















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58137911 MỞ ĐẦU
Công tác kiểm tra, giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, có
vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng, đảm bảo cho Đảng
luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tổ chức của Đảng ở các cấp, các
ngành không những có trách nhiệm trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
mà còn có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm cho nghị quyết, chỉ
thị, quy định, quy chế, kết luận của Đảng được chấp hành nghiêm chỉnh, thắng lợi trong thực tiễn.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng và tiến hành
thường xuyên công tác kiểm tra, giám sát coi đó là một nguyên tắc, một khâu quan
trọng trong quá trình lãnh đạo và quá trình xây dựng Đảng. Kiểm tra, giám sát nhằm
đảm bảo đường lối chính sách của Đảng được xác định đúng, được quán triệt và thực
hiện thắng lợi trong thực tiễn, đó là vấn đề có tính nguyên tắc, vừa là chức năng lãnh
đạo vừa là trách nhiệm, nội dung, phương pháp, quy trình lãnh đạo của Đảng.
Thời gian qua nhiều tổ chức đảng chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn, chưa coi trọng
và quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Nhiều khuyết điểm, sai phạm
của tổ chức đảng, đảng viên chậm được phát hiện, kiểm tra, xử lý, hoặc xử lý kéo dài,
nên kỷ cương, kỷ luật ở một số nơi chưa nghiêm; chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách
nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát.
Vì vậy, em chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng trong giai đoạn hiện nay” để làm bài thu hoạch nhằm góp phần
làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng trong giai đoạn hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong giai đoạn hiện nay. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC KIỂM TRA, lOMoAR cPSD| 58137911
GIÁM SÁT VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CÔNG
TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT 1.1. Một số khái niệm
Kiểm tra của Đảng: là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu
điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong
việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy
định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Giám sát của Đảng: là việc các tổ chức đảng quan sát, theo dõi, xem xét, đánh giá
hoạt động nhằm kịp thời tác động để cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới, và đảng viên được
giám sát chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị
quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Chủ thể kiểm tra và giám sát: Chi bộ, đảng ủy bộ phận, ban thường vụ đảng ủy
cơ sở, đảng ủy cơ sở; cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên; ủy ban
kiểm tra; các ban đảng, văn phòng cấp ủy (gọi chung là các cơ quan tham mưu, giúp
việc của cấp ủy); ban cán sự đảng, đảng đoàn (chỉ là chủ thể kiểm tra).
Đối tượng kiểm tra và giám sát: Chi ủy, chi bộ, đảng ủy bộ phận, ban thường vụ
đảng ủy cơ sở, đảng ủy cơ sở; cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy từ cấp
trên cơ sở trở lên; ủy ban kiểm tra, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy; ban
cán sự đảng, đảng đoàn; đảng viên. - Sự giống và khác nhau giữa kiểm tra và giám
sát + Giống nhau:
Kiểm tra và giám sát đều là hoạt động của của nội bộ Đảng do cấp ủy, tổ chức
đảng và ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện. Kiểm tra và giám sát đều nhằm đạt được
mục đích là nắm vững và đánh giá thực chất tình hình, để từ đó chủ động phòng ngừa,
ngăn chặn, điều chỉnh, uốn nắn mọi hành vi của tổ chức và cá nhân có liên quan, phục
vụ việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh.
Đối tượng và nội dung kiểm tra, giám sát đều là tổ chức đảng và đảng viên trong
việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các
nguyên tắc tổ chức của Đảng, trong việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách lOMoAR cPSD| 58137911
của Đảng, nghị quyết của cấp ủy và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp
hành Trung ương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. + Khác nhau:
Về mục đích: Giám sát là để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra khuyết điểm,
vi phạm từ lúc mới manh nha. Giám sát nhắc nhở, lưu ý, cảnh báo đối tượng giám sát
thực hiện đúng quy định. Kiểm tra là làm rõ đúng, sai và xử lý vi phạm (nếu có).
