Theo Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho đời sống nhân dân ngày càng sung sướng, ăn no, mặc ấm, được học hành, ốm đai có thuốc” | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh | Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Theo Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho đời sống nhândân ngày càng sung sướng, ăn no, mặc ấm, được học hành, ốm đai có thuốc”. Đây là một định nghĩa đơn giản, dễ hiểu, mọi người đều chấp nhận. Trong xu thế hội nhập sâu rộng và toàn diện hiện nay, chúng ta cần quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh . Tài  liệu giúp bạn tham  khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Trường:

Học viện Nông nghiệp Việt Nam 783 tài liệu

Thông tin:
10 trang 3 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Theo Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho đời sống nhân dân ngày càng sung sướng, ăn no, mặc ấm, được học hành, ốm đai có thuốc” | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh | Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Theo Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho đời sống nhândân ngày càng sung sướng, ăn no, mặc ấm, được học hành, ốm đai có thuốc”. Đây là một định nghĩa đơn giản, dễ hiểu, mọi người đều chấp nhận. Trong xu thế hội nhập sâu rộng và toàn diện hiện nay, chúng ta cần quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh . Tài  liệu giúp bạn tham  khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

6 3 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 47708777
Bài Tập Tiểu Luận
Thành viên nhóm 9:
1. Nguyễn Văn Linh
2. Trần Nguyễn Phương Linh
3. Trần Cẩm Ly
4. Lưu Quang Long
5. Nguyễn Xuân Mai
2. Theo Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho đời sống nhân dân ngày
càng sung sướng, ăn no, mặc ấm, được học hành, ốm đai có thuốc”.
Chủ đề 2: Thực trạng nâng cao đời sống nhân văn theo Tư tưởng Hồ Chí Minh (ở
Trung ương, hoặc ở 1 tỉnh, hoặc ở 1 huyện, hoặc ở 1 cơ sở).
1. Đặt vấn đề:
Theo Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho đời sống nhân dân ngày
càng sung sướng, ăn no, mặc ấm, được học hành, ốm đai có thuốc”. Đây là một
định nghĩa đơn giản, dễ hiểu, mọi người đều chấp nhận. Trong xu thế hội nhập
sâu rộng và toàn diện hiện nay, chúng ta cần quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh để xây dựng CNXH và động viên toàn thể nhân dân hăng say
xây dựng một đất nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Làm cho đời sống nhân dân ngày càng sung sướng, ăn no, mặc ấm, được học
hành, ốm đai có thuốc và thực trạng nâng cao đời sống nhân văn theo Tư tưởng
Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng:
Chủ nghĩa xã hội, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Thực trạng nâng cao đời sống nhân
dân. 4. Phạm vi:
Các chính sách hỗ trợ xóa đói giảm nghèo được tập trung nghiên cứu bao gồm
chính sách hỗ trợ cơ sở hạ tầng, chính sách hỗ trợ đất sản xuất, chỉnh sách hỗ
trợ kiến thức làm ăn, chính sách hỗ trợ tín dụng, chính sách hỗ giáo dục và
chính sách hỗ trợ y tế. Không gian chủ yếu được khảo sát là các tỉnh Bắc Giang,
Hà Giang (tiểu vùng Đông Bắc), Hoà Bình và Sơn La (tiểu vùng Tây Bắc), là
lOMoARcPSD| 47708777
những địa phương có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đặc thù của khu vực
đặc biệt khó khăn, như địa hình núi cao, chia cắt, nguồn thu ngân sách địa
phương hạn hẹp, tỉ lệ hộ đói nghèo cao, nhiều xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn...
Thời gian nghiên cứu là từ năm 1996 (Đảng chủ trương tập trung nguồn lực xóa
đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo trong Chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội (1991-2000), đến năm 2010 (Đảng chủ trương
tăng cường đầu tư nguồn lực, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010). 5. Những nội dung cơ bản của
tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách
mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển
những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương
Tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian
lao, thử thách và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn
diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những phẩm
chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu
rèn luyện đạo đức với mỗi người cách mạng.
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam:
Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và mong muốn của
Người là mc tiêu giành độc lập, tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho
nhân dân, làm cho nhân dân “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành”. Để thực hiện mục tiêu đó cần thực hiện sự giải phóng triệt để: Đó là
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chính vì mục
tiêu cao cả đó, Người đi tìm đường cứu nước và đã tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp
giải phóng nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại. Người đã chỉ ra rằng: “Muốn cứu nước, giải
phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Người đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế,
kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Những tư tưởng quan trọng
lOMoARcPSD| 47708777
này xuất phát từ một đòi hỏi thực tiễn bức xúc: Phải chống chủ nghĩa thực
dân, phải gắn liền cách mạng thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Con
đường để giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc là con đường
đi lên xã hội chủ nghĩa, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mọi
lĩnh vực. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản
lý luận Hồ Chí Minh.
