














Preview text:
Thị trường lao động là gì? Sự hình thành, phát triển thị trường lao động ở Việt Nam
Ngày nay, ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi, trong đó bao gồm cả Việt Nam, song song với việc mở
rộng tự do kinh doanh, phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường vốn và chứng khoán, thì thị
trường lao động cũng đang được hình thành. Bài viết này giới thiệu khái niệm, bản chất, ý nghĩa và những
đặc thù của thị trường lao động trong quá trình hình thành và phát triển, đặc biệt trong nền kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam.
1. Khái niệm về thị trường lao động
Có rất nhiều khái niệm về thị trường lao động, mỗi một thị trường lao động lại có những đặc điểm riêng của
mình. Thị trường lao động khác biệt so với thị trường hàng hóa ở chỗ, nó thể hiện phần lớn những biểu hiện
kinh tế xã hội của cả xã hội và có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của nó. Vì vậy, thị trường lao
động của Mỹ, Nhật, Tây Âu, Nga, Trung Quốc và Việt Nam có rất nhiều khác nhau.
Vậy thế nào là thị trường lao động, Các tên gọi mà chúng ta thường gặp trong các ấn phẩm khoa học và
các phương tiện thông tin đại chúng, tên nào chính xác hơn: “thị trường lao động”, “thị trường sức lao động”,
“thị trường dân số tích cực kinh tế”, “thị trường nguồn nhân lực” ? Bản chất của chúng có gì đặc biệt và
chúng khác nhau ở điểm nào? ' Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì: “Thị trường lao động là thị trường
trong đó có các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua quá trình để xác định mức độ có việc làm của
lao động, cũng như mức độ tiền công”. Khái niệm này nhấn mạnh đến các dịch vụ lao động được xác định
thông qua việc làm được trả công.
Các nhà khoa học Mỹ cho rằng: “…Thị trường mà đảm bảo việc làm cho người lao động và kết hợp giải
quyết trong lĩnh vực việc làm, thì được gọi là thị trường lao động” ; hoặc, “…Thị trường - đó là một cơ chế,
mà với sự trợ giúp của nó hệ số giữa người lao động và số lượng chỗ làm việc được điều tiết”.
Các nhà khoa học kinh tế Nga thì lại cho rằng: “Thị trường lao động được hiểu như một hệ thống quan hệ
xã hội, những định mức và thể chế xã hội (trong đó có cả pháp luật), đảm bảo cho việc tái sản xuất, trao đổi
và sử dụng lao động”; hoặc: Hệ thống những quan hệ được hình thành trên cơ sở giá trị giữa những người
sử dụng lao động (sở hữu tư liệu sản xuất) và những người làm thuê (sở hữu sức lao động) về vấn đề
trước nhất là thoả mãn cầu lao động và vấn đề tiếp theo là làm thuê như nguồn phương tiện để tồn tại”. “…
Thị trường lao động - đó là một dạng đặc biệt của thị trường hàng hóa, mà nội dung của nó là thực hiện vấn
đề mua và bán loại hàng hóa có ý nghĩa đặc biệt - sức lao động, hay là khả năng lao động của con người.
Như một phạm trù kinh tế thị trường sức lao động thể hiện quan hệ kinh tế giữa một bên là người làm chủ
hàng hóa này, sở hữu sức lao động - người bán nó và bên kia, với người sở hữu vốn - mua sức lao động”.
Theo các nhà khoa học kinh tế Việt Nam khái niệm này còn đa dạng và phong phú hơn nhiều: “Thị trường
lao động là toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong lĩnh vực thuê mướn lao động (nó bao gồm các
quan hệ lao động cơ bản nhất như thuê mướn và sa thải lao động, tiền lương và tiền công, bảo hiểm xã hội,
tranh chấp lao động...), ở đó diễn ra sự trao đổi, thoả thuận giữa một bên là người lao động tự do và một
bên là người sử dụng lao động”.. Hoặc: “Thị thường lao động được hình thành trong bối cảnh giải phóng
người lao động từ trong các xí nghiệp và tăng thất nghiệp. Bản thân thị trường lao động thường xuyên đồng
nhất với thất nghiệp, cũng là những người không có việc làm, nhưng đang đi tìm nó, còn cầu là những chỗ
làm việc trống”. “Thị trường lao động (hoặc thị trường sức lao động) là nơi thực hiện các quan hệ xã hội
giữa người bán sức lao động (người lao động làm thuê) và người mua sức lao động (người sử dụng sức
lao động), thông qua các hình thức thoả thuận về giá cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện làm việc
khác, trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản, bằng miệng, hoặc thông qua các dạng hợp đồng
hay thoả thuận khác”. “Thị trường “sức lao động” là nơi thể hiện quan hệ xã hội giữa người lao động làm
thuê và người thuê mướn lao động thông qua sự điều chỉnh giá cả tiền công”. “Thị trường lao động biểu
hiện mối quan hệ giữa một bên là người có sức lao động và bên kia là người sử dụng sức lao động nhằm
xác định số lượng và chất lượng lao động sẽ đem ra trao đổi và mức thù lao tương ứng”.
