Theo Hồ Chí Minh thì ưu điểm lớn nhất của chủ
nghĩa Mác gì?
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin thành tựu trí tu đại của loài
người
1.1. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - nin quy luật phát triển khách quan của
hội
- Trong quá trình phát triển hội loài người, nhất từ khi xuất hiện các giai
cấp đấu tranh giai cấp, quần chúng lao động luôn luôn ước được sống
trong một hội bình đẳng, công bằng, cuộc sống ấm no, tự do hạnh
phúc. Những tư ởng tiến bộ, nhân đạo đã hình thành phát triển trong lịch
sử nhân loại đều mong muốn giải phóng các giai cấp cần lao khỏi ách áp bức,
bất công.
- Đến giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân nhiều
nước Tây Âu, nhất nước Anh, đã phát triển mạnh mẽ. Bước lên đài
chính trị, giai cấp sản cần luận khoa học để hướng dẫn cuộc đấu
tranh giải phóng giai cấp mình khỏi áp bức, bất công hội. Trên thế giới lúc
đó cũng đã xuất hiện những tiền đề về kinh tế - hội khoa học luận,
v.v… dẫn tới sự ra đời của chủ nghĩa Mác.
- Về điều kiện kinh tế - hội: Với sự ra đời của nền sản xuất đại công
nghiệp dựa trên kỹ thuật khí trước hết nước Anh, lực lượng sản xuất
hội đạt tới trình đ hội hóa ngày càng cao. Mâu thuẫn giữa tính chất
hội của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu nhân về liệu sản
xuất trong hội bản ngày càng phát triển, trở thành mâu thuẫn bản
của hội bản.
- Sự phát triển của nền đại công nghiệp đã sản sinh ra một giai cấp mới, đó
giai cấp công nhân. Trong hội bản chủ nghĩa, đã xuất hiện hai giai cấp
bản, đối lập nhau về lợi ích giai cấp tư sản giai cấp sản. Phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng lan rộng, phát triển tự phát
tới tự giác, từ đấu tranh kinh tế tới đấu tranh chính trị, cần luận khoa học
cách mạng dẫn dắt, soi đường. Chủ nghĩa hội khoa học do C. Mác
Ph. Ăngghen sáng lập đã đáp ứng yêu cầu cấp thiết đó.
- Về tiền đề khoa học luận: Vào giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong đó ba phát minh quan trọng: Thuyết
tiến hóa của Đácuyn; Định luật bảo toàn chuyển hóa năng lượng của
Lômônôxốp; Thuyết tế bào. Các phương pháp nhận thức khoa học như: quy
nạp, phân tích, thực nghiệm, tổng hợp… đã thúc đẩy năng lực duy khoa
học không ngừng phát triển.
- Về luận, những thành tựu phát triển của triết học cổ điển Đức (tiêu
biểu Cantơ, Phoiơbắc), kinh tế chính trị cổ điển Anh (tiêu biểu Ađam
Xmít Đavít Ricácđô), chủ nghĩa hội không tưởng Pháp thế kỷ XIX (tiêu
biểu Xanh - Ximông, Rôbớc Ôoen, Sáclơ Phuriê)…
- Dựa trên những tiền đề khoa học luận, nhằm đáp ứng những yêu cầu
cấp thiết trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, C. Mác (1818 - 1883)
Ph. Ăngghen (1820 - 1895) đã kế thừa, tiếp thu chọn lọc, phát triển,
sáng tạo ra học thuyết khoa học cách mạng của giai cấp công nhân ch
nghĩa hội khoa học. C. Mác Ph. Ăngghen đã phát hiện ra quy luật giá trị
thặng sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, chỉ sự hình thành, phát
triển, diệt vong của chủ nghĩa tư bản vai trò lịch sử toàn thế giới của giai
cấp sản xóa bỏ chế độ bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ
nghĩa hội ch nghĩa cộng sản.
- Chủ nghĩa Mác ra đời thành tựu t tuệ của loài người, phản ánh thực tiễn
hội, nhất cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, đáp ứng yêu cầu phát
triển của cách mạng thế giới, một tất yếu khách quan trong tiến trình phát
triển lịch sử của tưởng nhân loại.
1.2. Sự vận dụng phát triển không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong
các giai đoạn lịch s
- Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa bản trên thế giới đã chuyển sang giai đoạn
phát triển mới, giai đoạn của chủ nghĩa đế quốc. Sự phát triển không đều của
chủ nghĩa bản làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc không thể điều
hòa được, dẫn tới chiến tranh đế quốc. Đồng thời, với sự xâm chiếm bóc
lột thuộc địa tàn khốc của các nước đế quốc, trên thế giới đã xuất hiện phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân c nước thuộc đại phụ
thuộc chống ch nghĩa thực dân, đế quốc. Yêu cầu của thực tiễn cách mạng
lúc đó phải vận dụng phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới.
- V.I. Lênin (1870 - 1924) đã vận dụng phát triển sáng tạo toàn diện học
thuyết Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng sản trong điều kiện
đó. Người đã phân tích sâu sắc chủ nghĩa bản trong giai đoạn ch nghĩa
đế quốc, chỉ ra những mâu thuẫn nội tại không th khắc phục được để khẳng
định khả năng thắng lợi của cách mạng sản mối quan hệ giữa cách
mạng sản cách mạng giải phóng dân tộc.
- Sau thắng lợi của Cách mạng hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga đại năm
1917. V.I. Lênin đã phát triển một loạt vấn đ luận về y dựng Chính
quyền xôviết; phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật; tiến hành công nghiệp
hóa, điện khí hóa toàn quốc; thực hiện dân chủ hội chủ nghĩa….. Để bảo
vệ ch nghĩa Mác, V.I. Lênin đấu tranh không khoan nhượng với các quan
điểm sản, kịch liệt phê phán chủ nghĩa xét lại, hội, “tả khuynh, “hữu”
khuynh, giáo điều,… trong phong trào cộng sản công nhân quốc tế, bảo vệ
sự trong sáng của chủ nghĩa Mác. Sự phát triển sáng tạo học thuyết Mác của
V.I. Lênin đã làm cho chủ nghĩa cộng sản khoa học trở thành hệ thống luận
thống nhất của giai cấp công nhân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa Mác đã gắn liền với tên tuổi của V.I.