Về đối tượng: Đối với giám sát, đảng viên chỉ là đối tượng giám sát và chỉ trở
thành chủ thể giám sát khi được tổ chức đảng có thẩm quyền phân công. Đối với kiểm
tra, đảng viên vừa là đối tượng kiểm tra vừa là chủ thể tự kiểm tra. Ban cán sự đảng,
đảng đoàn chỉ là chủ thể kiểm tra.
Về phương pháp và hình thức: Giám sát không xem xét thi hành kỷ luật. Giám sát
chủ yếu quan sát, theo dõi, nhận xét và đánh giá, chú trọng đến việc lưu ý, cảnh báo,
nhắc nhở. Kiểm tra phải coi trọng thẩm tra, xác minh. Sau kiểm tra phải có kết luận rõ
đúng, sai, nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm, các tình tiết tăng
nặng hoặc giảm nhẹ và phải xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên (nếu có vi phạm
đến mức phải xử lý).
- Nguyên tắc kiểm tra, giám sát
+ Nguyên tắc kiểm tra: Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, của cấp ủy, tổ chức đảng
theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn về công tác kiểm tra của Đảng.
Tổ chức đảng và đảng viên phải thường xuyên tự kiểm tra. Tổ chức đảng cấp trên
kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Đảng viên được tham gia kiểm tra theo
sự phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền.
Tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra của Đảng. Việc kiểm tra phải
công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng, chặt chẽ, kịp thời, đúng phương pháp công
tác Đảng và quy định của điều lệ Đảng.
+ Nguyên tắc giám sát: Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban bí thư, các
cấp ủy đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng. lOMoAR cPSD| 58137911
Cấp ủy, tổ chức đảng cấp trên giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên.
Đảng viên thực hiện việc giám sát theo sự phân công của tổ chức đảng có thẩm
quyền. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát của Đảng. Việc giám sát phải dân
chủ, khách quan, đúng nguyên tắc và quy định của Điều lệ Đảng.
1.2. Vị trí, vai trò công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
1.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
V.I. Lênin luôn coi công tác giám sát là một công cụ hữu hiệu và là một trong
những nội dung lãnh đạo, quản lý quan trọng đối với tổ chức đảng, cơ quan nhà nước,
đoàn thể chính trị xã hội, coi đó như là “những nhiệm vụ đã trở thành tự nhiên đối với
những người xã hội chủ nghĩa sau khi đã giành chính quyền”1. V.I.Lênin khẳng định
mục đích cao nhất của giám sát là nhằm: hoàn thiện quy trình lãnh đạo của Đảng (gồm
các khâu: ra quyết định, tổ chức thực hiện, giám sát và kiểm tra; sơ kết, tổng kết, rút
kinh nghiệm…); phát hiện người tốt, việc tốt; chủ động năng ngừa vi phạm, giữ gìn kỷ
luật của Đảng; góp phần thực hiện có kết quả cao nhất các nghị quyết đã đề ra và xây
dựng, củng cố tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “chính sách đúng là nguồn gốc của thắng
lợi”. Khi đã có chính sách đúng thì thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do
nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ
sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích.
Người cũng chỉ rõ ý nghĩa và tác dụng của kiểm tra là: “Đảng phải luôn xét lại
những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không như vậy
thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến long tin cậu
của nhân dân đối với Đảng”2; Kiểm tra, giám sát như một phương tiện, một liều thuốc
đặc hiệu chống lại căn bệnh nghị quyết một đường, thi hành một nẻo và bệnh tham
nhũng, quan liêu, giấy tờ.
1 V.I.Lênin: Toàn tập, tập 36, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr. 298.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 250. lOMoAR cPSD| 58137911
Tại Hội nghị tổng kết công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, ngày 29 tháng 7 năm
1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Công việc của Đảng và Nhà nước ngày càng
nhiều. Muốn hoàn thành tốt mọi việc, thì toàn thể đảng viên và cán bộ phải chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối và chính sách của Đảng. Và muốn như vậy, thì các cấp ủy đảng
phải tang cường công tác kiểm tra. Vì kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng
viên và cán bộ làm trọng nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu
tốt cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức.”3.
Như vậy, theo quan điểm của Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác kiểm tra có vai
trò rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo, hoạt động của Đảng, góp phần đưa chủ
trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, kiểm nghiệm tính đúng đắn của chủ
trương, chính sách trong cuộc sống; giữ cho kỷ luật của Đảng được nghiêm minh.
