện của tâm lý đã được xã hội định hình thông qua giáo dục và giao  tiếp hằng ngày. 
+Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và mối quan hệ giao tiếp của con người với tư cách là một 
chủ thể xã hội. Ngay cả phần tự nhiên ở con người (như đặc điểm cơ thể, giác quan, thần kinh, 
bộ não) cũng được xã hội hóa ở mức cao nhất. Ph. Ăngghen viết: “sự hình thành 5 giác quan 
người là công việc của toàn bộ xã hội lịch sử...”. Vì thế, tâm lý mang đầy đủ dấu ấn xã hội lịch  sử của con người. 
VD: Một người sống trong môi trường gia đình yêu thương, quan tâm lẫn nhau sẽ phát triển 
tâm lý ổn định và dễ cảm thông với người khác, trong khi người lớn lên trong môi trường gia 
đình thường xuyên xảy ra mâu thuẫn có thể hình thành tâm lý nhạy cảm và dễ bị tổn thương. 
+Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm xã hội, nền 
văn hóa (biến thành cái riêng của mỗi người) thông qua hoạt động, giao tiếp của con người trong 
các mối quan hệ xã hội mà trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo. VD: Trong cộng đồng làng quê 
Việt Nam, trẻ em thường tham gia các lễ hội truyền thống (như Tết Trung Thu, hội làng). Qua     
đó, chúng lĩnh hội được các giá trị văn hóa như tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng, và lòng biết  ơn tổ tiên. 
+Tâm lý của mỗi con người hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự phát triển của lịch sử 
cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng. Tâm lý của mỗi con người bị chế ước bởi lịch sử của cá  nhân và cộng đồng. VD: 
• Cá nhân: một người từng trải qua những biến cố như mất mát người thân từ nhỏ có thể 
hình thành tâm lý nhạy cảm hơn với cảm giác mất mát hoặc lo lắng trong các mối quan  hệ. 
• Dt: Người Việt Nam thường có tâm lý yêu nước, tự hào dân tộc, và tinh thần kiên cường 
bởi sự ảnh hưởng của lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm kéo dài hàng nghìn năm. Ví dụ, 
câu chuyện về "Bạch Đằng Giang" hay "Chiến thắng Điện Biên Phủ" đã in sâu vào tâm 
trí nhiều thế hệ, góp phần hình thành tâm lý không khuất phục trước khó khăn. Thế hệ 
sinh ra và lớn lên sau chiến tranh thường có tâm lý mong muốn hòa bình và ổn định cho  ĐN 
• Một người lớn lên trong cộng đồng dân cư gắn bó và đoàn kết (ví dụ như làng quê Việt 
Nam truyền thống) thường có tâm lý coi trọng tình làng nghĩa xóm, chia sẻ và giúp đỡ 
lẫn nhau. Ngược lại, nếu sống trong môi trường đô thị hiện đại, nơi mọi người thường đề 
cao tính cá nhân, người đó có thể phát triển tâm lý tự lập và ít phụ thuộc vào người khác  hơn. 
=> Từ những luận điểm trên, cần chú ý nghiên cứu môi trường xã hội, các quan hệ xã hội để 
hình thành, phát triển tâm lý, cần phải tổ chức có hiệu quả các hoạt động đa dạng ở từng giai 
đoạn lứa tuổi khác nhau, giúp cho con người lĩnh hội nền văn hóa xã hội để hình thành, phát triển  tâm lý con người. 
2 Hướng vận dụng vào dạy học và giáo dục 
Tâm lý có ý nghĩa đặc biệt đối với giáo dục, bởi vì tri thức về những quy luật phát triển nhân 
cách, về những đặc diểm lứa tuổi và cá nhân của học sinh sẽ là cơ sở cho việc xây dựng những 
phương pháp dạy học và giáo dục có hiệu quả nhất. Nhà giáo dục Nga Usinxki nói: muốn giáo 
dục con người một cách toàn diện thì phải hiểu biết con người một cách toàn diện. 
- Chú ý giáo dục thể chất, phát triển não bộ và các giác quan. 
- Muốn hoàn thiện, cải tạo tâm lý người cần phải nghiên cứu hoàn cảnh lịch sử, điều kiện sống,  … của con người. 
- Vì tâm lý mang tính chủ thể nên phải tôn trọng ý kiến của người khác 
- Nhìn nhận học sinh theo quan điểm phát triển, tôn trọng đặc điểm lứa tuổi. 
- Cần chú ý nghiên cứu sát đối tượng, chú ý đặc điểm riêng của từng cá nhân. 
- Phải tổ chức hoạt động và các quan hệ giao tiếp để nghiên cứu sự hình thành và phát triển tâm  lý con người 
- Kết hợp giữa bài giảng với thực tế 
- Thường xuyên gắn liền nội dung của bài giảng với thực tế 
- Sử dụng phương pháp giảng dạy trực quan sinh động, phong phú 
- Trong ứng xử cần phải chú ý đến nguyên tắc sát đối tượng 
- Trong giáo dục cần chú ý đến tính cá biệt của các học sinh     
- Nhìn nhận đánh giá con người trong quan điểm vận động, phát triển không ngừng