1.2 . Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam :
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bao gồm:
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ nhân dân làm chủ. Nhà nước phải phát huy
quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của
nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức, trong đó
người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em; con người được giải phóng
khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo
điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều,
làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng; các dân tộc đều bình đẳng,
miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.
Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng
dưới sự lãnh đạo của Đảng
Về mục tiêu và động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
+ Về mục tiêu: H Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm
cả chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội và xây đựng con người.
+ Về động lực: Người chỉ rõ, quyết định nhất là con người, là nhân dân lao
động, nòng cốt là công – nông trí thức. Trong thực hiện, phải kết hợp giữa cá
nhân (sức mạnh cá thể) với xã hội (sức mnh cộng đồng); coi trọng động lực
lOMoARcPSD| 47708777
kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản
xuất. Phải quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh
thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội. Cần kết hợp nguồn lực bên trong với
nguồn lực bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nội lực là quyết
định nhất, ngoại lực là rất quan trọng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định: cần căn cứ vào đặc điểm lịch sử cụ thể của
mỗi nước để xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Người viết: “y hoàn
cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng
đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản),… Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ
mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản)…”. Hồ Chí Minh đã chỉ ra những
đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó bao
trùm lớn nhất là đặc điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Vì vậy, khi nói về độ dài của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ: “Xây dựng chủ
nghĩa xã hội một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”.
Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng;
nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; phát huy tính tích cực, chủ động của các
tổ chức chính trị – xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
+ Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội: Xuất phát từ đặc điểm nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn
hoá của nhân dân thấp kém, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “…nhiệm vụ quan trọng
nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội,… có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên
tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền
kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và
lâu dài.
+ Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý: Người
khẳng định: “Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông
nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”. Nông nghiệp
lOMoARcPSD| 47708777
phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ
nguyên liệu… Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng
cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước,
phân hoá học, thuốc trừ sâu… để đẩy mạnh nông nghiệp và cung cấp dần máy
cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Cho nên công nghiệp và nông
nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và
đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện
liên minh công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no,
sung sướng cho nhân dân.
+ Tất yếu khách quan phải tiến hành công nghiệp hóa: Công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thực sự của nhân
dân ta. Trong bài Con đường phía trước (ngày 20-1-1960), Người viết: “Đời
sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất
một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong nông
nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm,
nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường. Muốn có nhiều máy, thì
phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu…
Đó là con đường phải đi của chúng ta: “Con đường công nghiệp hóa nước nhà”.
+ Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam còn nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Người chỉ ra
rằng, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó còn các hình thức sở hữu chính: “Sở hữu
của nhà nước tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể
của nhân dân lao động, sở hữu của người lao động riêng lẻ. Tư liệu sản xuất
thuộc sở hữu của nhà tư bản”. Tương ứng với chế độ sở hữu là các thành phần
kinh tế. Hồ Chí Minh xác định: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế
khác nhau… Trong năm loại ấy, loại A [kinh tế quốc doanh] là kinh tế lãnh đạo
và phát triển mau hơn cả.
1.3 . Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và đại đoàn kết dân tộc :
Đối với Hồ Chí Minh, nhân dân là phạm trù cao quý nhất, một phạm trù chính
trị chủ đạo trong học thuyết cách mạng của Người. “Trong bầu trời không gì
quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân”. Đó là một minh chứng điển hình về niềm tin vào sức mạnh của nhân
dân. Người khẳng định, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào cũng
không địch nổi. Người từng nói với cán bộ: “Nếu lãnh đạo khéo thì việc khó
khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”. Đó là sự tổng kết thực tiễn
cách mạng rất sâu sắc: phải không ngừng học dân. “Nhân dân ta rất cần cù,
lOMoARcPSD| 47708777
thông minh và khéo léo. Trong sản xuất và sinh hoạt, họ có rất nhiều kinh
nghiệm quý báu”, do vậy cán bộ ta “cần tham gia tổng kết những kinh nghiệm
quý báu ấy”.
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khái quát luận điểm có tính
chân lý về vai trò của khối đại đoàn kết, đó là: Đoàn kết làm ra sức mạnh;
“Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết là sức mạnh, là then
chốt của thành công”. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói: “Đoàn kết của ta không
những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài… Ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Trong quá trình
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải đứng vững trên lập trường giai
cấp công nhân để giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp dân tộc. Để tập hợp
lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có
lòng trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không là Việt gian, không phản
bội lại quyền lợi của dân chúng là được.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề rất cơ bản của cách mạng Việt Nam, đã và đang soi đường
cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
MácLênin vào Việt Nam, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng
Việt Nam đã vững bước tiến lên giành những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời
đại sâu sắc.
Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện đổi mới, mở cửa và hội nhập, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh thuận lợi, chúng ta cũng có nhiều khó khăn, do đó
mỗi người cần nghiên cứu, học tập, nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà
nước để kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng: Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, như Bác Hồ hằng mong muốn.
6. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và đại đoàn kết dân tộc vào
thực tiễn
VẬN DỤNG TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG COVID-19
Thế giới nói chung và Việt Nami riêng đã từng bước vào nhiều cuộc chiến
với quy mô, tính chất khác nhau. Từ cuối năm 2019, có một cuộc chiến không
có tiếng súng nhưng lại rất nguy hiểm, ảnh hưởng đến tính mạng của người dân
lOMoARcPSD| 47708777
trên phạm vi toàn cầu. Đó là cuộc chiến chống Covid-19. Ngay từ khi xuất hiện
ca bệnh đầu tiên (ngày 22/1/2020), Việt Nam đã xác định đây là một dịch bệnh
nguy hiểm, có khả năng ảnh hưởng đến nhiều người, trên phạm vi rộng nên cần
phải nêu cao tinh thần: Chống dịch như chống giặc. Sự chủ động đó đã giúp cho
Việt Nam đã đưa ra nhiều giải pháp hữu ích. Một trong những giải pháp đã
mang lại hiệu quả cao là huy động sự tham gia của đông đảo nhân dân, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc trong công tác phòng, chống Covid-19. Chủ trương của
Đảng, Chính phủ huy động sức mạnh toàn dân tộc tham gia phòng, chống dịch.
Khi ca bệnh đầu tiên xuất hiện không lâu, ngày 29/1/2020, Ban Bí thư đã ban
hành công văn số 79-CV/TW gửi các tỉnh, thành phố, các cơ quan Trung ương
yêu cầu phải coi phòng, chống dịch là nhiệm vụ "trọng tâm, cấp bách". Từ đó,
kêu gọi toàn thể nhân dân cả nước đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành
động để tham gia chống dịch với quyết tâm cao, nỗ lực lớn. Ngày 30/3/2020,
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ra lời kêu gọi toàn thể dân tộc
Việt Nam ta hãy cùng chung sức, đồng lòng vượt qua mi khó khăn, thách thức
để chiến thắng đại dịch Covid-19. Lời kêu gọi nêu rõ: "Với tinh thần coi sức
khỏe và tính mạng của con người là trên hết, tôi kêu gọi toàn thể đồng bào,
đồng chí và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài hãy đoàn kết một lòng,
thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt, hiệu quả những chủ trương
của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ. Mỗi người dân là một chiến sĩ trên mặt trận phòng, chống dịch bệnh". Lời
kêu gọi giống như một lời hiệu triệu khơi dậy tinh thần đoàn kết của cả dân tộc
trong công tác phòng, chống dịch.
7. Kết luận:
Việc có đạt được những mục tiêu đề ra hay không, cần sự quyết tâm của cả hệ
thống chính trị, là nhiệm vụ cấp bách, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân ta. Ngoài
việc thực hiện nhất quán và triệt để những nội dung trong Chương trình, các cấp
chính quyền cần sáng tạo trong cách thức nhằm phải phát huy tiềm năng, lợi thế
của vùng và khơi dậy tinh thần tự lực, khát vọng, vượt khó vươn lên của đồng
bào DTTS, tiếp tục thay đổi nếp nghĩ, cách làm, đẩy mạnh phát triển sản xuất,
kinh doanh. Thực hiện tốt những mục tiêu, giải pháp đề ra trong Chương trình,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào DTTS và miền núi, là chúng
ta đã thực hiện tốt di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng cần phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân”, cũng là thực hiện khát vọng xây dựng Tổ quốc Việt Nam
phồn vinh, hạnh phúc mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
lOMoARcPSD| 47708777
Lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại đã chứng minh rằng, trong đêm trường nô
lệ hay khi đã là chủ nhân của một nước Việt Nam độc lập, tự do, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thì đồng bào các dân tộc thiểu số cũng
luôn sát cánh cùng đồng bào Kinh; cũng luôn góp sức người, sức của cho sự
nghiệp chung. Đồng thời, cũng có thể thấy rằng, quan điểm nhất quán, rõ ràng,
trước sau như một của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đồng bào các dân tộc
thiểu số anh em thông qua những bức thư, những lời phát biểu, những buổi gặp
gỡ, những chuyến đi thăm đồng bào… đó chính là "đoàn kết các dân tộc và
nâng cao đời sống của đồng bào".
Quan điểmy cũng được thể hiện rõ trong chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước hơn 76 năm qua, nhất là trong hơn 35 năm
thực hiện sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế. Trong từng quyết sách về
chính sách dân tộc, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung, phát triển
khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa nói riêng, việc triển khai các Chương trình
135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng
sâu, vùng xa; Chương trình 134 về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở,
nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó
khăn; Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện
nghèo ở vùng sâu, vùng xa…đã đem lại hiệu quả thiết thực. Đó chính là thực
hiện xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí;
tôn trọng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa; xây dựng cơ sở chính trị, đội
ngũ cán bộ và đảng viên của các dân tộc ở các vùng, các cấp trong sạch vững
mạnh… để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ gìn an ninh, quốc phòng vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số.