1.2.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về kiểm tra, giám sát của Đảng
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã tổng kết khái
quát các quan điểm về công tác kiểm tra, giám sát:
Kiểm tra, giám sát là nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo của Đảng,
là chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng, trước hết là nhiệm vụ
của cấp uỷ và người đứng đầu cấp uỷ, do cấp uỷ trực tiếp tiến hành. Công tác kiểm tra,
giám sát phải được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt chẽ
theo đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng. Tổ chức đảng và đảng viên phải
chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng và chịu sự giám sát của nhân dân.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát phải gắn chặt với công tác tư tưởng, công
tác tổ chức và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; phải thực hiện toàn diện, đồng
bộ, có hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát; “giám sát phải
mở rộng”, “kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm” để chủ động phòng ngừa vi phạm,
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 300. lOMoAR cPSD| 58137911
kịp thời phát hiện những nhân tố mới để phát huy, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, vi
phạm ngay từ lúc mới manh nha.
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống, lấy xây là chính. Khi các vụ việc vi phạm được phát hiện, phải kiên quyết xử lý
nghiêm minh để răn đe và giáo dục. Đề cao trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên;
phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân
trong công tác kiểm tra, giám sát.
II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM
SÁT CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
2.1.1. Ưu điểm
Văn kiện Đại hội XII nêu rõ: “Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được coi
trọng, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Cấp ủy đảng các cấp đã chỉ đạo thực hiện
có kết quả việc kiểm tra thực hiện nghị quyết, chỉ thị của
Đảng; các chương trình, dự án; quản lý và sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản;
chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm và công tác cán bộ; xử lý nghiêm tổ
chức đảng, đảng viên có sai phạm, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, tăng
cường kỷ luật, kỷ cương, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền, tổ chức bộ máy, điều kiện hoạt động của ủy ban kiểm tra và cơ quan kiểm
tra các cấp tiếp tục được làm rõ”.
Những ưu điểm nổi bật của Ủy ban kiểm tra các cấp trong thời gian qua:
+ Đã xác định nhiệm vụ trọng tâm, các lĩnh vực trọng điểm và đối tượng cần tập
trung kiểm tra; thực hiện tốt chức năng tham mưu về công tác kiểm tra cho cấp uỷ và
hoàn thành các nhiệm vụ do cấp uỷ giao.
+ Đã có sự đổi mới về phương pháp công tác nên nhìn chung chất lượng và hiệu
quả công tác kiểm tra đã từng bước được nâng lên, khẳng định được vị trí, tác dụng của công tác kiểm tra.
+ Kiểm tra, xử lý nhiều vụ tiêu cực, tham nhũng với thái độ kiên quyết, nghiêm
minh, góp phần tích cực vào đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí… lOMoAR cPSD| 58137911
+ Ủy ban kiểm tra các cấp và đội ngũ cán bộ kiểm tra đã từng bước phát triển,
trưởng thành cả về chất lượng và số lượng; hoạt động ngày càng tích cực, có nền nếp.
* Một số kết quả cụ thể thực hiện công tác kiểm tra giám sát trong thời gian qua:
Thông tin từ báo cáo của Ban chỉ đạo tổng kết Nghị quyết Trung ương 5 khóa X
tại hội thảo cho biết, tính từ năm 2008 đến tháng 6-2018, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã
kiểm tra 165 tổ chức đảng. Tỉnh ủy, ban thường vụ tỉnh ủy và tương đương đã kiểm tra
10.812 tổ chức đảng, 13.932 đảng viên.
Cấp ủy các cấp phải thi hành kỷ luật 315 tổ chức (đã thi hành kỉ luật 204 tổ chức)
và 4.892 đảng viên (đã thi hành kỷ luật 3.579 đảng viên).
Từ năm 2008 đến tháng 6-2018, ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra 33.892 tổ
chức đảng và 121.725 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Qua kiểm tra, kết luận 21.545
tổ chức đảng và 92.753 đảng viên có vi phạm; phải thi hành kỷ luật 1.801 tổ chức đảng
và 45.607 đảng viên (đã thi hành kỷ luật 1.522 tổ chức đảng và 34.959 đảng viên).