Lênin chủ nghĩa hội khoa học, hệ tưởng của giai cấp ng nhân
được gọi chủ nghĩa Mác - Lênin. Với bản chất khoa học cách mạng,
ngày nay chủ nghĩa c - Lênin đã, đang tiếp tục được vận dụng, b sung
phát triển trong thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động các dân tộc trên thế giới hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ chủ
nghĩa hội.
2. Chủ nghĩa Mác - nin một hệ thống luận thống nhất
gồm ba bộ phận: Triết học c - Lênin, kinh tế chính trị Mác -
Lênin chủ nghĩa hội khoa học.
- Triết học Mác - Lênin (bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa
duy vật lịch sử), khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên,
hội duy. Triết học Mác - Lênin đem lại cho con người thế giới quan khoa
học phương pháp luận đúng đắn để nhận thức cải tạo thế giới.
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất. Với phương thức sản xuất bản chủ nghĩa, kinh tế chính
trị Mác - Lênin chỉ rõ bản chất những quy luật kinh tế chủ yếu hình thành,
phát triển đưa ch nghĩa tư bản tới chỗ diệt vong. Với phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa, kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu những quy
luật phát triển của quan hệ sản xuất mới, con đường xây dựng một hội
không áp bức, bất công, tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Giai
đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa chủ nghĩa hội.
- Chủ nghĩa hội khoa học nghiên cứu những quy luật chuyển biến từ chủ
nghĩa bản lên ch nghĩa hội phương hướng xây dựng hội mới.
Chủ nghĩa hội khoa học đã chứng minh rằng, việc hội hóa lao động
trong chủ nghĩa bản đã tạo ra sở vật chất chủ yếu cho sự ra đời tất yếu
của chủ nghĩa hội. sở luận của sự chuyển biến đó chủ nghĩa Mác
- Lênin lực lượng hội thực hiện sự chuyển biến đó là giai cấp công
nhân nhân dân lao động.
3. Những nội dung chủ yếu th hiện bản chất khoa học cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin
3.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin thành tựu trí tuệ của nhân loại
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời trên sở những tri thức tiên tiến nhất của thời
đại về khoa học tự nhiên, khoa học hội những thành tựu về luận
trong triết học, kinh tế chính trị tưởng hội chủ nghĩa. Kế thừa, tiếp
lthu phát triển những thành tựu trí tuệ của nhân loại, C. Mác, Ph. Ăngghen,
V.I. Lênin đã sáng tạo ra học thuyết khoa học cách mạng cho giai cấp
sản, đó chủ nghĩa hội khoa học. Do vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin thành
tựu trí tuệ chung của nhân loại.
3.2. Ch nghĩa Mác - Lênin học thuyết duy nhất nêu lên mục tiêu
chung giải phóng giai cấp, giải phóng hội, giải phóng con người
chỉ ra lực lượng, con đường, phương thức đạt mục tiêu đó.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin đã ch rõ: quần chúng nhân dân người sáng tạo ra
lịch sử; ch mạng sự nghiệp của quần chúng. Điều đó đã ch ra cho hội,
đặc biệt giai cấp công nhân, nhân dân lao động, phương pháp luận đúng
đắn để nhận thức cải tạo thế giới.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân ch điều kiện kinh tế - hội khẳng định
giai cấp ng nhân giai cấp cách mạng triệt để nhất trong cuộc đấu tranh
xóa bỏ áp bức, bất công tình trạng người bóc lột người. Chủ nghĩa Mác -
Lênin hệ tưởng của giai cấp công nhân, hí luận sắc bén của giai
cấp ng nhân trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp mình, qua đó giải
phóng hội giải phóng con người.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ giải thích còn vạch ra con đường,
những phương tiện cải tạo thế giới. Đó mối liên h hữu cơ, biện chứng
giữa luận cách mạng thực tiễn ch mạng. C. Mác viết: “… luận ng
sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi thâm nhập vào chúng”.
3.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin h thống luận toàn diện, học thuyết
khoa học, cách mạng hoàn chỉnh.
- Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật phép biện chứng trong triết học
mácxít làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để phép biện chứng trở
thành luận khoa học. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ sự chuyển biến từ
một hình thái kinh tế - hội này sáng một hình thái kinh tế - hội khác như
một quá trình lịch sử tự nhiên.
- Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất thể hiện sự vận động, thay thế các phương thức sản xuất
trong hội. Đó sở khẳng định sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa
bản, sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa hội.
- Học thuyết giá trị thặng dư đã chỉ mục đích quy luật vận động của
phương thức sản xuất bản chủ nghĩa, từ đó vạch ra bản chất bóc lột của
quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa.
- Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp sản đã chỉ giai cấp công
nhân người lãnh đạo cuộc đấu tranh để lật đ chế độ bản chủ nghĩa
xây dựng chế đ hội chủ nghĩa, giải phóng giai cấp mình, đồng thời giải
phóng hội.
3.4. Chủ nghĩa Mác - Lênin sự thống nhất hữu giữa thế giới quan
khoa học phương pháp luận Mácxít.
- Thế giới quan duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin giúp con
người hiểu bản chất của thế giới vật chất. Thế giới (tự nhiên, hội)
duy của con người vận động, biến đổi theo những quy luật khách quan.
Con người thông qua hoạt động thực tiễn thể nhận thức, giải thích cải
tạo thế giới.
- Phương pháp luận Mácxít giúp xem xét sự vật hiện tượng một cách khách
quan, toàn diện, phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng.
Sự thống nhất giữa thế giới quan phương pháp luận đã đưa chủ nghĩa
Mác -Lênin trở thành một hệ thống luận mang tính khoa học tính cách
mạng sâu sắc.
3.5. Chủ nghĩa Mác - Lênin học thuyết mở, không ngừng đổi mới,
phát triển cùng với sự phát triển của tri thức nhân loại.
C. Mác, Ph. Ăngghen V.I. Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của
các ông không phải là cái đã xong xuôi hẳn, còn nhiều điều các ông chưa
điều kiện, thời gian, hội nghiên cứu. Theo các ông, phát triển luận Mác -
Lênin trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp sau, của những người mácxít
chân chính, nếu họ không muốn trở n lạc hậu với thời đại của họ. Trên
thực tế, ngay trong quá trình hình thành phát triển hệ thống quan điểm lý
luận của mình, các nhà kinh điển của ch nghĩa Mác - Lênin cũng đã điều
chỉnh một số luận điểm đã trở nên lạc hậu, phát triển, bổ sung những quan
điểm luận mới. Chủ nghĩa Mác - Lênin một học thuyết mở, không cứng
nhắc giáo đều: đồng thời, giá trị bền vững, xét trong tinh thần biện
chứng, nhân đạo hệ thống tưởng cốt lõi của nó. Kiên định những
nguyên bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trung thành với bản chất khoa
học ch mạng của đ không ngừng phát triển, làm cho chủ nghĩa Mác
- Lênin ngày càng hoàn thiện gắn liền với thực tiễn.
