Tâm lý học hành vi và học thuyết tâm lý học hành vi

Tâm lý học xuất phát từ tiếng Latinh với “Psyche” là “linh hồn, tinh thần” và “logos” là “khoa học, học thuyết”. Vì thế tâm lý học hay Psychology chính là khoa học về tâm hồn. Kể từ đầu thế kỉ XIX trở đi, nền sản xuất thế giới đã phát triển mạnh, thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của nhiều lĩnh vực khoa học, kĩ thuật phát triển. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
4 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tâm lý học hành vi và học thuyết tâm lý học hành vi

Tâm lý học xuất phát từ tiếng Latinh với “Psyche” là “linh hồn, tinh thần” và “logos” là “khoa học, học thuyết”. Vì thế tâm lý học hay Psychology chính là khoa học về tâm hồn. Kể từ đầu thế kỉ XIX trở đi, nền sản xuất thế giới đã phát triển mạnh, thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của nhiều lĩnh vực khoa học, kĩ thuật phát triển. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

54 27 lượt tải Tải xuống
Tâm lý học hành vi và học thuyết tâm lý học hành vi
1. Mở đầu vấn đề
Tâm lý học xuất phát từ tiếng Latinh với “Psyche” là “linh hồn, tinh thần” và “logos” là “khoa học, học thuyết”.
Vì thế tâm lý học hay Psychology chính là khoa học về tâm hồn.
Kể từ đầu thế kỉ XIX trở đi, nền sản xuất thế giới đã phát triển mạnh, thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của
nhiều lĩnh vực khoa học, kĩ thuật phát triển. Chính những thành tựu của các lĩnh vực khoa học này đã tạo
điều kiện cho tâm lý học trở thành một ngành khoa học độc lập với các trường phái tâm lý học khác nhau.
Sự kiện lớn nhất tạo nên kết quả đó chính là sự ra đời của Phòng thí nghiệm tâm lý đầu tiên trên thế giới do
nhà tâm lý người Đức Wilhelm Wundt (1832 – 1920) sáng lập vào năm 1879 tại thành phố Laixic. Vào thời
điểm đó, Wilhelm Wundt là người đầu tiên đặt sự quan tâm đặc biệt vào các khối cấu trúc trí tuệ và chuyên
tâm nghiên cứu nó. Cũng tại đây ông chính thức định nghĩa cho câu hỏi: “Tâm lý học là gì?”
Theo Wilhelm Wundt, tâm lý học là một bộ môn nghiên cứu kinh nghiệm hữu thức (Conscious experience),
thông qua một mô hình nhận thức được mệnh danh là lý thuyết kết cấu.
Theo Wilhelm Wundt, đối tượng của tâm lý học không chỉ là ý thức chủ quan và con đường nghiên cứu ý
thức là các phương pháp nội quan và tự quan sát. Mà đối tượng của tâm lý học còn bao hàm cả những ý
thức khách quan (hữu thức) mà con người hoàn toàn có thể quan sát, đo đạc được bằng các phương pháp
thực nghiệm.
Phát huy những ý tưởng của Wundt, đầu thế kỷ XX các trường phái tâm lý học theo chủ nghĩa khách quan
ra đời bao gồm: Nhận thức hành vi; tâm lý học Gestalt và Phân tâm học… Ngoài ra, trong giao đoạn này
ngành tâm lý còn phát triển nhiều trường phái khác như nhân văn; nhận thức..
Một bước ngoăt to lớn cho ngành tâm lý đó là sự thành công của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917,
khi mà chủ nghĩa Mac-Lenin trở thành kim chỉ nam cho các nhà triết học, nhà khoa học và các trường phái
tâm lý học thời kỳ đó.
2. Giới thiệu tâm lý học hành vi
Khái niệm tiếp cận hành vi là một trong những cố gắng rất lớn của tâm lý học thế giới đầu thế kỉ XX, nhằm
khắc phục tính chủ quan trong nghiên cứu tâm lý người thời đó.