Như vậy, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành
trung ương khóa X về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng, cấp ủy các cấp và ủy ban kiểm tra các cấp phải thi hành kỷ luật đối với
2.116 tổ chức đảng và 50.499 đảng viên.
2.1.2. Khuyết điểm, hạn chế
Ủy ban kiểm tra các cấp còn có một số hạn chế, bất cập sau:
- Số lượng các cuộc kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệuvi phạm
còn thấp, còn bỏ lọt vi phạm; tính chủ động, kết quả, chất lượng, tác dụng ngăn ngừa, giáo dục chưa cao.
- Thực hiện chức năng tham mưu và làm nhiệm vụ do cấp ủy giao còn cóviệc
thiếu chủ động. Qua thực hiện các kế hoạch kiểm tra, kết quả kiểm tra chưa đạt so với yêu cầu đề ra.
- Việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện các thông báo kết luận kiểmtra, giải
quyết tố cáo chưa được chú trọng, nên có tình trạng chấp hành không nghiêm… lOMoAR cPSD| 58137911
- Việc kiểm tra tài chính của cơ quan tài chính của cấp ủy cùng cấp cònhạn
chế…Nhiều nơi vẫn muốn cấp trên kiểm tra cấp dưới, không muốn tự kiểm tra cấp mình.
2.1.3. Nguyên nhân của khuyết điểm, hạn chế:
- Một số cấp uỷ, tổ chức đảng, bí thư cấp uỷ chưa quan tâm đúng mức,nhận thức
chưa đầy đủ về công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật của Đảng. Còn thiếu các quy định
của Đảng làm cơ sở cho việc đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật đảng; một số chính sách, pháp luật của Nhà nước còn nhiều sơ hở, thiếu
đồng bộ, nhiều quy định không còn phù hợp nhưng chậm được bổ sung, sửa đổi, ban
hành mới; chưa có cơ chế giám sát trong Đảng và giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể chính trị - xã hội và của nhân dân đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên.
- Một số nơi còn vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất lànguyên tắc
tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; việc buông lỏng quản lý đảng viên còn khá phổ biến.
- Tổ chức bộ máy làm công tác kiểm tra của Đảng từ Trung ương đến cơsở còn
thiếu thống nhất, bất cập nhưng chậm được đổi mới. Đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng,
nhất là cán bộ kiểm tra chuyên trách còn thiếu về số lượng, một bộ phận yếu về chất
lượng; điều kiện, phương tiện làm việc và chế độ, chính sách đối với cán bộ kiểm tra
chưa thoả đáng; chưa có cơ chế để thu hút được cán bộ có năng lực, trình độ về làm
công tác kiểm tra của Đảng. Công tác nghiên cứu về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
chưa giải đáp được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra.
- Sự chỉ đạo của ủy ban kiểm tra cấp trên có khi thiếu kịp thời; văn bảnhướng dẫn
chậm. Còn nhiều ủy ban kiểm tra các cấp thiếu chủ động, thiếu quyết tâm, chần chừ,
ngại va chạm. Tình trạng bao che, ô dù, bệnh thành tích chưa khắc phục một cách triệt để…
- Cấp uỷ một số nơi chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thườngxuyên, nhất
là chương trình kiểm tra của cấp uỷ, chủ yếu giao cho ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện. lOMoAR cPSD| 58137911
2.2. Giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp
hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà
nước; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ công tác,
thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; việc thực hành tiết kiệm, phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên; việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp; việc điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án, nhất là những vụ án nghiêm trọng, gây bức xúc trong
dư luận xã hội; kiểm tra, giám sát việc tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo,
đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức
đảng, nhà nước, mặt trận và các đoàn thể nhân dân các cấp trong việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải phối hợp chặt
chẽ với công tác thanh tra của Chính phủ, công tác giám sát của Quốc hội và các cơ
quan hành pháp, tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức
năng và thẩm quyền của mỗi cơ quan.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hoạt động của hệ thống uỷ ban kiểm tra
các cấp. Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa uỷ ban kiểm tra đảng với các tổ chức đảng
và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên.