8. Tài liệu tham khảo:
1. Chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng H Chí Minh trong giai đoạn hiện
nay:
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
có một ước muốn lớn lao, một ham muốn tột bậc, đó chính là: “làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Tư tưởng đó đã mang giá trị nhân
văn sâu sắc, trước hết vì con người, tất cả vì con người, mà trước hết là nhân
dân.
Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về chăm lo nâng cao đời sống
nhân dân
lOMoARcPSD| 47708777
Một ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh
ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tại phiên họp đầu tiên của Hội đồng
Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách giải quyết
những vấn đề về đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Người nhấn mạnh
“Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức
làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Phải chú ý giải quyết hết các vấn
đề dầu khó đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Phải
chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu
tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết
thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải
được ta đặc biệt chú ý”.
Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện tinh thần, trách nhiệm của người đứng đầu
Đảng, Nhà nước, Chính phủ mà còn khẳng định mục tiêu phấn đấu, chăm lo cho
Nhân dân của các cơ quan Đảng, Nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Theo
Bác, chăm lo đời sống Nhân dân là vì con người, do con người, trước hết là vì
dân và do dân. Đạo đức Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống Nhân dân thể hiện rõ
ở quan điểm khi Người nói về đạo đức cách mạng là: Đặt lợi ích của Đảng
của Nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết
lòng hết sức phục vụ Nhân dân. Người nhấn mạnh “Đảng không phải là một tổ
chức để làm quan, phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm
cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Chừng nào cuộc sống của Nhân
dân còn đói nghèo, chưa được no ấm, hạnh phúc thì chừng đó, các cấp ủy đảng,
chính quyền nói chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng chưa hoàn thành tốt
chức trách và nhiệm vụ của mình trước Nhân dân.
Trong sự nghiệp kiến thiết chủ nghĩa xã hội, Người cho rằng “hễ còn có mt
người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì
mình chưa làm tròn nhiệm vụ”. Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải gần gũi
Nhân dân, quan tâm đến những việc nhỏ cho đời sống hằng ngày của Nhân dân.
“Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của
Nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và
Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng
và Chính phủ có lỗi”. Theo Bác, chăm lo đời sống, hạnh phúc của Nhân dân
phải là một trong những mc tiêu quan trọng của đường lối, chính sách của
Ðảng và Nhà nước. Rất ngắn gọn và giản dị, Hồ Chí Minh khẳng định: Mục
đích của chủ nghĩa xã hội nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, trước hết là Nhân dân lao
động. Mục tiêu cốt lõi để Nhân dân không còn đói nghèo, được bảo đảm về an
sinh xã hội: việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, v.v.. là các chủ trương, chính sách
lOMoARcPSD| 47708777
kinh tế của Đảng và Chính phủ phải luôn luôn hướng tới sự ổn định và phát
triển xã hội, đem lại hạnh phúc cho con người; phải được thực thi hiệu quả mới
góp phần làm ổn định xã hội, phát huy nguồn lực tài dân, sức dân, khả năng
sáng tạo của Nhân dân để mang lại hạnh phúc cho Nhân dân. Đặc biệt, các chủ
trương và các chính sách đó phải trở thành một động lực to lớn để củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo cơ sở vững chắc để ngăn chặn và làm thất bại mi
âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại bản Di chúc lịch sử. Trong Di
chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến rất nhiều vấn đề: về Đảng, về tình đoàn
kết, về lực lượng đoàn viên thanh niên, về công cuộc kháng chiến chống Mỹ, về
phong trào cộng sản thế giới, về việc riêng… Trong bao nhiêu công việc bề bộn
Người dặn lại trước lúc đi xa thì: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Tư
tưởng và mc đích cuộc đời hoạt động cách mạng của Người xuất phát từ con
người và cuối cùng trở về với con người. Người từng nói: “Nghĩ cho cùng,…
cũng như mi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và
làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp
bức”. Đọc Di chúc, chúng ta thấy Người dành tình cảm yêu thương đối với tất
cả mọi tầng lớp con người trong xã hội, từ các bà mẹ liệt sĩ, các gia đình thương
binh…, đến những người vốn là nạn nhân của chế độ xã hội cũ đều được Người
quan tâm chu đáo. Tình thương yêu, sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
không dừng lại ở những vấn đề chung nhất của toàn xã hội mà rất cụ thể đối với
từng đối tượng trong xã hội. Người đã căn cứ vào vị trí xã hội, chức năng,
nhiệm vụ của mi tổ chức, cá nhân để phát huy tối đa phẩm chất và năng lực
của mỗi con người trong từng lĩnh vực đặc thù. Hơn ai hết, Người thấu hiểu và
trân trọng, tôn vinh những con người đã chiến đấu, hy sinh cuộc sống và hạnh
phúc cá nhân, cống hiến mọi sức lực cho Tổ quốc. Phải tạo điều kiện để toàn bộ
những thanh niên, phụ nữ, thương binh, bệnh binh, nông dân có cuộc sống tốt
đẹp sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc đối với
những người có công với nước như thương binh, bệnh binh, liệt sĩ và gia đình
của họ. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, để làm
nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc ta đã hiến dâng tuổi thanh xuân và
sự sống của mình cho Tổ quốc. Hàng triệu thân nhân liệt sĩ, những bậc cha mẹ,
những người vợ, người chồng và những người con đã mãi mãi không thể gặp lại
người thân của mình.
