-
Thông tin
-
Quiz
Xã hội nguyên thủy đã trải qua những giai đoạn nào? Lịch sử lớp 6
Xã hội nguyên thuỷ hay còn gọi là công xã thị tộc. Đây là một giai đoạn lịch sử rất dài loài người. Xã hội này là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử loài người, tồn tại từ khi con người xuất hiện trên Trái Đất cho đến khi các giai cấp xuất hiện và phân chia dẫn đến việc xã hội nguyên thuỷ tàn rã. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Tài liệu chung Lịch Sử 6 22 tài liệu
Lịch Sử 6 424 tài liệu
Xã hội nguyên thủy đã trải qua những giai đoạn nào? Lịch sử lớp 6
Xã hội nguyên thuỷ hay còn gọi là công xã thị tộc. Đây là một giai đoạn lịch sử rất dài loài người. Xã hội này là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử loài người, tồn tại từ khi con người xuất hiện trên Trái Đất cho đến khi các giai cấp xuất hiện và phân chia dẫn đến việc xã hội nguyên thuỷ tàn rã. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Tài liệu chung Lịch Sử 6 22 tài liệu
Môn: Lịch Sử 6 424 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Lịch Sử 6
Preview text:
Xã hội nguyên thủy đã trải qua những giai đoạn nào? Lịch sử lớp 6
1. Xã hội nguyên thuỷ là gì?
Xã hội nguyên thuỷ hay còn gọi là công xã thị tộc. Đây là một giai đoạn lịch sử rất dài loài người. Xã hội này
là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử loài người, tồn tại từ khi con người xuất hiện trên Trái Đất cho đến khi các
giai cấp xuất hiện và phân chia dẫn đến việc xã hội nguyên thuỷ tàn rã. Xã hội nguyên thuỷ phát triển và kế
thừa lối sống xã hội bầy đàn của linh trưởng tổ tiên, và thể hiện gần gũi nhất hiện có 2 loài là tinh tinh và
bonobo ở Châu Phi. Xã hội nguyên thuỷ cũng kết thúc khác nhau ở các vùng và dân tộc khác nhau. Nhiều
dân tộc ở Châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ đã có lối sống thay đổi trong chục nghìn năm qua, và họ được coi
là bảo tàng sống của loài người thời nguyên thuỷ, như người Hadza, San (Châu Phi), Sentinel (Châu Á),
Vanuatu (Châu Đại Dương),...
2. Đặc điểm của xã hội nguyên thuỷ
Để tìm hiểu về những đặc điểm của xã hội nguyên thuỷ, chúng ta sẽ cùng khám phá về thị tộc và bộ lạc
cũng như buổi đầu của thời đại hoàng kim
Thứ nhất, thị tộc và bộ lạc. Khoản 4 vạn năm trước, con người đã hình thành quá trình cải tiến của mình và
bắt đầu loại hết dấu tích của vượn trở thành người tinh khôn. Người tinh khôn sống thành bầy đan gồm vài
chục gia đình có quan hệ huyết thống với nhau, gồm từ 2-3 thế hệ sống chung, được gọi là thị tộc. Trong thị
tộc, các con cháu luôn tỏ thái độ kính trọng ông bà và cha mẹ, trong khi đó, ông bà, cha mẹ chăm sóc và
nuôi dạy tất cả con cái trong thị tộc.
Trên vùng đất rộng lớn, với các điều kiện sống như sông, suối, hồ,... không chỉ có thị tộc mà còn có bộ lạc.
Bộ lạc là tập hợp các thị tộc sống gần nhau, có họ hàng gần gũi và chung một tổ tiên xa xôi. Giữa các thị
tộc, mọi người giúp đỡ lẫn nhau giải quyết khó khăn trong cuộc sống.
Thứ hai, buổi đầu của thời đại kim khí. Việc phát hiện ra kim loại để làm công cụ lao động có tác dụng to lớn
đối với xã hội nguyên thuỷ. Trước đây, họ chỉ biết sử dụng đá để làm công cụ lao động. Cho đến khoảng
400 năm TCN, họ mới biết chế tạo công cụ lao động bằng đồng nguyên chất, đánh dấu bước phát triển
vượt bậc trong cuộc sống người tối cổ. Ban đầu, họ chế tạo ra đồng nguyên chất để làm đồ trang sức, sau
đó, người ta biết trộn đồng với chì và thiếc để chế tạo ra công cụ lao động như: rìu, búa,...
Công cụ kim khí ra đời thể hiện xã hội nguyên thuỷ đã có sự phát triển vượt bậc. Con người trong xã hội
này có thể phá đất hoang, trồng trọt, tăng gia sản xuất. Từ đó, sản phẩm vật chất làm ra càng nhiều, của cải
dư thừa dẫn đến xã hội có sự phân hoá giàu nghèo.
3. Xã hội nguyên thuỷ đã trải qua những giai đoạn nào?
Có nhiều cách để phân chia giai đoạn của xã hội nguyên thuỷ, tuy nhiên, cách được sử dụng chính thức và
phổ biến nhất là chia xã hội nguyên thuỷ thành 2 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Giai đoạn người tối cổ. Theo đó, cách đây hàng chục triệu năm, trên Trái Đất
xuất hiện loài vượn cổ sinh sống trong những khu rừng rậm. Họ chia thành bầy đàn gồm 5-7 gia đình,
có sự phân công lao động giữa nam và nữ.Trong quá trình tìm kiếm thức ăn, loài vượn này dần đã
biết đi bằng hai chi sau, dùng hai chi trước để cầm nắm và biết sử dụng những hòn đá, cành cây làm
công cụ. Đó là người tối cổ hay còn gọi là người vượn. Họ sống theo bầy khoảng vài chục người. Ban
ngày, họ hái lượm hoa quả và săn bắt thú để ăn; ban dêm họ ngủ trong các hang động, dưới mái đá
hoặc trong những túp lều làm bằng cành cây, lợp lá hoặc cỏ khô. Họ biết ghè đẽo đá, làm công cụ;
biết dùng lửa để sưởi ấm, nướng thức ăn và xua đuổi thú dữ. Cuộc sống bấp bênh, "ăn lông ở lỗ" như
thế kéo dài hàng triệu năm.