Kết quả của tiếp cận hành vi đã hình thành trường phái có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển tâm lý
học Mĩ và trên thế giới trong suốt thế kỷ XX, cụ thể có thể kể đến là: Tâm lý học hành vi, mà đại biểu là các
nhà tâm lý học kiệt xuất: E.L.Thorndike (1874-1949), J.B.J.Watson (1878-1958), E.C.Tolman (1886-1959),
K.L.Hull (1884-1952) và B.F.Skinner (1904-1990) và A. Bandura v.v…
Tâm lý học hành vi ra đời là một cuộc cách mạng, làm thay đổi cơ bản hệ thống quan niệm về tâm lý học
đương thời. Theo đó, đối tượng của tâm lý học là hành vi chứ không phải ý thức.
Phương pháp nghiên cứu là quan sát và thực nghiệm khách quan chứ không phải là nội quan. Trước và
trong thời kỳ xuất hiện Thuyết hành vi, tâm lý học được hiểu là khoa học về ý thức và phương pháp nghiên
cứu là nội quan (tự quan sát và giải thích). Ngay từ khi ra đời ở Đức năm 1879, với tư cách là khoa học độc
lập, tâm lý học đã được mệnh danh là Tâm lý học nội quan. W.Wundt - người sáng lập ra Tâm lý học này,
đã xác định đối tượng của tâm lý học là tổ hợp các trạng thái mà ta nghiệm thấy - các trạng thái được trực
tiếp thể nghiệm trong vòng ý thức khép kín. Sự phát triển tiếp theo của Tâm lý học nội quan đã hình thành
nên Tâm lý học cấu trúc ở Mĩ. Mặt khác, do nhu cầu khắc phục sự bế tắc của Tâm lý học nội quan, cũng ở
Mĩ những năm này đã xuất hiện Tâm lý học chức năng. Tuy nhiên, trên thực tế, cả hai dòng phái đều không
tạo lập được khoa học khách quan về ý thức. Lý luận của chúng gắn liền với phương pháp chủ quan, điều
này gây sự thất vọng ở khắp mọi nơi.
Kết quả là, những vấn đề cơ bản của tâm lý học trở nên mờ mịt đối với nhiều người: Đối tượng nghiên cứu
(ý thức) và nguồn gốc của nó (ý thức bắt đầu từ đâu), phương pháp nghiên cứu (nội quan, nguyên tắc giải
thích: nguyên nhân tâm lý như là sự chế uớc của một số hiện tượng ý thức đối với các hiện tượng khác).
Từ đó đã xuất hiện nhu cầu cấp thiết về đối tượng, phương pháp và nguyên tắc mới, đặc biệt ở Mĩ, nơi mà
cách tiếp cận thực dụng trong nghiên cứu con người chiếm vai trò thống trị. Điều này đã được chứng minh
bằng khuynh hướng chức năng, mà trọng tâm chú ý là vấn đề thích ứng của cá nhân với môi trường.
Nhưng chủ nghĩa chức năng, vốn bắt nguồn từ các quan niệm thời cổ đại về ý thức như là một bản thế đặc
biệt vươn tới mục đích, đã bị bất lực khi giải thích nguyên nhân điều khiển hành vi con người, sự tạo ra
những hình thức hành vi mới.
=> Nhân vật hàng đầu của Tâm lý học hành vi là J.Watson. Các luận điểm của ông là nền tảng lý luận của
hệ thống tâm lý học này. Nói tới Tâm lý học hành vi, không thể không nói nhiều về các quan điểm đó. Tuy
nhiên, một mình J.Watson không làm nên trường phái thống trị tâm lý học Mĩ và ảnh hưởng lớn tới sự phát
triển tâm lý học thế giới suốt thế kỷ XX. Trước J.Watson có nhiều bậc tiền bối, mà tư tưởng và kết quả thực
nghiệm của họ là cơ sở trực tiếp, để trên đó Watson xây dựng các luận điểm then chốt của Tâm lý học hành
vi. Sau J.Watson nhiều nhà tâm lý học lớn khác của Mĩ đã phát triển học thuyết này, đưa nó thành hệ thống
tâm lý học đa dạng và bám rễ vào mọi ngóc ngách của đời sống xã hội. Vì vậy, có thể chia quá trình phát
triển của Tâm lý học hành vi thành ba giai đoạn không hoàn toàn theo trật tự tuyến tính về thời gian: Những
cơ sở lý luận; và Thực nghiệm đầu tiên hình thành các luận điểm cơ bản (Thuyết hành vi cổ điển); Sự phát
triển tiếp theo của Tâm lý học hành vi, sau khi có các luận điểm của J.Watson (các thuyết hành vi mới và
hậu hành vi).