Ngoài ra tập trung thực hiện các giải pháp sau:
2.2.1. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp uỷ, tổ chức
đảng, ủy ban kiểm tra về công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật của Đảng
Mỗi cấp uỷ đảng cần nhận thức rõ: công tác kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ của
toàn Đảng, trong đó cấp ủy vừa là người lãnh đạo, vừa là người tổ chức thực hiện,
không khoán trắng cho ủy ban kiểm tra; nhận thức rõ mối quan hệ biện chứng giữa
công tác kiểm tra, giám sát với công tác cán bộ và công tác xây dựng Đảng; nâng cao lOMoAR cPSD| 58137911
chất lượng công tác kiểm tra cũng có nghĩa là nâng cao chất lượng lãnh đạo của cấp uỷ.
Cấp ủy phải thường xuyên đánh giá rút kinh nghiệm. Thực hiện nghiêm túc chế
độ lãnh đạo có kiểm tra, kiểm tra có chương trình, kế hoạch.. Trước hết đổi mới triệt
để tư duy, khắc phục những nhận thức không đúng, những định kiến sai lầm đối với
công tác kiểm tra và vấn đề thi hành kỷ luật trong Đảng. Xây dựng chương trình, kế
hoạch kiểm tra thật cụ thể, nắm vững những việc chủ yếu, giải quyết dứt điểm từng vụ, việc.
2.2.2. Xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước
phục vụ công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng
Đảng và Nhà nước phải quan tâm xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, các
quy định, các chế độ nhằm tạo điều kiện cho công tác kiểm tra, giám sát tiến hành thuận
lợi. Xây dựng chính sách và chế tài thống nhất về xử lý kỷ luật trong Đảng. Nâng cao
chất lượng của các quyết định, hoàn thiện cơ chế quản lý, hệ thống pháp luật... lấy đó
làm phương hướng, chuẩn mực để kiểm tra, đánh giá. Phát huy mạnh mẽ tính dân chủ,
công khai và minh bạch trong xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách, các phương
pháp, các chế tài… nhằm đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân.
Vận dụng và kết hợp một cách đồng bộ các phương pháp kiểm tra, giám sát; đổi
mới phương pháp phối hợp giữa ủy ban kiểm tra với các ban của cấp ủy và các cơ quan
nhà nước có liên quan. Để phối hợp kiểm tra, giám sát có hiệu quả, cần xây dựng cơ
chế theo hướng quy định rõ nội dung và trách nhiệm, cách thức phối hợp, cơ quan chủ
trì phối hợp và trách nhiệm cụ thể của từng thành viên để thực hiện đúng tư tưởng chỉ
đạo của công tác kiểm tra, giám sát: chủ động - chiến đấu - giáo dục - hiệu quả.
2.2.3. Đổi mới, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của cấp
uỷ, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp và chi bộ bảo đảm hiệu lực, hiệu quả
- Cấp uỷ các cấp : Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ Đảng,
chủ trương, nghị quyết, chỉ thị và các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước nhằm phát hiện nhân tố tích cực để nhân rộng, những chủ trương, chính sách
chưa phù hợp để điều chỉnh, ngăn ngừa, hạn chế các sai phạm của tổ chức đảng và lOMoAR cPSD| 58137911
đảng viên. Chú trọng kiểm tra, giám sát việc cụ thể hoá, thể chế hoá đường lối, quan
điểm của Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát những nơi thường dễ xảy ra vi phạm.
Kiểm tra, giám sát người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp về năng lực
lãnh đạo, quản lý, về phẩm chất đạo đức, lối sống, về phong cách và tính tiên phong,
gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ.
