-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Thế nào là quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân?
Bất khả xâm phạm là quyền không thể xâm phạm đến cá nhân, tổ chức hoặc lớn hơn là một quốc gia, một dân tộc và quyền này đã được pháp luật bảo vệ. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Thế nào là quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân?
1. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là gì?
Bất khả xâm phạm là quyền không thể xâm phạm đến cá nhân, tổ chức hoặc lớn
hơn là một quốc gia, một dân tộc và quyền này đã được pháp luật bảo vệ. Theo
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã quy định,
công dân có hai quyền bất khả xâm phạm được pháp luật bảo vệ là bất khả xâm
phạm về thân thể và bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Trong đó, quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền quan
trọng nhất của mỗi cá nhân, liên quan đến vấn đề sống còn của người đó. Quyền
bất khả xâm phạm về thân thể của công dân được hiểu là bất cứ ai cũng không
có quyền được xâm hại đến các quyền lợi liên quan đến sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của người khác dưới mọi hình thức. Quyền bất khả xâm phạm về
thân thể phải được đảm bảo trong mọi trường hợp, trong mọi hoàn cảnh. Cụ thể,
tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có nêu rõ về khái niệm về quyền bất khả xâm phạm về thân thể như sau:
- Tất cả mọi người đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật
bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức
khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
- Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Việc thực hiện các hành vi như bắt, giam, giữ người phải do pháp luật quy định.
Có 03 trường hợp pháp luật cho phép bắt người là:
+ Viện kiếm sát, Tòa án có thẩm quyền ra quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm
giam, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc có khả năng tiếp tục phạm tội
+ Bắt người trong trường hợp khẩn cấp như: Khi có căn cứ cho rằng người đó
đang chuẩn bị thực hiện tội phạm nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; Khi
có người chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm
mà xét thấy cần bắt ngay để người có hành vi vi phạm không thể bỏ trốn; Khi
thấy ở người hoặc chỗ ở của người nào đó có dấu vết của tội phạm
+ Bắt người đang phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (phải có lệnh truy nã).
- Mọi người đều có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy
định của pháp luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình
thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm.
Ví dụ về hành vi vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân
Anh A đi làm về và để xe máy trước cửa nhà rồi đi vào nhà lấy ít đồ. Khi đi ra
thì xe máy của anh A đã không còn nữa. Nghe hàng xóm xung quanh bảo người
lấy chiếc xe máy của anh A có dáng người giống anh B. Nghe thấy thế, anh A
liền cầm gậy sang nhà anh B để đánh anh B với mục đích là đòi lại xe. Hành vi
nay của anh A đã xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của anh B.
Bởi theo quy định của Hiến pháp thì không ai bị tra tấn, bạo lực về xâm phạm
thân thể, anh A không có chứng cứ về việc anh B là người lấy trộm xe máy, chỉ
dựa trên lời nói của hàng xóm xung quanh. Tuy nhiên, cả kể trường hợp có
chứng cứ chứng minh anh B là người lấy xe cùa anh A thì anh A cũng không
được xâm phạm đến thân thể anh B (cụ thể là cầm gậy đánh anh B).
2. Các quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là quyền cơ bản và là quyền quan trọng
nhất của con người. Pháp luật Việt Nam cũng đã xây dựng, đưa ra và lồng ghép
các điều khoản trong các văn bản pháp luật để bảo vệ cho quyền này như Hiến
pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, ... Theo đó, công dân có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm và được đảm bảo về sức khỏe, bảo
vệ khỏi bất cứ một hình thức nào có thể xâm hại đến tính mạng, thân thể, danh dự, nhân phẩm. 2.1. Pháp luật dân sự
Đi cùng với mục đích của quy định tại Hiến pháp năm 2013, Bộ luật dân sự
cũng đưa ra quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Cụ thể tại Điều
33 Bộ luật dân sự năm 2015 cũng quy định về quyền được bảo đảm an toàn về
tính mạng, sức khỏe, thân thể như sau:
- Thứ nhất, cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân
thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật
Tính mạng con người là vô cùng quan trọng, là vấn đề cần nhận được sự bảo hộ
tối đa nhất của mọi cá nhân trong mọi hoàn cảnh, mọi trường hợp. Không một
ai có quyền xâm phạm, xâm hại đến tính mạng, thân thể hay sức khỏe của người
khác. Bất cả hành vi xâm phạm thân thể xảy ra gây ảnh hưởng xấu đến tính
mạng, sức khỏe của con người thì dù nguyên nhân dẫn đến hành vi lỗi là cố ý
hay vô ý thì người thực hiện hành vi cũng phải chịu trách nhiệm trước người bị
hại và trước pháp luật.
- Thứ hai, khi phát hiện người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì
người phát hiện có trách nhiệm tìm các biện pháp cứu chữa, không được bỏ mặc
Trong trường hợp phát hiện có người bị nạn thì người phát hiện phải tự mình
liên hệ hoặc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có điều kiện cần thiết đưa
ngay đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi gần nhất; các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh có trách nhiệm thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của
pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh.