Giai đoạn thứ hai: Gia đoạn người tinh khôn. Trải qua hàng triệu năm, người tối cổ dần dần phát
triển thành người tinh khôn. Những bộ xương của người tinh khô có niên đại sớm nhất vào khoảng 4
vạn năm trước đây, đã tìm được ở hầu khắp các châu lục. Người tinh khôn có đặc điểm là không
sống theo bầy, mà sống theo từng nhóm nhỏ gồm vài chục gia đình, có họ hàng gần gũi với nhau.
Những người cùng thị tộc đều làm chung, ăn chung và giúp đỡ lẫn nhau trong mọi công việc. Trong
quá trình sinh sống, người tinh khôn đã biết trồng rau, trồng lúa, biết chăn nuôi gia súc, làm đồ gốm,
dệt vải từ sợ vỏ cây, biết làm đồ trang sức như vòng tay, vòng cổ. Con người không chỉ kiếm được
nhiều thức ăn hơn mà còn sống tốt và vui vẻ hơn.
4. Sự khác nhau giữa giai đoạn Người tối cổ và Người tinh khôn Tiêu chí Người tối cổ Người tinh khôn
Sống theo từng nhóm nhỏ gồm vài chục gia đình,
Tổ chức xã Sống theo bầy, gồm khoảng vài chục
có họ hàng gần gũi với nhau, được gọi là thị tộc hội
người, được gọi là bầy người nguyên thuỷ Một số thị tộc có chung nguồn gốc sống cạnh nhau, gọi là bộ lạc Công cụ lao
Biết ghè, đẽo đá cho sắc, nhọn, làm rìu đá, cuốc
Mảnh đá, mảnh tước có sẵn trong tự nhiên động
đá,... công cụ bằng xương, tre, gỗ, biết làm gốm
Cách thức Biết săn bắt, hái lượm, biết dùng lửa để nấu Biết săn bắt, hái lượm, biết trồng trọt, chăn nuôi, lao động
chín thức ăn, sưởi ấm và xua đuổi thú dữ
biết trồng rau, trồng lúa, chăn nuôi gia súc,... Địa bàn cư
Dựng các túp lều bằng cây, lợp lá hoặc cỏ khô
Sống trong hang động, mái đá trú ven các con sông suối
Biết làm đồ trang sức tinh tế hơn: vòng tay, vòng cổ,...
Biết làm đồ trang sức, vẽ tranh trên vách đá Đời sống
Biết làm tượng đá hoặc đất nung tinh thần
Biết lấy vỏ cây, da thú làm quần áo để mặc và giữ ấm
Biết dệt vải, làm đồ gốm
Có tục chôn người chết và đời sống tâm linh
5. Vì sao xã hội nguyên thuỷ tan rã
Cuộc sống của người tinh khôn vào thời gian đầu tuy có khá hơn so với người tối cổ, song họ cũng chỉ mới
biết dùng đá để chế tạo công cụ lao động. Công cụ bằng đá tuy đã được cải tiến không ngừng nhưng vẫn
không thể đem lại năng suất lao động cao. Mãi đến khoảng thiên niên kỉ thứ IV TCN, con người mới phát
hiện ra kim loại và dùng kim loại để chế tạo công cụ. Nhờ công cụ bằng kim loại xuất hiện, con người có thể
khai phá đất hoang, tăng diện tích trồng trọt, xẻ gỗ đóng thuyền, xẻ đá làm nhà. Người ta có thể làm ra một
lượng sản phẩm không chỉ đủ nuôi sống mà còn có khả năng dư thừa. Một số người, do có khả năng lao
động hoặc do chiếm đoạt một phần của cải dư thừa của người khác, đã trở nên giàu có. Những người trong
thị tộc giờ đây đã không thể làm chung, hưởng chung nên xã hội nguyên thuỷ dần tan rã và nhường chỗ cho xã hội có giai cấp.
Như vậy, nguyên nhân đầu tiên gây ra sự tan rã của xã hội nguyên thuỷ là do sự phát triển của công cụ lao
động dẫn đến xuất hiện sản phẩm dư thừa, từ đó làm phân chia giai cấp. Trong xã hội nguyên thuỷ, năng
suất lao động quá kém, lạc hậu, chậm chạp. Nguyên liệu chính để sản xuất các dụng cụ lao động là đá.
Nguyên liệu này rất cứng, độ sắc kém, chỉ tạo ra được các công cụ thô sơ, không thể mài giũa cho sắc bén
để lao động. Chính vì công cụ lao động thô sơ, yếu kém và thói quen lao động lạc hậu nên chủ yếu con
người thời đó phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Họ chủ yếu là săn bắt và hái lượm, liên kết nhiều người
thành 1 nhóm để sinh tồn và lao động. Chính vì vậy, trong suốt thời gian xã hội này tồn tại, xã hội không có
tư hữu cá nhân. Không có chiếm hữu nô lệ, không có phân chia giai cấp. Cho đến khi công cụ bằng kim loại
ra đời, thúc đẩy sự phát triển của xã hội, làm xuất hiện xã hội có giai cấp, thì sự tan ra của xã hội nguyên
thuỷ là điều tất yếu, hiển nhiên.