4. Ưu điểm lớn nhất của chủ nghĩa Mác theo tưởng Hồ Chí
Minh
Chủ nghĩa nhân văn hay chủ nghĩa nhân đạo được coi ưu điểm lớn nhất
của triết học Mác theo quan điểm của Hồ Chí Minh. Bởi, chủ nghĩa nhân văn
phát triển đặc biệt mạnh mẽ phương Tây trong bước chuyển từ thời kỳ
phong kiến n chủ nghĩa bản (CNTB), còn gọi thời kỳ Phục hưng văn
hóa. Đặc trưng của các tưởng thuộc trào lưu này sự nhấn mạnh, sự tập
trung vào vị trí vai trò của con người sau một thời gian dài bị đè nén dưới
chế độ phong kiến, dưới sự thống trị của thần quyền trong “đêm trường
Trung cổ”. Khẩu hiệu của thời kỳ này không thuộc về con người
lại xa lạ đối với tôi. Các học thuyết, tưởng thể hiện tinh thần nhân n, ca
ngợi vẻ đẹp, phẩm chất sức mạnh của con người. Đây chính động lực
tinh thần to lớn để nhân loại thực hiện bước chuyển mạnh mẽ sang một hình
thái kinh tế - hội cao n chế độ phong kiến, đó hình thái kinh tế - hội
bản chủ nghĩa (TBCN). Tính quy luật trong sự phát triển tưởng đây là:
trong những bước chuyển thời đại rất cần sự phát huy nhân t con người,
giải phóng tiềm năng sức mạnh của con người. Học thuyết nào tích hợp
được trong mình tinh thần của chủ nghĩa nhân văn sẽ ưu thế vượt trội
trong thời kỳ lịch sử đó.
Lối tư duy nhân văn chủ nghĩa tiếp tục được phát triển trong thời kỳ Cận đại
thế kỷ XVIII, với c n tưởng Khai sáng như Vônte, Điđơrô, Rutxô,...
không giống nhau nhưng các n tưởng đều thống nhất trong việc ca ngợi
các giá trị tự do, bình đẳng, khoan dung, chủ nghĩa thế tục, ch nghĩa toàn
cầu. Họ đề cao sự thống trị của trí tuệ con người, muốn áp dụng vào trong
những cải cách chính trị - hội, khuyến khích sự sáng tạo chủ động của
nhân. Họ tin tưởng vào sự hoàn thiện của bản chất con người, tình cảm
trách nhiệm đạo đức, khả năng của tiến bộ hội. Tuy nhiên, học thuyết
nhân văn chủ nghĩa thời kỳ này mang tính siêu hình, trừu tượng, chủ nghĩa
nhân văn của giai cấp sản, hướng mục tiêu giải phóng con người nói
chung vào phục vụ cho lợi ích của thiểu số giai cấp sản. Do đó những
khẩu hiệu "Tự do, Bình đẳng, Bác ái" chỉ mang tính hình thức mà không giải
quyết thực sự vấn đề bất bình đẳng, bóc lột của giai cấp sản đối với giai
cấp sản lúc đó. Chủ nghĩa nhân văn này vẫn mang nặng tính nh thức,
không triệt để, không tưởng. Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác vào giữa
những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa nhân văn đã phát triển n một
bước mới, chủ nghĩa nhân văn hiện thực, nhân đạo, hoàn thiện, cách
mạng khoa học. Điều này đã một lần nữa khẳng định sức sống mãnh liệt
của ch nghĩa Mác trong thời đại hiện nay.
Chủ nghĩa Mác nổi bật hay được coi ưu điểm lớn nhất với chủ nghĩa nhân
văn bởi một trong số những đặc điểm. Một đặc điểm nổi bật trong chủ nghĩa
nhân văn C.Mác, đó là: Chủ nghĩa nhân văn C.Mác đã xuất phát từ tình
thương yêu cảm thông bờ của ông trước nỗi thống khổ của đông đảo
quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột. C. Mác đã thể hiện điều đó trong bài
báo: “Những cuộc tranh luận nhân đạo luật về cấm ăn trộm gỗ”; đã phản ánh
hiện thực bị tha hóa, bị bóc lột nặng nề của giai cấp công nhân, người lao
động trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học (1844). Người công nhân bị
tách khỏi liệu sản xuất do chế độ hữu, bị tách khỏi sản phẩm do mình
sản xuất ra, bị tha hóa cả về thể chất lẫn tinh thần trong chế độ bóc lột
bản. Nguyên nhân của thực trạng đó chính do chế độ hữu. chính
đây, C.Mác đã đề xuất phải xóa bỏ chế độ hữu nếu muốn khắc phục tình
trạng tha a này của giai cấp sản. Tác phẩm đã đánh dấu bước chuyển
từ chủ nghĩa dân ch cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản.
Từ tình thương yêu, sự cảm thông đối với người lao động bị bóc lột, C.Mác
đã dành trọn cuộc đời mình để đấu tranh giải phóng con người, trước hết là
người lao động chiếm đa số, khỏi ách áp bức, bóc lột sự tha a. Điều này
đã làm nên một đặc điểm khác biệt trình độ cao hơn của chủ nghĩa nhân
văn C.Mác. Đó chủ nghĩa nhân văn gắn liền với cuộc đấu tranh giải
phóng giai cấp sản nói riêng, giải phóng con người nói chung. C.Mác đã
từng nói rằng: Hạnh phúc đấu tranh. đây, C.Mác muốn nói đến cuộc đấu
tranh giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công, cuộc đấu tranh
chống lại sự phi nhân tính hóa con người (tha hóa), cuộc đấu tranh bảo vệ
quyền tự do, dân chủ của nhân dân, cuộc đấu tranh đem lại một hội tốt
đẹp hơn cho con người. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. C.Mác
Ph.Ăngghen đã nhận định: “Trong cuộc cách mạng ấy, những người sản
chẳng mất hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ”. Cuộc cách mạng
sản cuộc đấu tranh giải phóng người lao động chiếm đa số khỏi những
xiềng xích của ách áp bức, bóc lột. Điều đó thể hiện tinh thần nhân văn
C.Mác: chủ nghĩa nhân văn gắn với sự nghiệp giải phóng con người, bảo vệ
những quyền bản của con người, đặc biệt đa số người lao động trong
hội.
