



Preview text:
Thành tựu về thủ công nghiệp của văn minh Đại Việt
I, Các nghề thủ công nghiệp tiêu biểu: 1. Nghề gốm Gốm Chu Đậu:
Chu Đậu thời Lê Sơ là xã nhỏ ở huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Đây
là trung tâm sản xuất gốm sứ cao cấp, xuất hiện từ cuối thời nhà Trần và đến thời Hậu Lê
thì bắt đầu phát triển mạnh mẽ.
Chu Đậu chuyên sản xuất đồ gốm sứ cao cấp, đa dạng về các loại hình sản phẩm như
chén, bát, hộp sứ, lọ, bình, tước... được trang trí bằng nhiều loại men màu, phổ biến là
men trắng trong, hoa lam, men ngọc. Một số sản phẩm tráng tới 2 màu men. Hoa văn chủ
đạo là sen, cúc dưới hình dạng phong phú; hình động vật là chim, cá, côn trùng và người. Gốm Bát Tràng:
Làng nghề nổi tiếng này hình thành từ thời Lý, Trần và thường cung cấp cống phẩm cho
nhà Minh. Trước đây, người làng vốn ở làng Bồ Bát hay Bạch Bát (Ninh Bình) di cư đến
lập nghiệp, đặt tên làng mới là Bạch Thổ phường (phường đất trắng), sau đổi là Bá Tràng
phường, cuối cùng mới lấy tên Bát Tràng phường (nơi làm bát).
Sản phẩm của Bát Tràng gồm bát, đĩa, chậu, ấm, bình vôi, bình hoa, gạch, ngói... Men
trang trí có phong cách đặc trưng riêng; hình dáng sản phẩm dày dặn chắc khỏe. Sản
phẩm gạch Bát Tràng cũng rất nổi tiếng, dùng lát nhiều sân chùa và đường làng. 2. Nghề dệt
Nghề dệt có ở Việt Nam từ hơn 1000 năm trước ( từ thời Hậu Lê).
Tại kinh thành Thăng Long có các phường dệt nổi tiếng như Thụy Chương, Nghi Tàm. Tại
Hải Dương có 3 ấp nổi tiếng là Mao Điền (huyện Cẩm Giàng), Hộ Am và ấp Bất Bế (huyện
Đồng Lai, nay là huyện Vĩnh Lại).
Thời Lê sơ, các thợ dệt đã làm được hàng sợi bông trông gần như dạ và nỉ hiện đại gọi là
"nuy đoạn" hoặc "nhung thúc". Đến thế kỷ 20, các cửa hàng bán đồ tế lễ dùng loại nhung này
để cắt chữ dán câu đối hoặc bọc ngoài các đôi hia cúng thần. Phủ Quốc Oai đã sản xuất thứ
hàng này gồm đủ màu xanh, tím, vàng, biếc không kém chất lượng hàng của Trung Quốc. 3. Nghề sơn
Nghề sơn đã có từ khá lâu đời, nhưng đến thời Hậu Lê thì được phát triển thêm một bước.
Sơn dùng trang trí ở hầu hết các đền thờ dinh thự ở đồng bằng Bắc Bộ. Sản phẩm nối tiếng
xuất phát từ làng Bình Vọng, huyện Thường Tín (Hà Nội) với ông tổ là Trần Lư. 4. Nghề chạm khắc đá
Nổi tiếng nhất là làng Kính Chủ thuộc phủ Kinh Môn (Hải Dương). Hầu hết đàn ông tại làng
Kính Chủ đều biết nghề chạm đá.
Nguyên liệu sẵn có, khai thác thuận tiện làm cho làng nghề có công việc quanh năm. Không
chỉ phục vụ nhu cầu tại địa phương, làng nghề này còn sản xuất cối đá, trục lúa, đá phiến...
giao cho thương nhân chở theo đường thủy đến các địa phương khác hoặc nhận đi làm công trình ở các nơi khác. 5. Nghề in mộc bàn
Bắt đầu từ thời Lý (thế kỷ 12) nhưng đến thời Lê Sơ, nghề này mới đi vào quy củ. Nổi tiếng nhất
là 2 làng Hồng Lục và Liễu Tràng (phủ Hạ Hồng, Hải Dương). Sự thăng tiến về trình độ của
nghề này có ghi nhận sự du nhập kỹ thuật của Trung Quốc.