3. Phân tích học thuyết tâm lý học hành vi
Như đã nêu qua ở mục 2, Tâm lý học hành vi là một trường phái tâm lý học do nhà tâm lý học Mĩ J. Watson
(1878 – 1958) sáng lập vào năm 1913; được J.Watson là người định nghĩa tâm lý học hành vi là gì: và cũng
được chính ông xuất bản với cái tên “Psychology as the Behaviorist Views It” (Tạm dịch: Tâm lý học qua cái
nhìn của nhà hành vi học).
Theo đó, nhà tâm lý học Mĩ J. Watson cho rằng tâm lý học không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà
chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể ở con người cũng như ở động vật.
Nhà tâm lý học Mĩ J. Watson cũng tin rằng, các phản ứng của con người đối với kích thích của môi trường
chính là cái tạo nên hành vi. Nói một cách dễ hiểu hơn, hành vi được hiểu là tổng số các cử động bên ngoài
nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp lại một kích thích nào đó theo một công thức nhất định.
Công thức: S – R (Stimulus – Reaction)
Kích thích – Phản ứng = Hành vi
=> Với Công thức này, nhà tâm lý học Mĩ J. Watson đã nêu lên một quan điểm tiến bộ trong tâm lý học: coi
hành vi là do ngoại cảnh quyết định, hành vi có thể quan sát được, nghiên cứu được một cách khách quan,
từ đó có thể điều khiển hành vi theo phương pháp “thử – sai”. Ngoài ra, Các hành vi này có thể được học
tập một cách có hệ thống và có thể quan sát một cách rõ ràng từ bên ngoài, không đi sâu vào diễn biến nội
tâm.
Bên cạnh những lời khen về thành tựu của mình thì học thuyết hành vi cũng gây ra nhiều tranh cãi cho các
nhà tâm lý bởi quan niệm về hành vi mà J.Watson đưa ra quá cơ học và máy móc làm mất đi tính chủ thể,
tính xã hội của tâm lý con người. Nói một cách dễ hiểu hơn đó là sự đồng nhất tâm lý con người với tâm lý
động vật. Một số nhà tâm lý cho rằng quan điểm của trường phái này là quan điểm phi lịch sử và thực dụng.
Về sau này các đại biểu của chủ nghĩa hành vi mới như: Tonmen, Hulo, Skiner… có đưa vào công thức S –
R những “biến số trung gian” bao hàm một số yếu tố như: nhu cầu, trạng thái chờ đón, kinh nghiệm sống
của con người… hoặc hành vi tạo tác “operant” nhằm đáp lại những kích thích có lợi cho cơ thể, nhưng về
cơ bản chủ nghĩa hành vi mới vẫn mang tính máy móc, thực dụng của chủ nghĩa hành vi cổ điển Watson.
4. Đánh giá thuyết tâm lý học hành vi
Điểm mạnh: Tâm lý học hành vi có khá nhiều điểm mạnh. Thuyết hành vi có nền tảng dựa trên những hành
vi quan sát được, vì vậy đôi khi chúng ta sẽ cảm thấy khá dễ dàng trong việc định lượng và thu thập số liệu
khi tiến hành nghiên cứu. Các kỹ thuật điều trị có hiệu quả như can thiệp sâu vào hành vi, phân tích hành vi,
phương pháp tặng thưởng có giá trị kinh tế và huấn luyện tập sự riêng biệt đều có gốc rễ từ thuyết hành vi.