- Các tổ chức đảng : Chủ động thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát tổ chức
đảng và đảng viên theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; phối hợp với uỷ
ban kiểm tra tham mưu, giúp cấp uỷ thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát thuộc lĩnh
vực được phân công phụ trách và nhiệm vụ cấp uỷ giao. Kịp thời phát hiện dấu hiệu vi
phạm thuộc lĩnh vực công tác của tổ chức mình và chuyển tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
- Uỷ ban kiểm tra các cấp: Tăng cường kiểm tra, giám sát tổ chức đảng cấp dưới
và đảng viên, trước hết là cấp uỷ viên cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp mình
quản lý, chủ động phát hiện và kịp thời kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. Nâng cao
chất lượng kiểm tra, giám sát tài chính của cấp uỷ cấp dưới và của cơ quan tài chính
cấp uỷ cùng cấp để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
- Chi bộ: Tăng cường kiểm tra, giám sát đảng viên trong chi bộ. Tập trung giám
sát chi uỷ, chi uỷ viên, đảng viên là cấp uỷ viên các cấp, cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp
trên quản lý sinh hoạt trong chi bộ cả nơi công tác và nơi cư trú. Qua kiểm tra, giám
sát, kịp thời phát huy ưu điểm, uốn nắn, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm của cán bộ,
đảng viên từ khi mới phát sinh để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm từ
trong nội bộ, ngay từ cơ sở.
- Các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp phải xây dựngphương hướng,
nhiệm vụ, chương trình công tác kiểm tra, giám sát toàn khoá, hàng năm và thực hiện
kiểm tra, giám sát theo chương trình, kế hoạch đã đề ra.
- Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng là công việc của nội bộ Đảng.Những
vụ việc trong quá trình kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng khi chưa được phép của cấp
uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp thì tuyệt đối không được cung cấp và công
bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nếu vi phạm quy định trên thì phải xem lOMoAR cPSD| 58137911
xét, xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan chủ quản, tổng biên tập, phóng viên,
cộng tác viên; đồng thời xử lý nghiêm người cung cấp tin khi chưa được phép của tổ chức có thẩm quyền.
- Đẩy mạnh tuyên truyền công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng cả vềlý luận,
thực tiễn và kinh nghiệm trên các phương tiện thông tin đại chúng, trước hết là trên các
tạp chí, các báo của Đảng, đài phát thanh, truyền hình ở Trung ương và địa phương.
- Đổi mới việc sơ kết, tổng kết thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷluật đảng
của các cấp uỷ. Hằng năm, cuối nhiệm kỳ, cấp uỷ các cấp từ Trung ương đến cơ sở,
trước hết là người đứng đầu cấp uỷ phải trực tiếp chỉ đạo tổng kết việc thực hiện công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng ở cấp mình.
2.2.4. Hoàn chỉnh quy trình, phương pháp kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng
Cấp ủy phải xây dựng quy trình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; quy định
rõ trách nhiệm lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của mỗi cấp ủy viên.
Vận dụng, kết hợp linh hoạt các hình thức kiểm tra như kiểm tra thường xuyên, đột
xuất, định kỳ và phương pháp kiểm tra trực tiếp, gián tiếp.
Dân chủ hoá và hiện đại hoá công tác kiểm tra. Hoạt động kiểm tra cần phải được
tiến hành công khai, thống nhất từ trong cấp uỷ đến mọi đảng viên. Kiểm tra, đánh giá,
kết luận phải dựa trên những chứng cứ rõ ràng, không áp đặt, quy chụp. Kết quả xử lý
phải được thông báo công khai, rộng rãi, không vì một lý do nào đó mà chỉ “thông báo
nội bộ”. Không nên biệt lập công tác kiểm tra của Đảng mà phải biết kết hợp công tác
kiểm tra của Đảng với công tác thanh tra nhà nước, thanh tra của các đoàn thể nhân dân...
Nắm vững và thực hiện tốt các phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra: dựa
vào tổ chức đảng; dựa vào tính tích cực xây dựng Đảng của quần chúng; phát huy tính
tự giác của đảng viên và làm tốt công tác thẩm tra xác minh.
2.2.5. Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra và tăng cường cán bộ
kiểm tra các cấp bảo đảm tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao lOMoAR cPSD| 58137911
Thường xuyên kiện toàn ủy ban kiểm tra và cơ quan giúp việc của ủy ban kiểm
trađảm bảo số lượng, chất lượng. Tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ làm công
tác kiểm tra, nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân chính trị chuyên ngành công tác kiểm
tra, thường xuyên mở các lớp tập huấn nghiệp vụ cho cấp ủy viên và cán bộ làm công tác kiểm tra.
Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra có phẩm chất đạo đức cách mạng,
có bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm, tính chiến đấu cao, có kỹ năng nghiệp vụ thuần thục,
phương pháp công tác khoa học, công tâm, khách quan, sâu sát, thận trọng và ứng xử
có văn hoá. Không được lợi dụng vị trí công tác để làm sai chức trách, nhiệm vụ được giao.
Hoàn thiện Uỷ ban kiểm tra các cấp của Đảng từ Trung ương đến cơ sở, coi trọng
chất lượng, đảm bảo đủ số lượng. Tăng thêm quyền hạn cho Uỷ ban kiểm tra, sao cho
cơ quan này có đủ thẩm quyền để kiểm tra đảng viên (kể cả cấp uỷ viên cùng cấp),
kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm... Các cấp uỷ phải thường
xuyên quan tâm tạo điều kiện để uỷ ban kiểm tra hoạt động thuận lợi, giúp đỡ việc xây
dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bố trí cán bộ và sử dụng những cán bộ có phẩm
chất, năng lực tốt, có tín nhiệm, nghiệp vụ chuyên môn giỏi, thuần thục công tác đảng
và có khả năng thực hiện kiểm tra theo tinh thần của Đảng; đảm đương cương vị phụ
trách cơ quan quan trọng này.
2.2.6. Tăng cường đầu tư, hiện đại hoá cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện
làm việc cho công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
Từng bước đổi mới, hiện đại hoá cơ sở vật chất, các trang thiết, ứng dụng khoa
học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin phục vụ công tác kiểm tra; thiết lập hệ
thống cơ sở dữ liệu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng của toàn Đảng và của
ngành Kiểm tra Đảng...Có như vậy mới đáp ứng được tình hình và nhiệm vụ mới.
2.2.7. Nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
Tập trung đầu tư nghiên cứu cả ở tầm vĩ mô và vi mô; nâng cao khả năng dự báo
về tình hình vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, nhất là những vi phạm mới do tác lOMoAR cPSD| 58137911
động của toàn cầu hoá, cơ chế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển nhanh
chóng của khoa học - công nghệ mới... Chú trọng nghiên cứu các chủ trương, biện
pháp, cơ chế, chính sách để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm của tổ
chức đảng và đảng viên.
Tăng cường nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ
luật đảng với các đảng cộng sản và về giám sát, phản biện xã hội của một số nước trên thế giới. lOMoAR cPSD| 58137911 KẾT LUẬN
Kiểm tra, giám sát là nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo của Đảng,
là chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng, trước hết là nhiệm vụ
của cấp uỷ và người đứng đầu cấp uỷ, do cấp uỷ trực tiếp tiến hành.Tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát phải gắn chặt với công tác tư tưởng, công tác tổ chức và đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng; phải thực hiện toàn diện, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu
quả, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Hiện nay, nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vững bước đi lên chủ nghĩa
xã hội trong điều kiện tình hình thế giới còn nhiều biến động, xu hướng toàn cầu hóa
mở rộng, thành tựu khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão…cùng với những
mặt trái của nó đang hàng ngày, hàng giờ tác động đến quá trình xây dựng và phát triển
của đất nước. Do đó tăng cường công tác kiểm tra, giám sát là nhằm đảm bảo chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được xác
định đúng đắn, quán triệt và thực hiện thắng lợi trong thực tiễn; đồng thời, kịp thời phát
hiện, phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên; kịp thời phát hiện tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu
vi phạm để tiến hành kiểm tra, xem xét, kết luận và xử lý nghiêm minh, góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ,
đảng viên, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2006. 2.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2011. lOMoAR cPSD| 58137911 3.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2016. 4.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2002, t.21. 5.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng thông qua ngày 19/1/2011), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011. 6.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.5. 7.
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình xây
dựng Đảng cộng sản Việt Nam (chương trình cao cấp lý luận chính trị), Nxb. Lý luận chính trị, H. 2018. 8.
Học viện Xây dựng Đảng: Tài liệu phục vụ môn học xây dựng Đảng, Nxb.
Chính trị - Hành chính, H. 2011. 9.
Tăng cường kiểm tra, giám sát phục vụ chính trị và xây dựng Đảng Cao
Văn Thống - Nxb chính trị Quốc gia - Hà Nội 2009. 10.
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva. 1978, t.44.