| 1/10

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47708777 Bài Tập Tiểu Luận Thành viên nhóm 9: 1. Nguyễn Văn Linh
2. Trần Nguyễn Phương Linh 3. Trần Cẩm Ly 4. Lưu Quang Long 5. Nguyễn Xuân Mai
2. Theo Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho đời sống nhân dân ngày
càng sung sướng, ăn no, mặc ấm, được học hành, ốm đai có thuốc”.
Chủ đề 2: Thực trạng nâng cao đời sống nhân văn theo Tư tưởng Hồ Chí Minh (ở
Trung ương, hoặc ở 1 tỉnh, hoặc ở 1 huyện, hoặc ở 1 cơ sở). 1. Đặt vấn đề:
Theo Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho đời sống nhân dân ngày
càng sung sướng, ăn no, mặc ấm, được học hành, ốm đai có thuốc”. Đây là một
định nghĩa đơn giản, dễ hiểu, mọi người đều chấp nhận. Trong xu thế hội nhập
sâu rộng và toàn diện hiện nay, chúng ta cần quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh để xây dựng CNXH và động viên toàn thể nhân dân hăng say
xây dựng một đất nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 2. Mục tiêu nghiên cứu:
Làm cho đời sống nhân dân ngày càng sung sướng, ăn no, mặc ấm, được học
hành, ốm đai có thuốc và thực trạng nâng cao đời sống nhân văn theo Tư tưởng Hồ Chí Minh. 3. Đối tượng:
Chủ nghĩa xã hội, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Thực trạng nâng cao đời sống nhân dân. 4. Phạm vi:
Các chính sách hỗ trợ xóa đói giảm nghèo được tập trung nghiên cứu bao gồm
chính sách hỗ trợ cơ sở hạ tầng, chính sách hỗ trợ đất sản xuất, chỉnh sách hỗ
trợ kiến thức làm ăn, chính sách hỗ trợ tín dụng, chính sách hỗ giáo dục và
chính sách hỗ trợ y tế. Không gian chủ yếu được khảo sát là các tỉnh Bắc Giang,
Hà Giang (tiểu vùng Đông Bắc), Hoà Bình và Sơn La (tiểu vùng Tây Bắc), là lOMoAR cPSD| 47708777
những địa phương có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đặc thù của khu vực
đặc biệt khó khăn, như địa hình núi cao, chia cắt, nguồn thu ngân sách địa
phương hạn hẹp, tỉ lệ hộ đói nghèo cao, nhiều xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn...
Thời gian nghiên cứu là từ năm 1996 (Đảng chủ trương tập trung nguồn lực xóa
đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo trong Chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội (1991-2000), đến năm 2010 (Đảng chủ trương
tăng cường đầu tư nguồn lực, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010). 5. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách
mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển
những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương
Tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian
lao, thử thách và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn
diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những phẩm
chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu
rèn luyện đạo đức với mỗi người cách mạng. 1.1.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam:
– Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và mong muốn của
Người là mục tiêu giành độc lập, tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho
nhân dân, làm cho nhân dân “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành”. Để thực hiện mục tiêu đó cần thực hiện sự giải phóng triệt để: Đó là
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chính vì mục
tiêu cao cả đó, Người đi tìm đường cứu nước và đã tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp
giải phóng nhân dân lao động trên toàn thế giới.
– Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại. Người đã chỉ ra rằng: “Muốn cứu nước, giải
phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Người đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế,
kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Những tư tưởng quan trọng lOMoAR cPSD| 47708777
này xuất phát từ một đòi hỏi thực tiễn bức xúc: Phải chống chủ nghĩa thực
dân, phải gắn liền cách mạng thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Con
đường để giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc là con đường
đi lên xã hội chủ nghĩa, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mọi
lĩnh vực. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản lý luận Hồ Chí Minh.
1.2 . Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam :
– Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bao gồm:
– Chủ nghĩa xã hội là một chế độ nhân dân làm chủ. Nhà nước phải phát huy
quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của
nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
– Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
– Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức, trong đó
người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em; con người được giải phóng
khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo
điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
– Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều,
làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng; các dân tộc đều bình đẳng,
miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.
– Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng
dưới sự lãnh đạo của Đảng
– Về mục tiêu và động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
+ Về mục tiêu: Hồ Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm
cả chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội và xây đựng con người.