Mặc dù tâm lý học hành vi giữ vai trò là học thuyết nền tảng, không còn phát triển mạnh mẽ như trước đây
nhưng những nguyên lý của nó vẫn còn rất quan trọng. Thậm chí ngày nay, phân tích hành vi vẫn thường
được sử dụng như một kỹ thuật trị liệu giúp trẻ bị tự kỷ và chậm phát triển trí tuệ học những kỹ năng mới.
Nó thường gắn liền với các quá trình định hình (khen thưởng để đạt được hành vi mong muốn) và xâu chuỗi
(chia công việc thành các phần nhỏ hơn rồi dạy và xâu chuỗi các bước kế tiếp lại với nhau). Các kỹ thuật
liệu pháp hành vi khác bao gồm liệu pháp ác cảm, phương pháp làm mất cảm thụ có hệ thống, phương
pháp tặng thưởng có giá trị kinh tế, tạo mô hình mẫu và quản lý hành vi tích cực.
Điểm yếu: Bên cạnh những điểm mạnh ta vừa nêu thì thuyết tâm lý học hành vi cũng có một số điểm yếu
(hạn chế) có thể nêu. Nhiều người phê bình thuyết hành vi, cho rằng đây chỉ là cách tiếp cận một chiều khi
tìm hiểu về hành vi con người. Theo họ, các học thuyết về hành vi không bao hàm được tự do ý chí và sự
tác động mang tính nội tại như tâm trạng, suy nghĩ và cảm nghĩ. Mặt khác, nó cũng không nói lên được
những dạng học tập khác xuất hiện mà không cần đến các yếu tố củng cố và trừng phạt. Hơn nữa, con
người và động vật có thể thích nghi hành vi khi có thông tin mới xuất hiện dù là hành vi đó được thiết lập
thông qua các yếu tố củng cố đi chăng nữa.
Một trong những lợi ích của thuyết hành vi là nó cho phép các nhà khoa học kiểm tra được các hành vi
quan sát được theo một cách thức khoa học và có hệ thống. Tuy nhiên, nhiều người nghĩ rằng nó không
đầy đủ vì không chú ý đến một số thứ ảnh hưởng quan trọng lên hành vi. Ví dụ, Freud thấy thuyết hành vi
không thành công vì nó không nói lên được những suy nghĩ, cảm xúc và ham muốn của con trường trong
trạng thái tâm trí vô thức, tất cả đều gây ảnh hưởng lên các hành vi của con người. Một số nhà tư tưởng
khác, như Carl Rogers và những nhà tâm lý học nhân văn khác lại tin rằng thuyết hành vi quá cứng nhắc và
bị nhiều hạn chế, không xem xét đến các yếu tố mang tính đặc trưng cá nhân.
5. Kết thúc vấn đề
Một trong số những thế mạnh lớn nhất của tâm lý học hành vi là khả năng quan sát và đo lường hành vi một
cách rõ ràng. Những hạn chế của cách tiếp cận này là nó không thể phân tích được những quá trình nhận
thức và sinh lý bên trong ảnh hưởng lên hành vi. Mặc dù hiện nay thuyết hành vi không còn giữu được vị
thế thống trị như trước đây nhưng nó vẫn có một tác động lớn giúp ta hiểu rõ thêm về tâm lý học con người.
Bản thân quá trình điều kiện hóa đã giúp chúng ta hiểu được nhiều loại hành vi khác nhau, từ cách con
người học tập đến quá trình phát triển của ngôn ngữ.
6. Câu hỏi thường gặp về tâm lý học hành vi
6.1 Hãy nêu các loại phân hoá trường phái tâm lí học hành vi?
Các loại phân hoá trường phái tâm lí học hành vi gồm 3 nhánh: Tâm lí học hành vi bảo thủ; Tâm lí học hành
vi mới; Tâm lí học hành vi chủ quan.