Cuộc cách mạng sản đã thức tỉnh sức mạnh của đông đảo giai cấp công
nhân với sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chế độ hữu tư sản, lật đổ CNTB, xây
dựng CNCS. C.Mác Ph.Ăngghen đã phát hiện ra lực lượng của sự nghiệp
giải phóng con người đó chính giai cấp công nhân: “Tất cả các giai cấp
khác suy n tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai
cấp sản lại sản phẩm của bản thân nền đại ng nghiệp”, “Sự sụp đổ
của giai cấp sản thắng lợi của giai cấp sản đều tất yếu như nhau”.
C.Mác đã tìm ra sức mạnh giải phóng con người trong hội đương thời
giai cấp ng nhân, một lực lượng chiếm đông đảo trong hội bản, lực
lượng chính tạo ra mọi của cải, lực lượng tiến bộ nhưng lại bị bóc lột nặng
nề nhất. Từ đó, trong suốt cuộc đời mình, C.Mác đã tập trung vào việc thức
tỉnh giai cấp sản đứng lên giải phóng hội, giải phóng con người khỏi áp
bức, bóc lột. Cuộc cách mạng XHCN diễn ra đầu thế kỷ XX đang tiếp tục
đến nay đã cho thấy sức mạnh giải phóng mãnh liệt của giai cấp sản trong
phát triển hội. Thức tỉnh sức mạnh của con người chính nhiệm vụ của
những trào lưu tưởng nhân văn chủ nghĩa. học thuyết Mác, dưới góc
độ này, cũng một học thuyết nhân văn nhất.
Như vậy, tính nhân văn của học thuyết c, chủ nghĩa nhân văn cộng sản
với cách học thuyết con người, tiếng nói bênh vực quần chúng lao
động bị áp bức trong hội cũ, hướng tới giải phóng con người khỏi áp bức,
bất ng. Đây chủ nghĩa nhân văn triệt để (giải quyết vấn đề tận gốc rễ
chế độ kinh tế chứ không ch giới hạn trong tưởng, tinh thần), không phải
sự thương xót ủy mị gắn với ý chí cách mạng giải phóng con người
khỏi mọi áp bức bất công. Đây chủ nghĩa nhân văn cao cả sự nghiệp
cách mạng XHCN, sự nghiệp đòi hỏi nhiều gian khổ, hy sinh nhưng những
chiến sỹ cộng sản không bao giờ chùn bước. Trong cách mạng luôn ngời
sáng những tấm gương chiến đấu, hy sinh hết mình sự nghiệp cách mạng.
Tính nhân văn do đó cũng thống nhất với tính cách mạng, trở thành một phần
của tính cách mạng. Điều này cho thấy một đặc điểm của ch nghĩa nhân văn
C.Mác đó chủ nghĩa nhân văn gắn với tính cách mạng, chủ nghĩa nhân
văn cách mạng. Bên cạnh thống nhất giữa tính nhân văn với tính cách mạng,
học thuyết Mác còn sự thống nhất giữa tính nhân văn tính khoa học -
chủ nghĩa nhân văn khoa học. Toàn bộ học thuyết nhân n chủ nghĩa của
C.Mác một học thuyết khoa học, đã khái quát được những quy luật phổ
biến của tự nhiên, hội duy. Đặc biệt với việc sáng tạo ra chủ nghĩa
duy vật lịch sử, học thuyết Mác đã phát hiện ra những quy luật chung nhất
của hội loài người. Từ đó, đã đặt chủ nghĩa nhân văn trên nền tảng khoa
học. Điều này cũng cho thấy sự thống nhất giữa chủ nghĩa nhân văn mácxít
với những trào lưu nhân văn chủ nghĩa khác, đó sự nhấn mạnh vai t của
khoa học trong sự phát triển, bản thân chủ nghĩa nhân văn mácxít cũng
một học thuyết khoa học.
Chủ nghĩa Mác sự thống nhất giữa tính nhân văn với tính khoa học tính
cách mạng. Tính cách mạng thống nhất với tính nhân văn: cách mạng nhất
(giải phóng con người) chính nhân văn nhất (vì con người nhất). Cách
mạng phải gắn với tính nhân văn mới triệt để, hoàn thiện. Tính nhân văn cũng
thống nhất với nh khoa học, làm hoàn thiện tính khoa học. Tính khoa học
của chủ nghĩa Mác thực sự th hiện chủ nghĩa nhân văn con người. sự
thống nhất giữa tính nhân văn, tính khoa học tính cách mạng thể hiện tập
trung trong tưởng cộng sản chủ nghĩa - tưởng về một hội con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, được tự do, phát triển toàn
diện, một hội trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người điều kiện cho
sự phát triển t do của tất cả mọi người”. Đấy chính tinh thần nhân văn cao
nhất trong học thuyết Mác. Chủ nghĩa nhân văn gắn với việc xây dựng một
hội tốt đẹp hơn cho con người. Không chỉ giới khoa học mácxít giới khoa
học phương Tây hiện đại cũng đánh giá rất cao tưởng nhân văn này của
C.Mác Ph. Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, coi đây một
trong những giá trị đại nhất của chủ nghĩa Mác.
Như vậy, nh sự thống nhất giữa tính nhân văn, tính cách mạng tính
khoa học, chủ nghĩa Mác đã trở thành một học thuyết hoàn bị sức sống
lâu dài trong sự phát triển tưởng nhân loại gần hai thế kỷ qua trong
những năm sắp tới. Không chỉ nhân văn trong việc xem xét mối quan hệ giữa
con người với con người trong hội, học thuyết Mác còn thể hiện tính nhân
văn trong mối quan h giữa con người với tự nhiên. Theo chủ nghĩa Mác, con
người tự nhiên thống nhất. Con người là sản phẩm cao nhất của sự tiến
hóa lâu dài của tự nhiên. Do đó, thái đ của con người với tự nhiên không
phải sự thống trị, chủ tự nhiên một cách tuyệt đối, tàn bạo, hài
hòa với tự nhiên. Điều này thể hiện sự nhân văn hóa mối quan hệ giữa con
người tự nhiên. C.Mác Ph.Ăngghen từng đi đến những nhận định như:
“giới tự nhiên thân thể của con người, thân thể với nó con người
phải lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống
thể xác tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế
chẳng qua chỉ nghĩa giới tự nhiên gắn liền với bản thân tự nhiên, con
người một bộ phận của tự nhiên” ; hay “cứ mỗi chiến thắng của chúng ta
với giới tự nhiên, giới tự nhiên sẽ quay trở lại trả thù chúng ta” (Biện chứng
của tự nhiên). Hiện nay, nhân loại đang hướng tới mục tiêu phát triển bền
vững, phát triển hài hòa giữa kinh tế, hội môi trường. Đây chính sự
thể hiện của tính nhân văn trong quan hệ với tự nhiên của con người. Đây
cũng một đặc điểm quan trọng của chủ nghĩa nhân văn học thuyết Mác.