Bất kỳ khái niệm nào đều có những khía cạnh đúng. Chúng tôi trích dẫn trên đây chỉ một vài trong số nhiều
khái niệm để nhấn mạnh tính phức tạp của chính khái niệm “thị trường lao động”, cùng với tính đa dạng và
sự đặc biệt của nó. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, phương pháp tiếp cận của một vài tác giả trên
đây sẽ dẫn đến sẽ đánh giá sai lệch một cách nghiêm trọng những tình huống đang xuất hiện trong lĩnh vực
việc làm và triển vọng hình thành, phát triển của thị trường lao động trong nền kinh tế đang chuyển đổi
mạnh mẽ sang quan hệ thị trường.
Từ đó, trong khái niệm “thị trường lao động” chúng tôi thấy cần thiết phải bổ sung thêm, dựa vào những gì
thị trường lao động tồn tại và nó hoạt động trong bối cảnh không gian nào.
Theo ý kiến chúng tôi, khái niệm “thị trường lao động” mà nhà khoa học kinh tế Nga Kostin Leonit
Alecxeevich đưa ra là tương đối đầy đủ: “Thị trường lao động - đó là một cơ chế hoạt động tương hỗ giữa
người sử dụng lao động và người lao động trong một không gian kinh té xác định, thể hiện những quan hệ
kinh tê' và pháp lý giữa họ với nhau”. Hay nói chi tiết hơn, thị trường lao động là tập hợp những quan hệ
kinh tế, pháp lý, xuất hiện giữa người sở hữu sức lao động (người lao động) và người sử dụng nó (người
thuê lao động) về vấn đề chỗ làm việc cụ thể, nơi và hàng hóa và dịch vụ sẽ được làm ra. Quá trình sử
dụng sức lao động, lao động sẽ được hình thành trong sản xuất chứ không phải trên thị trường. Đối với
người nắm giữ sức lao động sẽ được tạo ra cơ hội để nhận chỗ làm việc, nơi mà anh ta có thể làm việc, thể
hiện khả năng, và nhận thụ nhập để tái sản xuất sức lao động của mình. Đối với người thuê lao động sẽ có
cơ hội tăng lợi nhuận kinh tế. Trên thị trường sẽ hình thành những quan hệ việc làm. Vì vậy, nó xác định nội
dung đích thực của thị trường lao động như thị trường việc làm.
2. Bản chất của thị trường lao động
Thị trường - đó là một khái niệm rất tổng hợp, nếu chúng ta nói thị trường hàng hóa, thì nó gồm rất nhiều
loại hàng khác nhau như: lương thực, thực phẩm, chất đốt, xe máy, ô-tô, điện tử, máy móc v.v. . . được xác
định rất cụ thể đối tượng mua và bán. Vậy đối tượng mua và bán của thị trường lao động là gì? Chúng tôi
thiết nghĩ rằng, đó là câu hỏi không đơn giản. Một nhóm các nhà kinh tế cho rằng, trên thị trường lao động,
người ta mua và bán “lao động”, nhóm các tác giả khác lại cho rằng, trên thị trường lao động được mua và
bán “sức lao động”. Nhà kinh tế người Mỹ Ronald Erenberg và Robert Smith thì lại khẳng định, trên thị
trường lao động được mua và bán “dịch vụ lao động” .
Dân số tích cực kinh tế - đó là phần dân số đảm bảo nguồn cung cấp sức 1ao động cho sản xuất hàng hóa
và dịch vụ, bao gồm cả những người đang lao động và những người thất nghiệp, hay chính xác hơn là
những người làm công ăn lương, người thuê lao động và những người tự tổ chức lao động.
Hay nói cách khác, đó là một phần dân số, bao gồm những người đang hoạt động lao động, có thu nhập, và
những người thất nghiệp, đang tích cực đi tìm kiếm việc làm và luôn sẵn sàng làm việc. Khái niệm này đã
được dùng trong các ấn phẩm khoa học, cũng như trong thực tế từ giữa những năm 60 của thế kỷ XX.