6.2 Hãy cho biết Tâm lý học hành vi lấy đối tượng nghiên cứu là gì?
Tâm lý học hành vi lấy đối tượng nghiên cứu là “tổ hợp các trạng thái mà ta nghiệm thấy, các trạng thái
được trực tiếp thể nghiệm trong vòng ý thức khép kín”..
6.3 Thuyết hành vi được chính thức thiết lập vào năm nào?
Thuyết hành vi được chính thức thiết lập vào năm 1913 với sự xuất bản bài phân tích của John B. Watson
có tên “Psychology as the Behaviorist Views It.” (Tâm lý học qua cái nhìn của nhà hành vi học).
| 1/4

Preview text:

Tâm lý học hành vi và học thuyết tâm lý học hành vi
1. Mở đầu vấn đề
Tâm lý học xuất phát từ tiếng Latinh với “Psyche” là “linh hồn, tinh thần” và “logos” là “khoa học, học thuyết”.
Vì thế tâm lý học hay Psychology chính là khoa học về tâm hồn.
Kể từ đầu thế kỉ XIX trở đi, nền sản xuất thế giới đã phát triển mạnh, thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của
nhiều lĩnh vực khoa học, kĩ thuật phát triển. Chính những thành tựu của các lĩnh vực khoa học này đã tạo
điều kiện cho tâm lý học trở thành một ngành khoa học độc lập với các trường phái tâm lý học khác nhau.
Sự kiện lớn nhất tạo nên kết quả đó chính là sự ra đời của Phòng thí nghiệm tâm lý đầu tiên trên thế giới do
nhà tâm lý người Đức Wilhelm Wundt (1832 – 1920) sáng lập vào năm 1879 tại thành phố Laixic. Vào thời
điểm đó, Wilhelm Wundt là người đầu tiên đặt sự quan tâm đặc biệt vào các khối cấu trúc trí tuệ và chuyên
tâm nghiên cứu nó. Cũng tại đây ông chính thức định nghĩa cho câu hỏi: “Tâm lý học là gì?”
Theo Wilhelm Wundt, tâm lý học là một bộ môn nghiên cứu kinh nghiệm hữu thức (Conscious experience),
thông qua một mô hình nhận thức được mệnh danh là lý thuyết kết cấu.
Theo Wilhelm Wundt, đối tượng của tâm lý học không chỉ là ý thức chủ quan và con đường nghiên cứu ý
thức là các phương pháp nội quan và tự quan sát. Mà đối tượng của tâm lý học còn bao hàm cả những ý
thức khách quan (hữu thức) mà con người hoàn toàn có thể quan sát, đo đạc được bằng các phương pháp thực nghiệm.
Phát huy những ý tưởng của Wundt, đầu thế kỷ XX các trường phái tâm lý học theo chủ nghĩa khách quan
ra đời bao gồm: Nhận thức hành vi; tâm lý học Gestalt và Phân tâm học… Ngoài ra, trong giao đoạn này
ngành tâm lý còn phát triển nhiều trường phái khác như nhân văn; nhận thức..
Một bước ngoăt to lớn cho ngành tâm lý đó là sự thành công của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917,
khi mà chủ nghĩa Mac-Lenin trở thành kim chỉ nam cho các nhà triết học, nhà khoa học và các trường phái
tâm lý học thời kỳ đó.
2. Giới thiệu tâm lý học hành vi
Khái niệm tiếp cận hành vi là một trong những cố gắng rất lớn của tâm lý học thế giới đầu thế kỉ XX, nhằm
khắc phục tính chủ quan trong nghiên cứu tâm lý người thời đó.
Kết quả của tiếp cận hành vi đã hình thành trường phái có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển tâm lý
học Mĩ và trên thế giới trong suốt thế kỷ XX, cụ thể có thể kể đến là: Tâm lý học hành vi, mà đại biểu là các
nhà tâm lý học kiệt xuất: E.L.Thorndike (1874-1949), J.B.J.Watson (1878-1958), E.C.Tolman (1886-1959),
K.L.Hull (1884-1952) và B.F.Skinner (1904-1990) và A. Bandura v.v…
Tâm lý học hành vi ra đời là một cuộc cách mạng, làm thay đổi cơ bản hệ thống quan niệm về tâm lý học
đương thời. Theo đó, đối tượng của tâm lý học là hành vi chứ không phải ý thức.