Tức là, trong trường hợp nhận thấy tính mạng của ai đó có thể gặp nguy hiểm,
bị đe dọa về tính mang do bệnh tật hoặc do gặp tai nạn (tai nạn giao thông, tai
nạn nghề nghiệp, ...) hoặc sự cố gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của
ai đó (hỏa hoạn, cháy, nổ, ...) thì người phát hiện phải thực hiện ngay việc trình
báo hoặc liên hệ, yêu cầu các cá nhân, tổ chức có khả năng đưa người có khả
năng bị nguy hiểm đó đến các cơ sở khám chữa bệnh thuận tiện nhất và gần
nhất để kịp thời sơ cứu, cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh nhằm đảm bảo tính
mạng và sức khỏe của người bị thiệt hại (gọi cấp cứu, gọi công an, liên hệ đội
phòng cháy chữa cháy đến hiện trường, ...).
- Thứ ba, việc gây mê, phẫu thuật trên cơ thể người, thực hiện thí nghiệm trên
cơ thể người thì phải được sự đồng ý của người đó và phải được tổ chức có thẩm quyền thực hiện
Khi thực hiện các hoạt động như gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép mô, bộ phận cơ
thể người; thực hiện kỹ thuật, phương pháp khám, chữa bệnh mới trên cơ thể
người; thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất cứ hình thức thử nghiệm
nào khác trên cơ thể người thì phải được sự đồng ý của người đó và cơ quan
thực hiện các hoạt động có phải là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Trường hợp người được thử nghiệm là người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc là
bệnh nhân bất tỉnh thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con thành niên hoặc người
giám hộ của người đó đồng ý; trường hợp có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của
bệnh nhân mà không chờ được ý kiến của những người nêu trên thì phải có
quyết định của người có thẩm quyền của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Tức là, đối với các hoạt động liên quan đến việc sử dùng dao, kéo, vật phẩm y
học, mẫu thử hóa học tác động lên cơ thể công dân được coi là hợp pháp khi
mục đích của hoạt động đó là để chữa bệnh, nghiên cứu, thử nghiệm; phải được
sự đồng ý của cá nhân người đó và bộ phận thực hiện phải là tổ chức có thẩm
quyền (ví dụ như bệnh viện...). Đối với hoạt động liên quan đến mô, tế bào hoặc
bộ phận trên cơ thể người thì phải được sự đồng ý cho phép của người đó, thể
hiện qua văn bản ký kết hoặc có bản ghi âm, ghi hình lại để làm chứng. Trường
hợp thử nghiệm với cơ thể người thì phải được thực hiện tại cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền (như bệnh viện, viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm, ...) đồng thời,
người đại diện, người giám hộ hợp pháp của người đó đồng ý, xác nhận nều
người đó thuộc vào một trong các trường hợp sau: + Người chưa thành niên;
+ Người mất hoặc không đầy đủ về mặt năng lực hành vi dân sự hoặc đang hôn mê, bất tình.
- Thứ tư, việc khám nghiệm tử thi chỉ được thực hiện khi thuộc một trong các
trường hợp được pháp luật quy định
Việc thực hiện quyền bất khả xâm phạm về thân thể con người không chỉ được
thực hiện khi người đó còn sống mà còn được pháp luật thực hiện bảo vệ ngay
cả khi người này đã mất đi. Điều này được thể hiện thông qua việc quy định về
điều kiện được thực hiện hoạt động khám nghiệm tử thi khi thuộc vào một trong
những trường hợp sau đây:
+ Đã có sự đồng ý của người được thực hiện khám nghiệm tử thi trước khi chết;
+ Khi không có ý kiến của người được khám nghiệm tử thi thì phải có sự đồng ý
của người thân (cha, mẹ, vợ, chồng, con thành niên) hoặc người giám hộ của người đó;
+ Theo quyết định của người đứng đầu cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp luật quy định. 2.2. Pháp luật hình sự
Để bảo vệ về quyền con người, đặc biệt là quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
tính mạng, sức khỏe của công dân thì pháp luật Việt Nam cũng đã quy định về
biện pháp xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng xấu,
gây hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng, thân thể của người khác dù
nguyên nhân của lỗi là cố ý hay vô ý. Như trong Bộ luật Hình sự năm 2015
được sửa đổi bổ sung năm 2017, đã quy định rất đầy đủ, cụ thể về mô tả các
hành vi xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, đồng thời quy định các
biện pháp xử phạt thích đáng tương ứng với từng hành vi vi phạm đó.
Cụ thể được quy định Chương XIV của Bộ luật Hình sự quy định về các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Có thể kể
đến một số điều như: Điều 123 về Tội giết người; Điều 128 về Tội vô ý làm
chết người; Điều 130 về Tội bức tử; Điều 134 về Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; Điều 141 về Tội hiếp dâm; ... Tại
chương này, các mức khung hình phạt đối với những hành vi gây tổn hại đến
tính mạng, sức khỏe của con người đều được quy định. Theo đó, những hành vi
cố ý gây thương tích, hành vi xâm hại đến thân thể, tính mạng của người khác
đều được liệt kê và được áp dụng biện pháp trừng trị thích đáng tùy thuộc vào
mức độ nghiêm trọng của hành vi nghiêm trọng. Biện pháp được áp dụng từ nhẹ
nhất là phạt cảnh cáo, phạt tiền đến phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời
hạn đến tù chung thân và nặng nhất là tử hình.