+ Về động lực: Người chỉ rõ, quyết định nhất là con người, là nhân dân lao
động, nòng cốt là công – nông – trí thức. Trong thực hiện, phải kết hợp giữa cá
nhân (sức mạnh cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng); coi trọng động lực lOMoAR cPSD| 47708777
kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản
xuất. Phải quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh
thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội. Cần kết hợp nguồn lực bên trong với
nguồn lực bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nội lực là quyết
định nhất, ngoại lực là rất quan trọng.
– Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định: cần căn cứ vào đặc điểm lịch sử cụ thể của
mỗi nước để xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Người viết: “tùy hoàn
cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng
đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản),… Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ
mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản)…”. Hồ Chí Minh đã chỉ ra những
đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó bao
trùm lớn nhất là đặc điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Vì vậy, khi nói về độ dài của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ: “Xây dựng chủ
nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”.
Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng;
nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; phát huy tính tích cực, chủ động của các
tổ chức chính trị – xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
+ Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội: Xuất phát từ đặc điểm nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn
hoá của nhân dân thấp kém, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “…nhiệm vụ quan trọng
nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội,… có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên
tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền
kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài.
+ Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý: Người
khẳng định: “Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông
nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”. Nông nghiệp lOMoAR cPSD| 47708777
phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ
nguyên liệu… Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng
cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước,
phân hoá học, thuốc trừ sâu… để đẩy mạnh nông nghiệp và cung cấp dần máy
cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Cho nên công nghiệp và nông
nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và
đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện
liên minh công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, sung sướng cho nhân dân.
+ Tất yếu khách quan phải tiến hành công nghiệp hóa: Công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thực sự của nhân
dân ta. Trong bài Con đường phía trước (ngày 20-1-1960), Người viết: “Đời
sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất
một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong nông
nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm,
nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường. Muốn có nhiều máy, thì
phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu…
Đó là con đường phải đi của chúng ta: “Con đường công nghiệp hóa nước nhà”.
+ Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam còn nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Người chỉ ra
rằng, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó còn các hình thức sở hữu chính: “Sở hữu
của nhà nước tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể
của nhân dân lao động, sở hữu của người lao động riêng lẻ. Tư liệu sản xuất
thuộc sở hữu của nhà tư bản”. Tương ứng với chế độ sở hữu là các thành phần
kinh tế. Hồ Chí Minh xác định: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế
khác nhau… Trong năm loại ấy, loại A [kinh tế quốc doanh] là kinh tế lãnh đạo
và phát triển mau hơn cả.
1.3 . Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và đại đoàn kết dân tộc :
Đối với Hồ Chí Minh, nhân dân là phạm trù cao quý nhất, một phạm trù chính
trị chủ đạo trong học thuyết cách mạng của Người. “Trong bầu trời không gì
quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân”. Đó là một minh chứng điển hình về niềm tin vào sức mạnh của nhân
dân. Người khẳng định, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào cũng
không địch nổi. Người từng nói với cán bộ: “Nếu lãnh đạo khéo thì việc khó
khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”. Đó là sự tổng kết thực tiễn
cách mạng rất sâu sắc: phải không ngừng học dân. “Nhân dân ta rất cần cù, lOMoAR cPSD| 47708777
thông minh và khéo léo. Trong sản xuất và sinh hoạt, họ có rất nhiều kinh
nghiệm quý báu”, do vậy cán bộ ta “cần tham gia tổng kết những kinh nghiệm quý báu ấy”.
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khái quát luận điểm có tính
chân lý về vai trò của khối đại đoàn kết, đó là: Đoàn kết làm ra sức mạnh;
“Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết là sức mạnh, là then
chốt của thành công”. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói: “Đoàn kết của ta không
những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài… Ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Trong quá trình
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải đứng vững trên lập trường giai
cấp công nhân để giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp – dân tộc. Để tập hợp
lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có
lòng trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không là Việt gian, không phản
bội lại quyền lợi của dân chúng là được.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề rất cơ bản của cách mạng Việt Nam, đã và đang soi đường
cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
MácLênin vào Việt Nam, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng
Việt Nam đã vững bước tiến lên giành những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại sâu sắc.
Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện đổi mới, mở cửa và hội nhập, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh thuận lợi, chúng ta cũng có nhiều khó khăn, do đó
mỗi người cần nghiên cứu, học tập, nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà
nước để kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng: Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, như Bác Hồ hằng mong muốn.
6. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và đại đoàn kết dân tộc vào thực tiễn
VẬN DỤNG TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG COVID-19
Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã từng bước vào nhiều cuộc chiến
với quy mô, tính chất khác nhau. Từ cuối năm 2019, có một cuộc chiến không
có tiếng súng nhưng lại rất nguy hiểm, ảnh hưởng đến tính mạng của người dân lOMoAR cPSD| 47708777
trên phạm vi toàn cầu. Đó là cuộc chiến chống Covid-19. Ngay từ khi xuất hiện
ca bệnh đầu tiên (ngày 22/1/2020), Việt Nam đã xác định đây là một dịch bệnh
nguy hiểm, có khả năng ảnh hưởng đến nhiều người, trên phạm vi rộng nên cần
phải nêu cao tinh thần: Chống dịch như chống giặc. Sự chủ động đó đã giúp cho
Việt Nam đã đưa ra nhiều giải pháp hữu ích. Một trong những giải pháp đã
mang lại hiệu quả cao là huy động sự tham gia của đông đảo nhân dân, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc trong công tác phòng, chống Covid-19. Chủ trương của
Đảng, Chính phủ huy động sức mạnh toàn dân tộc tham gia phòng, chống dịch.
Khi ca bệnh đầu tiên xuất hiện không lâu, ngày 29/1/2020, Ban Bí thư đã ban
hành công văn số 79-CV/TW gửi các tỉnh, thành phố, các cơ quan Trung ương
yêu cầu phải coi phòng, chống dịch là nhiệm vụ "trọng tâm, cấp bách". Từ đó,
kêu gọi toàn thể nhân dân cả nước đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành
động để tham gia chống dịch với quyết tâm cao, nỗ lực lớn. Ngày 30/3/2020,
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ra lời kêu gọi toàn thể dân tộc
Việt Nam ta hãy cùng chung sức, đồng lòng vượt qua mọi khó khăn, thách thức
để chiến thắng đại dịch Covid-19. Lời kêu gọi nêu rõ: "Với tinh thần coi sức
khỏe và tính mạng của con người là trên hết, tôi kêu gọi toàn thể đồng bào,
đồng chí và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài hãy đoàn kết một lòng,
thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt, hiệu quả những chủ trương
của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ. Mỗi người dân là một chiến sĩ trên mặt trận phòng, chống dịch bệnh". Lời
kêu gọi giống như một lời hiệu triệu khơi dậy tinh thần đoàn kết của cả dân tộc
trong công tác phòng, chống dịch. 7. Kết luận:
Việc có đạt được những mục tiêu đề ra hay không, cần sự quyết tâm của cả hệ
thống chính trị, là nhiệm vụ cấp bách, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân ta. Ngoài
việc thực hiện nhất quán và triệt để những nội dung trong Chương trình, các cấp
chính quyền cần sáng tạo trong cách thức nhằm phải phát huy tiềm năng, lợi thế
của vùng và khơi dậy tinh thần tự lực, khát vọng, vượt khó vươn lên của đồng
bào DTTS, tiếp tục thay đổi nếp nghĩ, cách làm, đẩy mạnh phát triển sản xuất,
kinh doanh. Thực hiện tốt những mục tiêu, giải pháp đề ra trong Chương trình,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào DTTS và miền núi, là chúng
ta đã thực hiện tốt di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng cần phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân”, cũng là thực hiện khát vọng xây dựng Tổ quốc Việt Nam
phồn vinh, hạnh phúc mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. lOMoAR cPSD| 47708777
Lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại đã chứng minh rằng, trong đêm trường nô
lệ hay khi đã là chủ nhân của một nước Việt Nam độc lập, tự do, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thì đồng bào các dân tộc thiểu số cũng
luôn sát cánh cùng đồng bào Kinh; cũng luôn góp sức người, sức của cho sự
nghiệp chung. Đồng thời, cũng có thể thấy rằng, quan điểm nhất quán, rõ ràng,
trước sau như một của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đồng bào các dân tộc
thiểu số anh em thông qua những bức thư, những lời phát biểu, những buổi gặp
gỡ, những chuyến đi thăm đồng bào… đó chính là "đoàn kết các dân tộc và
nâng cao đời sống của đồng bào".
Quan điểm này cũng được thể hiện rõ trong chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước hơn 76 năm qua, nhất là trong hơn 35 năm
thực hiện sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế. Trong từng quyết sách về
chính sách dân tộc, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung, phát triển
khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa nói riêng, việc triển khai các Chương trình
135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng
sâu, vùng xa; Chương trình 134 về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở,
nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó
khăn; Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện
nghèo ở vùng sâu, vùng xa…đã đem lại hiệu quả thiết thực. Đó chính là thực
hiện xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí;
tôn trọng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa; xây dựng cơ sở chính trị, đội
ngũ cán bộ và đảng viên của các dân tộc ở các vùng, các cấp trong sạch vững
mạnh… để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ gìn an ninh, quốc phòng vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số. 8. Tài liệu tham khảo:
1. Chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay:
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
có một ước muốn lớn lao, một ham muốn tột bậc, đó chính là: “làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Tư tưởng đó đã mang giá trị nhân
văn sâu sắc, trước hết vì con người, tất cả vì con người, mà trước hết là nhân dân.
Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về chăm lo nâng cao đời sống nhân dân lOMoAR cPSD| 47708777
Một ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh
ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tại phiên họp đầu tiên của Hội đồng
Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách giải quyết
những vấn đề về đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Người nhấn mạnh
“Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức
làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Phải chú ý giải quyết hết các vấn
đề dầu khó đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Phải
chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu
tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết
thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải
được ta đặc biệt chú ý”.
Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện tinh thần, trách nhiệm của người đứng đầu
Đảng, Nhà nước, Chính phủ mà còn khẳng định mục tiêu phấn đấu, chăm lo cho
Nhân dân của các cơ quan Đảng, Nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Theo
Bác, chăm lo đời sống Nhân dân là vì con người, do con người, trước hết là vì
dân và do dân. Đạo đức Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống Nhân dân thể hiện rõ
ở quan điểm khi Người nói về đạo đức cách mạng là: Đặt lợi ích của Đảng và
của Nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết
lòng hết sức phục vụ Nhân dân. Người nhấn mạnh “Đảng không phải là một tổ
chức để làm quan, phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm
cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Chừng nào cuộc sống của Nhân
dân còn đói nghèo, chưa được no ấm, hạnh phúc thì chừng đó, các cấp ủy đảng,
chính quyền nói chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng chưa hoàn thành tốt
chức trách và nhiệm vụ của mình trước Nhân dân.
Trong sự nghiệp kiến thiết chủ nghĩa xã hội, Người cho rằng “hễ còn có một
người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì
mình chưa làm tròn nhiệm vụ”. Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải gần gũi
Nhân dân, quan tâm đến những việc nhỏ cho đời sống hằng ngày của Nhân dân.
“Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của
Nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và
Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng
và Chính phủ có lỗi”. Theo Bác, chăm lo đời sống, hạnh phúc của Nhân dân
phải là một trong những mục tiêu quan trọng của đường lối, chính sách của
Ðảng và Nhà nước. Rất ngắn gọn và giản dị, Hồ Chí Minh khẳng định: Mục
đích của chủ nghĩa xã hội nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, trước hết là Nhân dân lao
động. Mục tiêu cốt lõi để Nhân dân không còn đói nghèo, được bảo đảm về an
sinh xã hội: việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, v.v.. là các chủ trương, chính sách lOMoAR cPSD| 47708777
kinh tế của Đảng và Chính phủ phải luôn luôn hướng tới sự ổn định và phát
triển xã hội, đem lại hạnh phúc cho con người; phải được thực thi hiệu quả mới
góp phần làm ổn định xã hội, phát huy nguồn lực tài dân, sức dân, khả năng
sáng tạo của Nhân dân để mang lại hạnh phúc cho Nhân dân. Đặc biệt, các chủ
trương và các chính sách đó phải trở thành một động lực to lớn để củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo cơ sở vững chắc để ngăn chặn và làm thất bại mọi
âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại bản Di chúc lịch sử. Trong Di
chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến rất nhiều vấn đề: về Đảng, về tình đoàn
kết, về lực lượng đoàn viên thanh niên, về công cuộc kháng chiến chống Mỹ, về
phong trào cộng sản thế giới, về việc riêng… Trong bao nhiêu công việc bề bộn
Người dặn lại trước lúc đi xa thì: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Tư
tưởng và mục đích cuộc đời hoạt động cách mạng của Người xuất phát từ con
người và cuối cùng trở về với con người. Người từng nói: “Nghĩ cho cùng,…
cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và
làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp
bức”. Đọc Di chúc, chúng ta thấy Người dành tình cảm yêu thương đối với tất
cả mọi tầng lớp con người trong xã hội, từ các bà mẹ liệt sĩ, các gia đình thương
binh…, đến những người vốn là nạn nhân của chế độ xã hội cũ đều được Người
quan tâm chu đáo. Tình thương yêu, sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
không dừng lại ở những vấn đề chung nhất của toàn xã hội mà rất cụ thể đối với
từng đối tượng trong xã hội. Người đã căn cứ vào vị trí xã hội, chức năng,
nhiệm vụ của mỗi tổ chức, cá nhân để phát huy tối đa phẩm chất và năng lực
của mỗi con người trong từng lĩnh vực đặc thù. Hơn ai hết, Người thấu hiểu và
trân trọng, tôn vinh những con người đã chiến đấu, hy sinh cuộc sống và hạnh
phúc cá nhân, cống hiến mọi sức lực cho Tổ quốc. Phải tạo điều kiện để toàn bộ
những thanh niên, phụ nữ, thương binh, bệnh binh, nông dân có cuộc sống tốt
đẹp sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc đối với
những người có công với nước như thương binh, bệnh binh, liệt sĩ và gia đình
của họ. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, để làm
nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc ta đã hiến dâng tuổi thanh xuân và
sự sống của mình cho Tổ quốc. Hàng triệu thân nhân liệt sĩ, những bậc cha mẹ,
những người vợ, người chồng và những người con đã mãi mãi không thể gặp lại người thân của mình.