Phương pháp nghiên cứu là quan sát và thực nghiệm khách quan chứ không phải là nội quan. Trước và
trong thời kỳ xuất hiện Thuyết hành vi, tâm lý học được hiểu là khoa học về ý thức và phương pháp nghiên
cứu là nội quan (tự quan sát và giải thích). Ngay từ khi ra đời ở Đức năm 1879, với tư cách là khoa học độc
lập, tâm lý học đã được mệnh danh là Tâm lý học nội quan. W.Wundt - người sáng lập ra Tâm lý học này,
đã xác định đối tượng của tâm lý học là tổ hợp các trạng thái mà ta nghiệm thấy - các trạng thái được trực
tiếp thể nghiệm trong vòng ý thức khép kín. Sự phát triển tiếp theo của Tâm lý học nội quan đã hình thành
nên Tâm lý học cấu trúc ở Mĩ. Mặt khác, do nhu cầu khắc phục sự bế tắc của Tâm lý học nội quan, cũng ở
Mĩ những năm này đã xuất hiện Tâm lý học chức năng. Tuy nhiên, trên thực tế, cả hai dòng phái đều không
tạo lập được khoa học khách quan về ý thức. Lý luận của chúng gắn liền với phương pháp chủ quan, điều
này gây sự thất vọng ở khắp mọi nơi.
Kết quả là, những vấn đề cơ bản của tâm lý học trở nên mờ mịt đối với nhiều người: Đối tượng nghiên cứu
(ý thức) và nguồn gốc của nó (ý thức bắt đầu từ đâu), phương pháp nghiên cứu (nội quan, nguyên tắc giải
thích: nguyên nhân tâm lý như là sự chế uớc của một số hiện tượng ý thức đối với các hiện tượng khác).
Từ đó đã xuất hiện nhu cầu cấp thiết về đối tượng, phương pháp và nguyên tắc mới, đặc biệt ở Mĩ, nơi mà
cách tiếp cận thực dụng trong nghiên cứu con người chiếm vai trò thống trị. Điều này đã được chứng minh
bằng khuynh hướng chức năng, mà trọng tâm chú ý là vấn đề thích ứng của cá nhân với môi trường.
Nhưng chủ nghĩa chức năng, vốn bắt nguồn từ các quan niệm thời cổ đại về ý thức như là một bản thế đặc
biệt vươn tới mục đích, đã bị bất lực khi giải thích nguyên nhân điều khiển hành vi con người, sự tạo ra
những hình thức hành vi mới.
=> Nhân vật hàng đầu của Tâm lý học hành vi là J.Watson. Các luận điểm của ông là nền tảng lý luận của
hệ thống tâm lý học này. Nói tới Tâm lý học hành vi, không thể không nói nhiều về các quan điểm đó. Tuy
nhiên, một mình J.Watson không làm nên trường phái thống trị tâm lý học Mĩ và ảnh hưởng lớn tới sự phát
triển tâm lý học thế giới suốt thế kỷ XX. Trước J.Watson có nhiều bậc tiền bối, mà tư tưởng và kết quả thực
nghiệm của họ là cơ sở trực tiếp, để trên đó Watson xây dựng các luận điểm then chốt của Tâm lý học hành
vi. Sau J.Watson nhiều nhà tâm lý học lớn khác của Mĩ đã phát triển học thuyết này, đưa nó thành hệ thống
tâm lý học đa dạng và bám rễ vào mọi ngóc ngách của đời sống xã hội. Vì vậy, có thể chia quá trình phát
triển của Tâm lý học hành vi thành ba giai đoạn không hoàn toàn theo trật tự tuyến tính về thời gian: Những
cơ sở lý luận; và Thực nghiệm đầu tiên hình thành các luận điểm cơ bản (Thuyết hành vi cổ điển); Sự phát
triển tiếp theo của Tâm lý học hành vi, sau khi có các luận điểm của J.Watson (các thuyết hành vi mới và hậu hành vi).