Preview text:

Theo Hồ Chí Minh thì ưu điểm lớn nhất của chủ nghĩa Mác là gì?
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu trí tuệ vĩ đại của loài
người
1.1. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin là quy luật phát triển khách quan của
xã hội
- Trong quá trình phát triển xã hội loài người, nhất là từ khi xuất hiện các giai
cấp và đấu tranh giai cấp, quần chúng lao động luôn luôn mơ ước được sống
trong một xã hội bình đẳng, công bằng, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh
phúc. Những tư tưởng tiến bộ, nhân đạo đã hình thành và phát triển trong lịch
sử nhân loại đều mong muốn giải phóng các giai cấp cần lao khỏi ách áp bức, bất công.
- Đến giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở nhiều
nước Tây Âu, nhất là nước Anh, đã phát triển mạnh mẽ. Bước lên vũ đài
chính trị, giai cấp vô sản cần có lý luận khoa học để hướng dẫn cuộc đấu
tranh giải phóng giai cấp mình khỏi áp bức, bất công xã hội. Trên thế giới lúc
đó cũng đã xuất hiện những tiền đề về kinh tế - xã hội khoa học và lý luận,
v.v… dẫn tới sự ra đời của chủ nghĩa Mác.
- Về điều kiện kinh tế - xã hội: Với sự ra đời của nền sản xuất đại công
nghiệp dựa trên kỹ thuật cơ khí trước hết là ở nước Anh, lực lượng sản xuất
xã hội đạt tới trình độ xã hội hóa ngày càng cao. Mâu thuẫn giữa tính chất xã
hội của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất trong xã hội tư bản ngày càng phát triển, trở thành mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản.
- Sự phát triển của nền đại công nghiệp đã sản sinh ra một giai cấp mới, đó là
giai cấp công nhân. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, đã xuất hiện hai giai cấp
cơ bản, đối lập nhau về lợi ích là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng lan rộng, phát triển tự phát
tới tự giác, từ đấu tranh kinh tế tới đấu tranh chính trị, cần có lý luận khoa học
và cách mạng dẫn dắt, soi đường. Chủ nghĩa xã hội khoa học do C. Mác và
Ph. Ăngghen sáng lập đã đáp ứng yêu cầu cấp thiết đó.
- Về tiền đề khoa học và lý luận: Vào giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong đó có ba phát minh quan trọng: Thuyết
tiến hóa của Đácuyn; Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của
Lômônôxốp; Thuyết tế bào. Các phương pháp nhận thức khoa học như: quy
nạp, phân tích, thực nghiệm, tổng hợp… đã thúc đẩy năng lực tư duy khoa
học không ngừng phát triển.
- Về lý luận, có những thành tựu phát triển của triết học cổ điển Đức (tiêu
biểu là Cantơ, Phoiơbắc), kinh tế chính trị cổ điển Anh (tiêu biểu là Ađam
Xmít và Đavít Ricácđô), chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp thế kỷ XIX (tiêu
biểu là Xanh - Ximông, Rôbớc Ôoen, Sáclơ Phuriê)…
- Dựa trên những tiền đề khoa học và lý luận, nhằm đáp ứng những yêu cầu
cấp thiết trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, C. Mác (1818 - 1883)
và Ph. Ăngghen (1820 - 1895) đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, phát triển,
sáng tạo ra học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân là chủ
nghĩa xã hội khoa học. C. Mác và Ph. Ăngghen đã phát hiện ra quy luật giá trị
thặng dư và sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, chỉ rõ sự hình thành, phát
triển, diệt vong của chủ nghĩa tư bản và vai trò lịch sử toàn thế giới của giai
cấp vô sản là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
- Chủ nghĩa Mác ra đời là thành tựu trí tuệ của loài người, phản ánh thực tiễn
xã hội, nhất là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, đáp ứng yêu cầu phát
triển của cách mạng thế giới, là một tất yếu khách quan trong tiến trình phát
triển lịch sử của tư tưởng nhân loại.
1.2. Sự vận dụng và phát triển không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong
các giai đoạn lịch sử
- Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã chuyển sang giai đoạn
phát triển mới, giai đoạn của chủ nghĩa đế quốc. Sự phát triển không đều của
chủ nghĩa tư bản làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc không thể điều
hòa được, dẫn tới chiến tranh đế quốc. Đồng thời, với sự xâm chiếm và bóc
lột thuộc địa tàn khốc của các nước đế quốc, trên thế giới đã xuất hiện phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc đại và phụ
thuộc chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Yêu cầu của thực tiễn cách mạng
lúc đó là phải vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới.
- V.I. Lênin (1870 - 1924) đã vận dụng và phát triển sáng tạo toàn diện học
thuyết Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong điều kiện
đó. Người đã phân tích sâu sắc chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn chủ nghĩa
đế quốc, chỉ ra những mâu thuẫn nội tại không thể khắc phục được để khẳng
định khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản và mối quan hệ giữa cách
mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc.
- Sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại năm
1917. V.I. Lênin đã phát triển một loạt vấn đề lý luận về xây dựng Chính
quyền xôviết; phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật; tiến hành công nghiệp
hóa, điện khí hóa toàn quốc; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa….. Để bảo
vệ chủ nghĩa Mác, V.I. Lênin đấu tranh không khoan nhượng với các quan
điểm tư sản, kịch liệt phê phán chủ nghĩa xét lại, cơ hội, “tả” khuynh, “hữu”
khuynh, giáo điều,… trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, bảo vệ
sự trong sáng của chủ nghĩa Mác. Sự phát triển sáng tạo học thuyết Mác của
V.I. Lênin đã làm cho chủ nghĩa cộng sản khoa học trở thành hệ thống lý luận
thống nhất của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa Mác đã gắn liền với tên tuổi của V.I.
Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân
được gọi là chủ nghĩa Mác - Lênin. Với bản chất khoa học và cách mạng,
ngày nay chủ nghĩa Mác - Lênin đã, đang tiếp tục được vận dụng, bổ sung và
phát triển trong thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và các dân tộc trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
2. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận thống nhất
gồm ba bộ phận: Triết học Mác - Lênin, kinh tế chính trị Mác -
Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Triết học Mác - Lênin (bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử), là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Triết học Mác - Lênin đem lại cho con người thế giới quan khoa
học và phương pháp luận đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất. Với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, kinh tế chính
trị Mác - Lênin chỉ rõ bản chất những quy luật kinh tế chủ yếu hình thành,
phát triển và đưa chủ nghĩa tư bản tới chỗ diệt vong. Với phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa, kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu những quy
luật phát triển của quan hệ sản xuất mới, con đường xây dựng một xã hội
không có áp bức, bất công, vì tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Giai
đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật chuyển biến từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng xã hội mới.
Chủ nghĩa xã hội khoa học đã chứng minh rằng, việc xã hội hóa lao động
trong chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất chủ yếu cho sự ra đời tất yếu
của chủ nghĩa xã hội. Cơ sở lý luận của sự chuyển biến đó là chủ nghĩa Mác
- Lênin và lực lượng xã hội thực hiện sự chuyển biến đó là giai cấp công
nhân và nhân dân lao động.
3. Những nội dung chủ yếu thể hiện bản chất khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin
3.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu trí tuệ của nhân loại
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời trên cơ sở những tri thức tiên tiến nhất của thời
đại về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và những thành tựu về lý luận
trong triết học, kinh tế chính trị và tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa, tiếp
lthu và phát triển những thành tựu trí tuệ của nhân loại, C. Mác, Ph. Ăngghen,
V.I. Lênin đã sáng tạo ra học thuyết khoa học và cách mạng cho giai cấp vô
sản, đó là chủ nghĩa xã hội khoa học. Do vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là thành
tựu trí tuệ chung của nhân loại.
3.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất nêu lên mục tiêu
chung là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người và
chỉ ra lực lượng, con đường, phương thức đạt mục tiêu đó.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra
lịch sử; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Điều đó đã chỉ ra cho xã hội,
đặc biệt là giai cấp công nhân, nhân dân lao động, phương pháp luận đúng
đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích điều kiện kinh tế - xã hội và khẳng định
giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng triệt để nhất trong cuộc đấu tranh
xóa bỏ áp bức, bất công và tình trạng người bóc lột người. Chủ nghĩa Mác -
Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là vũ hí lý luận sắc bén của giai
cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp mình, qua đó giải
phóng xã hội và giải phóng con người.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ giải thích mà còn vạch ra con đường,
những phương tiện cải tạo thế giới. Đó là mối liên hệ hữu cơ, biện chứng
giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng. C. Mác viết: “… lý luận cũng
sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào chúng”.
3.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận toàn diện, học thuyết
khoa học, cách mạng hoàn chỉnh.
- Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học
mácxít làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở
thành lý luận khoa học. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ rõ sự chuyển biến từ
một hình thái kinh tế - xã hội này sáng một hình thái kinh tế - xã hội khác như
một quá trình lịch sử tự nhiên.
- Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất thể hiện sự vận động, thay thế các phương thức sản xuất
trong xã hội. Đó là cơ sở khẳng định sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư
bản, sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
- Học thuyết giá trị thặng dư đã chỉ rõ mục đích và quy luật vận động của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, từ đó vạch ra bản chất bóc lột của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản đã chỉ rõ giai cấp công
nhân là người lãnh đạo cuộc đấu tranh để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, giải phóng giai cấp mình, đồng thời giải phóng xã hội.
3.4. Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan
khoa học và phương pháp luận Mácxít.
- Thế giới quan duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin giúp con
người hiểu rõ bản chất của thế giới là vật chất. Thế giới (tự nhiên, xã hội) và
tư duy của con người vận động, biến đổi theo những quy luật khách quan.
Con người thông qua hoạt động thực tiễn có thể nhận thức, giải thích và cải tạo thế giới.
- Phương pháp luận Mácxít giúp xem xét sự vật hiện tượng một cách khách
quan, toàn diện, phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng.
Sự thống nhất giữa thế giới quan và phương pháp luận đã đưa chủ nghĩa
Mác -Lênin trở thành một hệ thống lý luận mang tính khoa học và tính cách mạng sâu sắc.
3.5. Chủ nghĩa Mác - Lênin và học thuyết mở, không ngừng đổi mới,
phát triển cùng với sự phát triển của tri thức nhân loại.
C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của
các ông không phải là cái đã xong xuôi hẳn, còn nhiều điều các ông chưa có
điều kiện, thời gian, cơ hội nghiên cứu. Theo các ông, phát triển lý luận Mác -
Lênin là trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp sau, của những người mácxít
chân chính, nếu họ không muốn trở nên lạc hậu với thời đại của họ. Trên
thực tế, ngay trong quá trình hình thành và phát triển hệ thống quan điểm lý
luận của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã điều
chỉnh một số luận điểm đã trở nên lạc hậu, phát triển, bổ sung những quan
điểm lý luận mới. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết mở, không cứng
nhắc và giáo đều: đồng thời, có giá trị bền vững, xét trong tinh thần biện
chứng, nhân đạo và hệ thống tư tưởng cốt lõi của nó. Kiên định những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là trung thành với bản chất khoa
học và cách mạng của nó để không ngừng phát triển, làm cho chủ nghĩa Mác
- Lênin ngày càng hoàn thiện và gắn liền với thực tiễn.