Một số địa danh gắn với các nghề thủ công nghiệp:
Sơn Tây: huyện Bất Bạt có nghề làm dầu, gai, đay; huyện Tam Nông có nghề làm chè
tai mèo, sáp vàng sáp trắng, làng Nguyên Thán dệt vải, huyện Tiên Phong dệt lụa.
Sơn Nam: huyện Thanh Oai, Bộ La Thái Bình dệt lụa, huyện Kim Bảng làm the; Hải
Triều Thái Bình dệt chiếu, xã Hoàng Mai huyện Thanh Trì và xã Bình Vọng huyện
Thượng Phúc nấu rượu sen, rượu cúc, xã Đông Thái nấu rượu nếp. Những làng rượu
này rất nổi tiếng, để tiến cống triều đình và dùng trong các dịp lễ đón bốn mùa.
Kinh Bắc: làng Bát Tràng, Gia Lâm làm bát chén; làng Huệ Cầu huyện Văn Giang nung vôi
Nghệ An: huyện Tương Dương dệt vải thưa, huyện Thạch Hà làm the mỏng
Quảng Nam: xã Tư Minh huyện Tuy Viễn làm tơ gai, xã Miên Sơn huyện Tuy Viễn dệt lụa màu huyền
Lạng Sơn: châu Yên Bác có nghề làm gấm thêu, các chất thơm. Sản phẩm dùng làm đồ tiến cống. II, Cục Bách tác
Cục Bách tác là hình thức tổ chức sản xuất thủ công nghiệp của triều đình. Đây là nơi
chuyên sản xuất ra các sản phẩm phục vụ cho cung vua như tiền, vũ khí, các đồ nghi
trượng, đồ dùng vua quan, đồ trang sức...
Các thợ thủ công tham gia Cục Bách tác gọi là công tượng. Họ là những thợ giỏi trong
nhân dân được triều đình trưng tập. Hàng năm, triều đình cử người về các địa phương
cùng các quan phủ, huyện có nhiệm vụ đề cử những thợ lành nghề lên Cục Bách công.
Công tượng là chế độ lao động cưỡng bức, tổ chức thành đội ngũ như quân lính. Từ thời
Lê Thánh Tông chia công tượng làm hai ban luân phiên nhau, một nửa sản xuất, một nửa
về quê làm ruộng. Do chế độ công tượng có tính trói buộc người thợ thủ công nên họ
không hứng thú với công việc trưng tập của triều đình. Do đó nhiều người đã phản ứng
bằng cách trốn tránh, đến chậm hoặc thoái thác. Vì vậy Luật Hồng Đức đã có những điều khoản trị tội họ.
Ngoài công tượng, trong Cục Bách tác còn có các công nô là những người bị tội đồ, bị
sung vào đây sản xuất với thân phận nô tỳ.
Sản xuất của Cục Bách tác chỉ phục vụ riêng cho cung đình, sản phẩm không phục vụ
nhân dân, không trở thành hàng hóa, do đó không có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa.
III, Ý nghĩa trong công cuộc phát triển nền kinh tế
Nghề và làng nghề thủ công có các giá trị: Giá trị kinh tế, giá trị xã hội và giá trị văn hóa – tinh thần.
Nghề thủ công và làng nghề có giá trị kinh tế, vì đây là “một trong những ngành kinh tế,
có hàng hóa, có tham gia thị trường, có lợi nhuận… Nghề thủ công truyền thống còn là
lực lượng chủ yếu của thành phần kinh tế hộ gia đình. Nghề và làng nghề thủ công thực
sự góp phần vào việc phát triển kinh tế”.
Về giá trị xã hội, nghề thủ công có vai trò trong việc ổn định cơ sở xã hội bằng việc tạo
việc làm; vai trò trong việc giáo dục tinh thần lao động, ý thức trách nhiệm, quý trọng
thời gian, bình đẳng giới (thể hiện qua việc phân công lao động và vai trò của phụ nữ đối
với các nghề truyền thống; cũng như phát huy năng lực và tạo việc làm đối với nhiều phụ nữ)…
Giá trị văn hóa - tinh thần là giá trị nổi trội nhất của nghề thủ công và làng nghề. Đây là
một thành tố cơ bản, bộ phận hữu cơ của văn hóa dân gian, đời sống dân gian, tạo những
dấu ấn và sự phong phú của văn hóa dân tộc. Các nghề thủ công và làng nghề phản ánh
bản sắc của từng địa phương, khu vực, là tinh hoa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Các sản phẩm thủ công truyền thống không chỉ là hàng hóa thuần túy kinh tế mà
còn là mang tính sáng tạo và nghệ thuật, phản ánh phong tục, tập quán, tín ngưỡng của
các cộng đồng. Bên cạnh đó, nghề thủ công truyền thống còn là nền tảng truyền thống
đạo đức trong các phép tắc, lễ nghĩa và các quan hệ ứng xử. Ngoài ra, các nghề truyền
thống và làng nghề còn là bối cảnh của nhiều tác phẩm văn học dân gian.