3. Phân tích học thuyết tâm lý học hành vi
Như đã nêu qua ở mục 2, Tâm lý học hành vi là một trường phái tâm lý học do nhà tâm lý học Mĩ J. Watson
(1878 – 1958) sáng lập vào năm 1913; được J.Watson là người định nghĩa tâm lý học hành vi là gì: và cũng
được chính ông xuất bản với cái tên “Psychology as the Behaviorist Views It” (Tạm dịch: Tâm lý học qua cái
nhìn của nhà hành vi học).
Theo đó, nhà tâm lý học Mĩ J. Watson cho rằng tâm lý học không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà
chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể ở con người cũng như ở động vật.
Nhà tâm lý học Mĩ J. Watson cũng tin rằng, các phản ứng của con người đối với kích thích của môi trường
chính là cái tạo nên hành vi. Nói một cách dễ hiểu hơn, hành vi được hiểu là tổng số các cử động bên ngoài
nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp lại một kích thích nào đó theo một công thức nhất định.
Công thức: S – R (Stimulus – Reaction)
Kích thích – Phản ứng = Hành vi
=> Với Công thức này, nhà tâm lý học Mĩ J. Watson đã nêu lên một quan điểm tiến bộ trong tâm lý học: coi
hành vi là do ngoại cảnh quyết định, hành vi có thể quan sát được, nghiên cứu được một cách khách quan,
từ đó có thể điều khiển hành vi theo phương pháp “thử – sai”. Ngoài ra, Các hành vi này có thể được học
tập một cách có hệ thống và có thể quan sát một cách rõ ràng từ bên ngoài, không đi sâu vào diễn biến nội tâm.
Bên cạnh những lời khen về thành tựu của mình thì học thuyết hành vi cũng gây ra nhiều tranh cãi cho các
nhà tâm lý bởi quan niệm về hành vi mà J.Watson đưa ra quá cơ học và máy móc làm mất đi tính chủ thể,
tính xã hội của tâm lý con người. Nói một cách dễ hiểu hơn đó là sự đồng nhất tâm lý con người với tâm lý
động vật. Một số nhà tâm lý cho rằng quan điểm của trường phái này là quan điểm phi lịch sử và thực dụng.
Về sau này các đại biểu của chủ nghĩa hành vi mới như: Tonmen, Hulo, Skiner… có đưa vào công thức S –
R những “biến số trung gian” bao hàm một số yếu tố như: nhu cầu, trạng thái chờ đón, kinh nghiệm sống
của con người… hoặc hành vi tạo tác “operant” nhằm đáp lại những kích thích có lợi cho cơ thể, nhưng về
cơ bản chủ nghĩa hành vi mới vẫn mang tính máy móc, thực dụng của chủ nghĩa hành vi cổ điển Watson.
4. Đánh giá thuyết tâm lý học hành vi
Điểm mạnh: Tâm lý học hành vi có khá nhiều điểm mạnh. Thuyết hành vi có nền tảng dựa trên những hành
vi quan sát được, vì vậy đôi khi chúng ta sẽ cảm thấy khá dễ dàng trong việc định lượng và thu thập số liệu
khi tiến hành nghiên cứu. Các kỹ thuật điều trị có hiệu quả như can thiệp sâu vào hành vi, phân tích hành vi,
phương pháp tặng thưởng có giá trị kinh tế và huấn luyện tập sự riêng biệt đều có gốc rễ từ thuyết hành vi.
Mặc dù tâm lý học hành vi giữ vai trò là học thuyết nền tảng, không còn phát triển mạnh mẽ như trước đây
nhưng những nguyên lý của nó vẫn còn rất quan trọng. Thậm chí ngày nay, phân tích hành vi vẫn thường
được sử dụng như một kỹ thuật trị liệu giúp trẻ bị tự kỷ và chậm phát triển trí tuệ học những kỹ năng mới.