4. Ưu điểm lớn nhất của chủ nghĩa Mác theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa nhân văn hay chủ nghĩa nhân đạo được coi là ưu điểm lớn nhất
của triết học Mác theo quan điểm của Hồ Chí Minh. Bởi, chủ nghĩa nhân văn
phát triển đặc biệt mạnh mẽ ở phương Tây trong bước chuyển từ thời kỳ
phong kiến lên chủ nghĩa tư bản (CNTB), còn gọi là thời kỳ Phục hưng văn
hóa. Đặc trưng của các tư tưởng thuộc trào lưu này là sự nhấn mạnh, sự tập
trung vào vị trí và vai trò của con người sau một thời gian dài bị đè nén dưới
chế độ phong kiến, dưới sự thống trị của thần quyền trong “đêm trường
Trung cổ”. Khẩu hiệu của thời kỳ này là không có gì thuộc về con người mà
lại xa lạ đối với tôi. Các học thuyết, tư tưởng thể hiện tinh thần nhân văn, ca
ngợi vẻ đẹp, phẩm chất và sức mạnh của con người. Đây chính là động lực
tinh thần to lớn để nhân loại thực hiện bước chuyển mạnh mẽ sang một hình
thái kinh tế - xã hội cao hơn chế độ phong kiến, đó là hình thái kinh tế - xã hội
tư bản chủ nghĩa (TBCN). Tính quy luật trong sự phát triển tư tưởng ở đây là:
trong những bước chuyển thời đại rất cần sự phát huy nhân tố con người,
giải phóng tiềm năng và sức mạnh của con người. Học thuyết nào tích hợp
được trong mình tinh thần của chủ nghĩa nhân văn sẽ có ưu thế vượt trội
trong thời kỳ lịch sử đó.
Lối tư duy nhân văn chủ nghĩa tiếp tục được phát triển trong thời kỳ Cận đại
thế kỷ XVIII, với các nhà tư tưởng Khai sáng như Vônte, Điđơrô, Rutxô,... Dù
không giống nhau nhưng các nhà tư tưởng đều thống nhất trong việc ca ngợi
các giá trị tự do, bình đẳng, khoan dung, chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa toàn
cầu. Họ đề cao sự thống trị của trí tuệ con người, muốn áp dụng nó vào trong
những cải cách chính trị - xã hội, khuyến khích sự sáng tạo và chủ động của
cá nhân. Họ tin tưởng vào sự hoàn thiện của bản chất con người, tình cảm và
trách nhiệm đạo đức, và khả năng của tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, học thuyết
nhân văn chủ nghĩa thời kỳ này mang tính siêu hình, trừu tượng, là chủ nghĩa
nhân văn của giai cấp tư sản, hướng mục tiêu giải phóng con người nói
chung vào phục vụ cho lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản. Do đó những
khẩu hiệu "Tự do, Bình đẳng, Bác ái" chỉ mang tính hình thức mà không giải
quyết thực sự vấn đề bất bình đẳng, bóc lột của giai cấp tư sản đối với giai
cấp vô sản lúc đó. Chủ nghĩa nhân văn này vẫn mang nặng tính hình thức,
không triệt để, không tưởng. Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác vào giữa
những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa nhân văn đã phát triển lên một
bước mới, là chủ nghĩa nhân văn hiện thực, nhân đạo, hoàn thiện, cách
mạng và khoa học. Điều này đã một lần nữa khẳng định sức sống mãnh liệt
của chủ nghĩa Mác trong thời đại hiện nay.
Chủ nghĩa Mác nổi bật hay được coi là ưu điểm lớn nhất với chủ nghĩa nhân
văn bởi một trong số những đặc điểm. Một đặc điểm nổi bật trong chủ nghĩa
nhân văn ở C.Mác, đó là: Chủ nghĩa nhân văn ở C.Mác đã xuất phát từ tình
thương yêu và cảm thông vô bờ của ông trước nỗi thống khổ của đông đảo
quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột. C. Mác đã thể hiện điều đó trong bài
báo: “Những cuộc tranh luận nhân đạo luật về cấm ăn trộm gỗ”; đã phản ánh
hiện thực bị tha hóa, bị bóc lột nặng nề của giai cấp công nhân, người lao
động trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học (1844). Người công nhân bị
tách khỏi tư liệu sản xuất do chế độ tư hữu, bị tách khỏi sản phẩm do mình
sản xuất ra, và bị tha hóa cả về thể chất lẫn tinh thần trong chế độ bóc lột tư
bản. Nguyên nhân của thực trạng đó chính là do chế độ tư hữu. Và chính ở
đây, C.Mác đã đề xuất phải xóa bỏ chế độ tư hữu nếu muốn khắc phục tình
trạng tha hóa này của giai cấp vô sản. Tác phẩm đã đánh dấu bước chuyển
từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản.
Từ tình thương yêu, sự cảm thông đối với người lao động bị bóc lột, C.Mác
đã dành trọn cuộc đời mình để đấu tranh giải phóng con người, trước hết là
người lao động chiếm đa số, khỏi ách áp bức, bóc lột và sự tha hóa. Điều này
đã làm nên một đặc điểm khác biệt và trình độ cao hơn của chủ nghĩa nhân
văn ở C.Mác. Đó là chủ nghĩa nhân văn gắn liền với cuộc đấu tranh giải
phóng giai cấp vô sản nói riêng, giải phóng con người nói chung. C.Mác đã
từng nói rằng: Hạnh phúc là đấu tranh. Ở đây, C.Mác muốn nói đến cuộc đấu
tranh giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công, cuộc đấu tranh
chống lại sự phi nhân tính hóa con người (tha hóa), cuộc đấu tranh bảo vệ
quyền tự do, dân chủ của nhân dân, cuộc đấu tranh đem lại một xã hội tốt
đẹp hơn cho con người. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nhận định: “Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản
chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ”. Cuộc cách mạng vô
sản là cuộc đấu tranh giải phóng người lao động chiếm đa số khỏi những
xiềng xích của ách áp bức, bóc lột. Điều đó thể hiện tinh thần nhân văn ở
C.Mác: chủ nghĩa nhân văn gắn với sự nghiệp giải phóng con người, bảo vệ
những quyền cơ bản của con người, đặc biệt là đa số người lao động trong xã hội.
Cuộc cách mạng vô sản đã thức tỉnh sức mạnh của đông đảo giai cấp công
nhân với sứ mệnh lịch sử là xóa bỏ chế độ tư hữu tư sản, lật đổ CNTB, xây
dựng CNCS. C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra lực lượng của sự nghiệp
giải phóng con người đó chính là giai cấp công nhân: “Tất cả các giai cấp
khác suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai
cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”, “Sự sụp đổ
của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”.