2.3. Pháp luật tố tụng hình sự
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật tại Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 về bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể như sau: Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định
của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm
tội quả tang. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm
giam người phải theo quy định của Bộ luật này. Đồng thời, nghiêm cấm tra tấn,
bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân
thể, tính mạng, sức khỏe của con người.
Nguyên tắc này bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong tố tụng
hình sự đặt ra yêu cầu về tính hợp pháp của việc bắt, tạm giữ, tạm giam, những
biện pháp đó phải dựa trên cơ sở quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quy định
của Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 phù hợp với Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị năm 1966 tại Điều 9 nói về quyền được bảo vệ để
khỏi bị bắt, giam, giữ tùy tiện.
Theo quy định tại Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong quá trình điều tra,
lấy lời khai, các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền phải tuân thủ nghiêm ngặt
nguyên tắc khi tiến hành hỏi cung bị can, nghiêm cấm mọi hành vi bức cung,
mớm cung, dụ cung, nhục hình, tra tấn hoặc bất cứ hình thức nào dẫn đến việc
xâm phạm đến sức khỏe, thân thể, tính mạng của người đó. Nguyên tắc này
được đặt ra nhằm đảm bảo việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Ngoài
ra, nguyên tắc này còn được xây dựng trên quy định của pháp luật trong Luật
Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự tôn trọng, sự bảo đảm một cách tối ưu nhất của
pháp luật trước thân thể, sức khỏe, tính mạng của con người trong mọi khía
cạnh, mọi hoàn cảnh, mọi lúc và mọi nơi, không căn cứ người đó là ai, giữ
thành phần, địa vị nào trong xã hội.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì trong trường hợp người vi
phạm pháp luật có dấu hiệu bỏ trốn, trốn tránh trách nhiệm trước pháp luật, các
cá nhân, cơ quan có thẩm quyền được phép sử dụng các biện pháp ngăn ngừa
đối với các bị can, bị cáo có dấu hiệu, hành vi vi phạm pháp luật hoặc cả những
người chưa bị khởi tố trách nhiệm hình sự bằng những biện pháp như bắt, tạm
giam, tạm giữ. Tuy nhiên, việc thực hiện các biện pháp khẩn cấp đó được coi là
hành vi hạn chế quyền tự do của một cá nhân nên trong quá trình thực hiện,
Điều tra viên, Kiểm sát viên và bên Tòa án phải thực hiện theo đúng trình tự,
thủ tục và nguyên tắc của pháp luật.
3. Trách nhiệm của công dân, của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể
Trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể
Qua phần phân tích các quy định pháp luật có liên quan đến quyền bất khả xâm
phạm về thân thể trên, ta có thể thấy pháp luật Việt Nam rất chú trọng đến
quyền cơ bản và quan trọng liên quan đến sống còn của công dân này. Để tiếp
tục duy trì và phát huy sự đảm bảo về các quyền tự do của công dân, đặc biệt là
quyền về bất khả xâm phạm về thân thể thì trách nhiệm của Nhà nước là vô
cùng quan trọng. Cụ thể là trong quá trình xây dựng, ban hành hệ thống pháp
luật, Nhà nước phải luôn đề cao quyền con người của công dân, đồng thời ban
hành những quy định pháp luật phù hợp, thiết thực với đời sống nhân dân. Bên
cạnh đó, Nhà nước cũng cần xây dựng những biện pháp xử lí chặt chẽ, trừng trị
nghiêm khắc và thích đáng đối với những hành vi xâm hại đến quyền bất khả
xâm phạm về thân thể của con người.
Trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể
Để bảo vệ được quyền tự do của con người nói chung và quyền bất khả xâm
phạm về thân thể con người nói riêng thì vai trò, trách nhiệm của công dân
trong vấn đề này cũng vô cùng quan trọng. Mỗi cá nhân là một tế bào của xã
hội. Việc thay đổi trong chính nhận thức của từng cá nhân sẽ dẫn đến sự thay
đổi nhận thức của toàn xã hội đó. Theo đó, mỗi cá nhân phải thường xuyên học
tập, tìm hiểu, trau dồi hiểu biết để nắm được nội dung các quyền tự do cơ bản
của mình và để sống văn minh, tôn trọng pháp luật, tự giác tuân thủ các quy
định pháp luật. Ngoài ra, mỗi công dân cũng cần mạnh dạn đứng lên phê phán,
đấu tranh, tố cáo những việc làm trái pháp luật, những hành vi vi phạm quyền tự
dó của công dân, đồng thời, tích cực tham gia giúp đỡ các cán bộ nhà nước thi
hành quyền bắt người, khám xét trong trường hợp pháp luật cho phép.