Ngày nay trong nhiều ấn phẩm khoa học chúng ta thường thấy sự đồng nhất giữa 2 khái niệm “dân số tích
cực kinh tể' và “sức lao động”. Tuy nhiên nếu xem xét thật kỹ những cặp phạm trù này thì giữa chúng có
những khác nhau thực sự.
Khái niệm “lao động” được liên kết nhóm người 1ao động, có vai trò khác nhau trong hoạt động kinh tế.
Nhóm thứ nhất - những nhà doanh nghiệp, những người nông dân làm kinh tế độc lập (nông trang viên),
đang hoạt động lao động cá thể. Những cá nhân của nhóm này sử dụng khả năng kinh doanh của mình để
tự tổ chức sản xuất, kinh doanh với mục đích nhận lợi nhuận và siêu lợi nhuận hoặc là chỉ để thoả mãn
những nhu cầu riêng của mình. Nhóm thứ hai, bao gồm số lượng nhiều hơn, - đó là nhóm những người làm
thuê, bán khả năng lao động của mình cho các nhà doanh nghiệp để sử dụng trong quá trình sản xuất với
mục đích nhận thu nhập để đảm bảo cuộc sống.
Vì những vai trò khác nhau của các nhóm dân cư đó, trong quá trình sản xuất họ được phân chia thành 2
cặp phạm trù độc lập. Với nhóm thứ 2, sức lao động thực tế chỉ được tính gồm những người lao động
làmthuê và những người thất nghiệp đang đi tìm kiếm việc làm trên cơ sở bán sức lao động của mình.
Trong nền kinh tế thị trường thì khái niệm “dân số tích cực kinh tế” rộng hơn khái niệm “sức lao động”,
nhưng lại hẹp hơn khái niệm “nguồn nhân lực”.
Trong lý thuyết kinh tế, sức lao động được hiểu như là một tập hợp những khả năng lao động bằng thể lực
và trí lực của con người, được sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần. Đại diện cho sức lao
động là con người. Sức lao động chỉ tồn tại thực sự trong cá nhân người lao động là lực lượng lao động chủ
yếu của xã hội. Sức lao động luôn có sẵn trong bất kỳ xã hội nào mà không phụ thuộc vào giai đoạn phát
triển, cũng như hình thái xã hội của xã hội đó. Tuy nhiên chỉ trong một trình độ phát triển lịch sử xã hội nhất
định thì khái niệm này mới đạt được ý nghĩa kinh tế cụ thể. Khả năng lao động - sức lao động - trở thành
hàng hóa. Điều này đánh dấu sự xuất hiện một chế độ xã hội mới, một phương thức sản xuất mới - phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản, những điều kiện mới đã được tạo lập và trở thành hiện thực
cho việc mua và bán sức lao động. Hay nói cách khác, trong nền kinh tế thị trường, sức lao động là một loại
hàng hóa, nó được mua, được bán, có giá cả, giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng loại hàng này có một loạt
những đặc biệt. Khi mua và bán giá trị của hàng hóa được thanh toán, còn giá trị sử dụng được trưng tập,
mặt hàng đó được chuyển thành sở hữu của người mua. Nhưng ở đây, người chủ sở hữu sức lao động vẫn
là chủ sở hữu sức lao động của mình, sức lao động không bị tách rời và không thể bị tách rời. Vì vậy có hai
loại ý kiến về vấn đề này. Một là, các nhà nghiên cứu theo lý thuyết kinh tế thị trường của C.Mác thì cho
rằng, trên thị trường lao động chỉ có mua và bán sức lao động. Hai là, các nhà kinh tế theo trường phái
“tổng hợp tân cổ điển hiện đại” đưa ra những khái niệm khác nhau về vấn đề này:
- Sức lao động không bán được, mà là bán địch vụ lao động;
- Sức lao động không bán được, mà được cho thuê trong điều kiện các bên cùng có lợi;
- Sức lao động không bán được, mà chỉ bán quyền sử dụng nó.
Nhưng điều quan trọng nhất ở đây là, đối tượng mua và bán không phải sức lao động, mà chính là lao
động. Nhưng lao động là một quá trình, và nó không thể là đối tượng của mua và bán. Lao động được
chuyển đến và trung tập về cho nguời mua, để từ đó chiếm hữu về mình những kết quả cụ thể của lao động.
