


Preview text:
Thế nào là bầy người nguyên thủy? Lịch sử lớp 6 
1. Thế nào là bầy người nguyên thủy 
Bầy người nguyên thủy là tổ chức xã hội đầu tiên của loài người. Bầy người nguyên thủy có 
lịch sử phát triển và các đặc điểm cụ thể như sau: 
Ở chặng đầu của quá trình hình thành loài người, có một loài vượn cổ, sống khoảng 6 triệu năm 
trước đây, đã có thể đứng và đi bằng hai chân, dùng tay để cầm nắm, ăn hoa quả, củ, lá và cả động 
vật nhỏ. Xương hóa thạch của chúng được tìm thấy ở Đông Phi, Tây Á và cả ở Việt Nam. 
Trên đà tiến triển, vượn cổ chuyển biến thành Người tối cổ, bắt đầu từ khoảng 4 triệu năm trước 
đây. Di cốt Người tối cổ được tìm thấy ở Đông Phi, Gia-va (In-do-ne-xia) Bắc Kinh (Trung 
Quốc)... Ở Thanh Hóa (Việt Nam), tuy chưa tìm thấy di cốt nhưng lại phát hiện được công cụ bằng 
đá của Người tối cổ. 
Người tối cổ hầu như đã hoàn toàn đi, đứng bằng hai chân. Đôi tay được tự do để sử dụng công 
cụ, kiếm thức ăn. Cơ thể của họ đã có nhiều biến đổi : tuy trấn còn thấp và bợt ra sau, u mày còn 
nổi cao, nhưng hộp sọ đã lớn hơn so với loài vượn cổ và đã hình thành trung tâm phát tiếng nói  trong não. 
Tuy chưa loại bỏ hết dấu tích vượn trên cơ thể mình nhưng Người tối cổ đã là người. Đây là hình 
thức tiến triển nhảy vọt từ vượn thành người, là thời kỳ đầu tiên của lịch sử loài người. 
Từ chỗ sử dụng những mảnh đã có sẵn để làm công cụ, Người tối cổ đã biết lấy những mảnh đá 
hay hòn cuội lớn, đem ghè một mặt cho sắc và vừa tay cầm. Như thế, họ đã bắt đầu biết chế tác 
công cụ. Công cụ thô kệch này được gọi là đồ đá cũ (sơ kỷ). Với những chiếc rìu đá kiểu đó, người 
ta chặt cây làm gậy hoặc dùng trực tiếp làm vũ khí, tự vệ hay tấn công các con thú, để kiếm thức  ăn. 
Từ chỗ giữ lửa, lấy trong tự nhiên năm này qua năm khác để sưởi ấm, đuổi dã thú, nướng chín 
thức ăn, con người đã biết ghè hai mảnh đá với nhau để lấy lửa. Đây là một phát minh lớn mà nhờ 
nó, con người có thể sử dụng một thứ năng lượng quan trọng bậc nhất, cải thiện căn bản đời sống  của mình. 
Qua lao động, chế tạo công cụ và sử dụng công cụ, bàn tay con người khéo léo dân. Cơ thể cũng 
do đó biến đổi theo để có tư thế lao động thích hợp. Tiếng nói thuần thục hơn do nhu cầu trao đổi 
với nhau. Con người tự cải biến, hoàn thiên mình từng bước nhờ lao động. 
Ở một số loài động vật đã hình thành một cách tự nhiên quan hệ hợp đoàn, có đôi, có dàn và con 
đầu đàn. Người tối cổ đã có quan hệ hợp quần xã hội : có người đứng đầu, có phân công lao động 
giữa nam và nữ, cùng chăm sóc con cái. Họ sống trong hang động, mái đá hoặc cũng có thể dựng 
lều bằng cành cây, đã thú, sống quây quần theo quan hệ ruột thịt với nhau, gồm 5 - 7 gia đình. Mỗi 
gia đình có đôi vợ chồng và con nhỏ chiếm một góc lều hay góc hạng. 
Và từ đó, khi bấy giờ chưa có những quy định xã hội thì người ta đã gọi những hợp quần xã hội 
đầu tiên kể trên là bầy người nguyên thuỷ. Bầy người nguyên thuỷ vẫn còn sống trong tình 
trạng “ăn lông ở lỗ” - một cuộc sống tự nhiên, bấp bênh, triền miên hàng triệu năm.   
2. Định nghĩa xã hội nguyên thủy 
Xã hội nguyên thủy (hay còn gọi là công xã thị tộc) với thành phần chủ yếu là bầy người nguyên 
thủy, là giai đoạn đầu tiên và dài nhất trong lịch sử phát triển của loài người, từ khi có con người 
xuất hiện trên Trái Đất đến khi xã hội nguyên thủy chuyển đổi thành xã hội giai cấp và xuất hiện 
chế độ nhà nước. Theo đó: 
 Con người tìm ra lửa, chế tác công cụ lao đô ̣ng từ thô sơ đến chính xác, đa dạng, sử dụng có hiệu 
quả, luôn luôn cải tiến công cụ lao động, không ngừng cải thiện đời sống.Sản xuất phát triển, con 
người chủ đô ̣ng với cuô ̣c sống hơn, biết trồng trọt và chăn nuôi, dựng lều làm nhà để ở. 