Từ những giá trị như vậy, nghề thủ công truyền thống và làng nghề được chú trọng
nghiên cứu, bảo tồn và phát huy. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy, nhiều nghề thủ
công truyền thống và các làng nghề đang dần bị mai một, bí quyết nghề nghiệp bị thất
truyền. Xu hướng thương mại hóa cũng ảnh hưởng không ít đến các làng nghề. Trong bối
cảnh như vậy, Bảo tàng có thể góp phần không nhỏ trong việc giới thiệu, diễn giải và bảo
tồn hình thức di sản văn hóa phi vật thể này.
Có thể nhận thấy, vùng ngoại thành nào có làng nghề thủ công, thì cuộc sống của cư dân
nơi đó có phần khấm khá hơn so với những vùng thuần nông. ... Các nghề thủ công
truyền thống không chỉ có vai trò giúp nâng cao kinh tế hộ gia đình, kinh tế địa phương
mà còn góp phần vào việc ổn định trật tự xã hội.
IV, Bảo tồn và phát huy nghề thủ công nghiệp thời hiện đại 1. T hực trạng
Theo lịch sử đã ghi lại, nhiều ngành nghề thủ công đã xuất hiện ở nước ta từ hàng trăm năm
nay, có nghề từ hàng nghìn năm nay; từ đó, cũng đã hình thành các làng nghề; mỗi làng nghề
mang đặc trưng của nghề ấy. Tiêu biểu là những làng nghề Lụa Vạn Phúc, Gốm sứ Bát
Tràng, chạm khảm Chuôn Ngọ, gò đồng Đại Bái, vàng bạc Châu Khê ở miền Bắc; làng thêu
Huế, đồ gỗ và đúc đồng Phước Kiều, thổ cẩm Mỹ Nghiệp, gốm Bàu Trúc ở miền Trung, dệt
thổ cẩm Châu Phong, đường thốt nốt An Giang; gốm Đồng Nai; gốm sứ Bình Dương; kẹo
dừa Bến Tre ở miền Nam,... 2. L ợi ích
Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân và đất nước
Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn
Góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc 3. C
ách bảo tồn và phát huy
Xây dựng quy hoạch tổng thể cho các làng nghề truyền thống trong phạm vi cả nước
Xây dựng vùng nguyên liệu ổn định cho các làng nghề truyền thống
Tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm của làng nghề truyền thống
Xây dựng nguồn nhân lực cho các làng nghề truyền thống
Phát triển làng nghề truyền thống gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái
Phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch để bảo tồn và phát huy các làng nghề
truyền thống một cách bền vững
Có chính sách hỗ trợ về vốn, mặt bằng và thông tin để làng nghề tiếp tục phát triển
4. Hạn chế và nguyên nhân Tồn tại, hạn chế:
Ngành nghề nông thôn phát triển còn chậm, ở quy mô nhỏ lẻ, sử dụng công nghệ trang
thiết bị lạc hậu, chất lượng sản phẩm chưa cao và kém sức cạnh tranh, nhiều cơ sở ngành
nghề nông thôn chưa mạnh dạn đầu tư để sản xuất. Việc huy động các nguồn vốn, để đầu
tư vào phát triển sản xuất kinh doanh chủ yếu là vốn tự có của các hộ gia đình.
Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất trong ngành nghề nông thôn còn hạn
chế. Một số nhóm ngành nghề phát triển còn gặp khó khăn, mang tính cầm chừng, chưa
bền vững. Một số nghề truyền thống đang có nguy cơ mai một do sự cạnh tranh của sản
phẩm công nghiệp cùng loại như: Nghề đan lát (chiếu cói, chằm tơi), trồng cây cảnh. Nguyên nhân:
Nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển ngành nghề nông thôn còn ít do ngân
sách tỉnh hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Vùng nguyên liệu bị thu hẹp do
quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, chuyển đổi cây trồng vật nuôi.
Đa số cơ sở ngành nghề nông thôn ở dạng quy mô nhỏ lẻ, sản xuất tự phát nên việc huy
động còn gặp nhiều khó khăn.