ở đây còn thể hiện thêm một đặc biệt nữa của sức lao động. Giá trị những kết quả lao động, do sức lao
động tạo ra, sẽ phải lớn hơn giá trị sức lao động, còn nếu không thì sẽ không có ai quan tâm để mua nó.
C.Mác đã chỉ dẫn rằng, giá trị sử dụng của sức lao động chính là ở chỗ, nó có khả năng tạo ra giá trị thặng
dư và lợi nhuận từ nguồn vốn đầu tư. Vậy, khi nào và cần những điều kiện gì thì sức lao động sẽ chuyển
thành hàng hóa? Theo chúng tôi, cần 3 điều kiện:
- Người lao động bị mất công cụ để sản xuất và phương tiện tồn tại.
- Người lao động phải được tự do về mặt pháp lý, có khả năng hoàn toàn làm chủ sức lao động của mình.
- Trên thị trường có người nắm giữ tư liệu sản xuất, và đồng thời có khả năng mua sức lao động.
Trong những điều kiện đó khả năng hợp pháp duy nhất để người lao động cô thể tồn tại được là bán sức
lao động của mình cho người chủ tư liệu sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường tất cả những điều kiện này
đều có sẵn. Kết quả là trong xã hội hình thành một hệ thống lao động thuê mướn. .
Khái niệm “sức lao động” liên quan tới không chỉ một người, mà cả nguyên cộng đồng người lao động.
Cộng đồng đó khác hẳn với nguồn nhân lực và dân số tích cực kinh tế không chỉ về bản chất, mà cả về định lượng.
Sức lao động - đó chỉ là một phần của nguồn lao động, mà chính phần này được bán trong thị trường lao
động (hay còn gọi là lao động làm thuê), nếu xét về mặt định lượng thì ít hơn phần dân số tích cực kinh tế ở
các nước phát triển, phần lao động làm - thuê chiếm khoảng 80-85% dân số tích cực kinh tế, phần còn lại là
các nhà doanh .nghiệp, chủ ngân hàng, chủ trang trại và những người hoạt động lao động cá thể.
Cùng với sự phát triển' của Luật Lao động, người lao động là người chủ sở hữu sức lao động đã nhận được
sự đảm bảo về mặt pháp lý nhiều hơn trong quá trình đàm phán với người thuê lao động về điều kiện thuê
mướn. Ký kết hợp đồng thuê mướn cho phép người làm thuê được tiếp cận tư liệu sản xuất, sức lao động
được hoạt động, có nghĩa là quá trình lao động được bắt đầu. Thêm vào đó, người lao động hoàn toàn
không mất quyền sở hữu sức lao động của mình, bao gồm quyền nắm giữ, làm chủ và quyền sử dụng.
Theo các điều kiện của hợp đồng thì người lao động chỉ chuyển quyền sử dụng sức lao động của mình
trong thời gian mà quá trình lao động diễn ra.
Trong thế kỷ XVIII-XIX, người lao động làm thuê không được pháp luật bảo vệ nên phải làm việc 12- 14 giờ
trong một ngày, và quyền sở hữu sức lao động của mình cũng chỉ là hình thức. Thực tế, người lao động
phải làm việc hết sức mình trong suất thời gian lao động, về cơ bản sức lao động của anh ta bị người chủ
chiếm đoạt. Người lao động chỉ được hưởng một phần rất nhỏ thành quả lao động do mình làm ra (tương
đương bằng tiền) để tái sản xuất sức lao động của mình. Bước sang thế kỷ XX tình hình có nhiều thay đổi.