Nó thường gắn liền với các quá trình định hình (khen thưởng để đạt được hành vi mong muốn) và xâu chuỗi
(chia công việc thành các phần nhỏ hơn rồi dạy và xâu chuỗi các bước kế tiếp lại với nhau). Các kỹ thuật
liệu pháp hành vi khác bao gồm liệu pháp ác cảm, phương pháp làm mất cảm thụ có hệ thống, phương
pháp tặng thưởng có giá trị kinh tế, tạo mô hình mẫu và quản lý hành vi tích cực.
Điểm yếu: Bên cạnh những điểm mạnh ta vừa nêu thì thuyết tâm lý học hành vi cũng có một số điểm yếu
(hạn chế) có thể nêu. Nhiều người phê bình thuyết hành vi, cho rằng đây chỉ là cách tiếp cận một chiều khi
tìm hiểu về hành vi con người. Theo họ, các học thuyết về hành vi không bao hàm được tự do ý chí và sự
tác động mang tính nội tại như tâm trạng, suy nghĩ và cảm nghĩ. Mặt khác, nó cũng không nói lên được
những dạng học tập khác xuất hiện mà không cần đến các yếu tố củng cố và trừng phạt. Hơn nữa, con
người và động vật có thể thích nghi hành vi khi có thông tin mới xuất hiện dù là hành vi đó được thiết lập
thông qua các yếu tố củng cố đi chăng nữa.
Một trong những lợi ích của thuyết hành vi là nó cho phép các nhà khoa học kiểm tra được các hành vi
quan sát được theo một cách thức khoa học và có hệ thống. Tuy nhiên, nhiều người nghĩ rằng nó không
đầy đủ vì không chú ý đến một số thứ ảnh hưởng quan trọng lên hành vi. Ví dụ, Freud thấy thuyết hành vi
không thành công vì nó không nói lên được những suy nghĩ, cảm xúc và ham muốn của con trường trong
trạng thái tâm trí vô thức, tất cả đều gây ảnh hưởng lên các hành vi của con người. Một số nhà tư tưởng
khác, như Carl Rogers và những nhà tâm lý học nhân văn khác lại tin rằng thuyết hành vi quá cứng nhắc và
bị nhiều hạn chế, không xem xét đến các yếu tố mang tính đặc trưng cá nhân.
5. Kết thúc vấn đề
Một trong số những thế mạnh lớn nhất của tâm lý học hành vi là khả năng quan sát và đo lường hành vi một
cách rõ ràng. Những hạn chế của cách tiếp cận này là nó không thể phân tích được những quá trình nhận
thức và sinh lý bên trong ảnh hưởng lên hành vi. Mặc dù hiện nay thuyết hành vi không còn giữu được vị
thế thống trị như trước đây nhưng nó vẫn có một tác động lớn giúp ta hiểu rõ thêm về tâm lý học con người.
Bản thân quá trình điều kiện hóa đã giúp chúng ta hiểu được nhiều loại hành vi khác nhau, từ cách con
người học tập đến quá trình phát triển của ngôn ngữ.
6. Câu hỏi thường gặp về tâm lý học hành vi
6.1 Hãy nêu các loại phân hoá trường phái tâm lí học hành vi?
Các loại phân hoá trường phái tâm lí học hành vi gồm 3 nhánh: Tâm lí học hành vi bảo thủ; Tâm lí học hành
vi mới; Tâm lí học hành vi chủ quan.
6.2 Hãy cho biết Tâm lý học hành vi lấy đối tượng nghiên cứu là gì?
Tâm lý học hành vi lấy đối tượng nghiên cứu là “tổ hợp các trạng thái mà ta nghiệm thấy, các trạng thái
được trực tiếp thể nghiệm trong vòng ý thức khép kín”..
6.3 Thuyết hành vi được chính thức thiết lập vào năm nào?
Thuyết hành vi được chính thức thiết lập vào năm 1913 với sự xuất bản bài phân tích của John B. Watson
có tên “Psychology as the Behaviorist Views It.” (Tâm lý học qua cái nhìn của nhà hành vi học).