 Tuy nhiên ở thời kỳ này thì trình đô ̣ loài người vẫn thấp kém, ...   
3. Sự hình thành và phát triển của xã hội nguyên thủy 
Để tìm hiểu về xã hội cộng sản nguyên thủy, trước hết cần nghiên cứu cơ sở kinh tế của nó, bởi vì 
cơ sở kinh tế là yếu tố cơ bản quyết định đời sống xã hội. Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên 
thủy là chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Trong xã hội cộng sản 
nguyên thủy, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thấp kém, công cụ lao động thô sơ, con 
người chưa có nhận thức đúng đắn về thiên nhiên và về bản thân mình, họ luôn luôn trong tình 
trạng mềm yếu, hoảng sợ và bất lực trước những tai họa của thiên nhiên thường xuyên xảy ra, năng 
suất lao động thấp, … Trong những điều kiện và hoàn cảnh đó, con người không thể sống riêng 
biệt mà phải dựa vào nhau, cùng chung sống, cùng lao động và cùng hưởng thụ những thành quả 
lao động chung. Để có thể cùng chung sống, cùng lao động và hưởng thụ những thành quả lao 
động, một nguyên tắc phân phối đặc trưng đã hình thành, đó là nguyên tắc bình quân. Mọi người 
đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, không có ai có tài sản riêng, không có người giàu, kẻ 
nghèo, không có tình trạng người này chiếm đoạt tài sản của người kia. Xã hội chưa phân chia 
thành giai cấp và không có đấu tranh giai cấp. 
Chính những điều kiện kinh tế đó đã quyết định đời sống xã hội của chế độ cộng sản nguyên thủy. 
Tế bào cơ sở của xã hội không phải là gia đình mà là thị tộc. Thị tộc là kết quả của một quá trình 
tiến hóa lâu dài. Nó xuất hiện ở một giai đoạn khi xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định. 
Sự xuất hiện của tổ chức thị tộc là một bước tiến trong lịch sử phát triển của nhân loại, nó đã đặt 
nền móng cho việc hình thành hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên trong lịch sử - hình thái kinh tế - 
xã hội cộng sản nguyên thủy. Tổ chức thị tộc đã thực sự là một tổ chức lao động và sản xuất, một 
bộ máy kinh tế - xã hội. 
Cơ sở kinh tế đặc trưng bằng chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động đã 
quyết định mối quan hệ giữa người với người trong tổ chức thị tộc. Mọi người đều tự do, bình 
đẳng, không một ai có đặc quyền, đặc lợi đối với người khác trong cùng một thị tộc. Trong thị tộc 
đã tồn tại sự phân công lao động, nhưng mới chỉ là sự phân công lao động tự nhiên giữa đàn ông 
và đàn bà, giữa người già và trẻ nhỏ để thực hiện các loại công việc khác nhau chứ chưa mang tính  xã hội. 
Thị tộc tổ chức theo huyết thống. Ở giai đoạn đầu do những điều kiện về kinh tế, xã hội và hôn 
nhân, do phụ thuộc vào địa vị chủ đạo của người phụ nữ trong thị tộc, các thị tộc đã được tổ chức 
theo chế độ mẫu hệ. Dần dần, sự phát triển của kinh tế xã hội đã tác động làm thay đổi quan hệ 
trong hôn nhân; mặt khác địa vị của người phụ nữ trong thị tộc cũng thay đổi. Người đàn ông đã 
giữ vai trò chủ đạo trong đời sống thị tộc và chế độ mẫu hệ đã chuyển thành chế độ phụ hệ.   
4. Sự kết thúc của xã hội nguyên thủy 
Xã hội nguyên thủy đã kết thúc bởi những nguyên nhân cụ thể như sau: 
 Do có công cụ lao động mới, tức sự xuất hiện các công cụ kim loại, một số người có khả năng 
lao động giỏi hơn, tạo ra nhiều của cải hơn đến nỗi dư thừa, hoặc lợi dụng vị trí hay uy tín của 
mình để chiếm đoạt một phần của cải dư thừa của người khác và trở nên giàu có, còn một số 
người khác lại khổ cực thiếu thốn. Gia đình cũng thay đổi theo: Đàn ông làm các công việc nặng 
nhọc và giữ vai trò trụ cột gia đình, con cái theo họ cha, dẫn tới gia đình phụ hệ xuất hiện. 
 Khả năng lao động của các gia đình khác nhau đã thúc đẩy thêm sự phân biệt giàu - nghèo. Kẻ 
giàu, người nghèo, người có quyền, kẻ bị lệ thuộc đã xuất hiện. Từ đó xã hội bắt đầu phân chia  giai cấp. 
 Chế độ "làm chung, ăn chung, hưởng chung" ở thời kỳ công xã thị tộc bị phá vỡ. Xã hội nguyên 
thủy dẫn tan rã, nhường chỗ cho xã hội có giai cấp xuất hiện.    