C.Mác đã tìm ra sức mạnh giải phóng con người trong xã hội đương thời ở
giai cấp công nhân, một lực lượng chiếm đông đảo trong xã hội tư bản, là lực
lượng chính tạo ra mọi của cải, là lực lượng tiến bộ nhưng lại bị bóc lột nặng
nề nhất. Từ đó, trong suốt cuộc đời mình, C.Mác đã tập trung vào việc thức
tỉnh giai cấp vô sản đứng lên giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi áp
bức, bóc lột. Cuộc cách mạng XHCN diễn ra đầu thế kỷ XX và đang tiếp tục
đến nay đã cho thấy sức mạnh giải phóng mãnh liệt của giai cấp vô sản trong
phát triển xã hội. Thức tỉnh sức mạnh của con người chính là nhiệm vụ của
những trào lưu tư tưởng nhân văn chủ nghĩa. Và học thuyết Mác, dưới góc
độ này, cũng là một học thuyết nhân văn nhất.
Như vậy, tính nhân văn của học thuyết Mác, chủ nghĩa nhân văn cộng sản
với tư cách là học thuyết vì con người, là tiếng nói bênh vực quần chúng lao
động bị áp bức trong xã hội cũ, hướng tới giải phóng con người khỏi áp bức,
bất công. Đây là chủ nghĩa nhân văn triệt để (giải quyết vấn đề ở tận gốc rễ là
chế độ kinh tế chứ không chỉ giới hạn trong tư tưởng, tinh thần), không phải
là sự thương xót ủy mị mà gắn với ý chí cách mạng giải phóng con người
khỏi mọi áp bức bất công. Đây là chủ nghĩa nhân văn cao cả vì sự nghiệp
cách mạng XHCN, là sự nghiệp đòi hỏi nhiều gian khổ, hy sinh nhưng những
chiến sỹ cộng sản không bao giờ chùn bước. Trong cách mạng luôn ngời
sáng những tấm gương chiến đấu, hy sinh hết mình vì sự nghiệp cách mạng.
Tính nhân văn do đó cũng thống nhất với tính cách mạng, trở thành một phần
của tính cách mạng. Điều này cho thấy một đặc điểm của chủ nghĩa nhân văn
ở C.Mác đó là chủ nghĩa nhân văn gắn với tính cách mạng, chủ nghĩa nhân
văn cách mạng. Bên cạnh thống nhất giữa tính nhân văn với tính cách mạng,
học thuyết Mác còn có sự thống nhất giữa tính nhân văn và tính khoa học -
chủ nghĩa nhân văn khoa học. Toàn bộ học thuyết nhân văn chủ nghĩa của
C.Mác là một học thuyết khoa học, đã khái quát được những quy luật phổ
biến của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đặc biệt với việc sáng tạo ra chủ nghĩa
duy vật lịch sử, học thuyết Mác đã phát hiện ra những quy luật chung nhất
của xã hội loài người. Từ đó, đã đặt chủ nghĩa nhân văn trên nền tảng khoa
học. Điều này cũng cho thấy sự thống nhất giữa chủ nghĩa nhân văn mácxít
với những trào lưu nhân văn chủ nghĩa khác, đó là sự nhấn mạnh vai trò của
khoa học trong sự phát triển, và bản thân chủ nghĩa nhân văn mácxít cũng là
một học thuyết khoa học.
Chủ nghĩa Mác có sự thống nhất giữa tính nhân văn với tính khoa học và tính
cách mạng. Tính cách mạng thống nhất với tính nhân văn: cách mạng nhất
(giải phóng con người) chính là nhân văn nhất (vì con người nhất). Cách
mạng phải gắn với tính nhân văn mới triệt để, hoàn thiện. Tính nhân văn cũng
thống nhất với tính khoa học, làm hoàn thiện tính khoa học. Tính khoa học
của chủ nghĩa Mác thực sự thể hiện chủ nghĩa nhân văn vì con người. Và sự
thống nhất giữa tính nhân văn, tính khoa học và tính cách mạng thể hiện tập
trung trong lý tưởng cộng sản chủ nghĩa - lý tưởng về một xã hội con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, được tự do, phát triển toàn
diện, một xã hội trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho
sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Đấy chính là tinh thần nhân văn cao
nhất trong học thuyết Mác. Chủ nghĩa nhân văn gắn với việc xây dựng một xã
hội tốt đẹp hơn cho con người. Không chỉ giới khoa học mácxít mà giới khoa
học phương Tây hiện đại cũng đánh giá rất cao tư tưởng nhân văn này của
C.Mác và Ph. Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, coi đây là một
trong những giá trị vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác.
Như vậy, nhờ có sự thống nhất giữa tính nhân văn, tính cách mạng và tính
khoa học, chủ nghĩa Mác đã trở thành một học thuyết hoàn bị và có sức sống
lâu dài trong sự phát triển tư tưởng nhân loại gần hai thế kỷ qua và trong
những năm sắp tới. Không chỉ nhân văn trong việc xem xét mối quan hệ giữa
con người với con người trong xã hội, học thuyết Mác còn thể hiện tính nhân
văn trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Theo chủ nghĩa Mác, con
người và tự nhiên là thống nhất. Con người là sản phẩm cao nhất của sự tiến
hóa lâu dài của tự nhiên. Do đó, thái độ của con người với tự nhiên không
phải là sự thống trị, bá chủ tự nhiên một cách tuyệt đối, tàn bạo, mà là hài
hòa với tự nhiên. Điều này thể hiện sự nhân văn hóa mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên. C.Mác và Ph.Ăngghen từng đi đến những nhận định như:
“giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người, thân thể mà với nó con người
phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống
thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế
chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân tự nhiên, vì con
người là một bộ phận của tự nhiên” ; hay “cứ mỗi chiến thắng của chúng ta
với giới tự nhiên, giới tự nhiên sẽ quay trở lại trả thù chúng ta” (Biện chứng
của tự nhiên). Hiện nay, nhân loại đang hướng tới mục tiêu phát triển bền
vững, phát triển hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi trường. Đây chính là sự
thể hiện của tính nhân văn trong quan hệ với tự nhiên của con người. Đây
cũng là một đặc điểm quan trọng của chủ nghĩa nhân văn ở học thuyết Mác.
Document Outline

  • Theo Hồ Chí Minh thì ưu điểm lớn nhất của chủ nghĩ
    • 1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu trí tuệ vĩ đ
      • 1.1. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin là quy lu
      • 1.2. Sự vận dụng và phát triển không ngừng của chủ
    • 2. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận t
    • 3. Những nội dung chủ yếu thể hiện bản chất khoa h
    • 4. Ưu điểm lớn nhất của chủ nghĩa Mác theo tư tưởn