Do ảnh hưởng rộng khắp phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trên toàn thế giới, quyền lợi của
người làm thuê trong lĩnh vực lao động được mở rộng, ngày làmviệc giảm xuống còn 8 giờ (40-44 tiếng
trong một tuần). Đến cuối thế kỷ XX, ở nhiều nước công nghiệp phát triển, tuần làm việc chỉ còn 37 - 38 giờ;
nhà nước bắt đầu áp 1 dụng chế độ bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm rủi ro trong sản xuất, bảo hiểm y tế v.v…
Người lao động có nhiều thời gian rỗi để tái tạo khả năng lao động của mình. Trong những điều kiện đó sở
hữu sức lao động đã tìm được những đặc điểm thực sự. Người lao động thực tế chỉ chuyển quyền sử dụng
sức lao động của mình trong một thời gian xác định. Nhưng cũng từ đó, người sử dụng lao động bắt đầu
quan tâm tới hiệu quả sử dụng sức lao động, hiệu lực của hợp đồng cá nhân và thoả ước tập thể. Tiến bộ
khoa học kỹ thuật, mở rộng những khát vọng mới, ảnh hưởng của thời trang đòi hỏi các nhà doanh nghiệp
phải thường xuyên hoàn thiện sản xuất, tạo ra những mẫu mã sản phẩm mới, từ đó họ chú ý tới việc đưa ra
những yêu sách ngày càng tăng với sức lao động mà mình đã thuê mướn. Nhưng không phải tất cả mọi
người lao động đều có khả năng nắm bắt những kỹ thuật mới phức tạp để thoả mãn những đòi hỏi của nền
sản xuất hiện đại cũng như mong muốn ngày càng tăng của giới chủ. Vì vậy, người thuê lao động có
khuynh hướng sa thải một bộ phận sức lao động không phù hợp, hợp đồng lao động với người làm thuê
ngày càng được làm đơn giản hơn, trong thời hạn ngắn hơn. Tất cả những điều đó dẫn đến sự phân định
ranh giới rõ ràng hơn về quyền sở hữu sức lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động trong
quá trình lao động, mặc dù quyền này không được ấn định trong văn bản của hợp đồng. Người lao động
vẫn là người nắm giữ sức lao động của mình, còn quyền làm chủ từng phần và sử dụng nó được chuyển
cho người thuê lao động trong quá trình lao động.
Nhiều nhà kinh tế đương thời cho rằng, cả người thuê lao động và người lao động tham gia vào thị trường
như những bạn hàng bình đẳng, như những người sở hữu bình đẳng, người thuê lao động là người chủ tư
liệu sản xuất, còn người lao động là người chủ sức lao động. Nhưng trong thực tế bản chất vấn đề không
phải như vậy. Người lao động bắt buộc phải bán sức lao động của mình để khỏi bị chết đói, để nuôi sống
bản thân mình và gia đình mình, anh ta không thể sống mãi trong cảnh không có việc làm, có nghĩa là
không có phương tiện để mà sống, để mà tồn tại. Trên thị trường lao động, đối tượng để xem xét mua và
bán là chỗ làmviệc xác định, những điều kiện lao động kèm theo và tiền công được đặt ra, và cuối cùng là
xác định người nào vào chỗ làm việc đó, vấn đề sẽ được người thuê lao động quyết định. Khi đó người thuê
lao động luôn có thể không chấp nhận hoặc sa thải bất kỳ người công nhân nào mà anh ta cảm thấy không
có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy, người công nhân về mặt kinh tế luôn phải phụ
thuộc vào ông chủ, tức là không có sự bình đẳng nào ở đây cả.
Nhưng giữa sức lao động và lao động có mối liên hệ chặt chẽ và ràng buộc với nhau, liệu lao động có phải
là hàng hóa hay không Ngày nay có rất nhiều luận cứ cho rằng, lao động không phải là hàng hóa. C Mác
cho rằng, sức lao động được hiểu là tổng hợp toàn bộ thể lực và trí lực ở con người, nó nói lên khả năng để
có lao động, còn lao động là hoạt động có mục đích của con người, là tiêu dùng sức lao động trong quá
trình lao động. Hai khái niệm này khác nhau, nhưng có mối quan hệ với nhau. Vì lao động không thể trở
thành hiện thực, nếu không có sức lao động và muốn sức lao động được thực hiện, thì phải có lao động.
Lao động, đó là một quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần, cùng các loại dịch vụ. Quá trình này được
bắt đầu sau khi sự giao dịch trên thị trường lao động đã được ký kết, quan hệ thị trường kết thúc và quá
trình sản xuất được bắt đầu. Để trở thành hàng hóa thì đối tượng phải có sẵn trước khi bán, nhưng đối với
lao động thì lại không diễn ra như vậy. Khi bán thì hàng hóa sẽ chuyển từ người bán sang người mua. Với
lao động chúng ta cũng không thấy sự chuyển đổi này. Vì vậy, quan điểm cho rằng, trên thị trường lao động
được bán chính bản thân “lao động” là không chính xác hay nói cách khác là không có cơ sở khoa học.
Trong tuyên bố Philadelphia - một phần cấu thành của điều lệ ILO - cũng đã viết, “Hội nghị một lần nữa
khẳng định những nguyên tắc cơ bản, mà ILO đã dựa vào đó để ra tuyên bố rằng, lao động không phải là hàng hóa”.
Xuất phát từ quan điểm, đối tượng mua và bán trên thị trường lao động là “sức lao động”, vì vậy, nếu xét về
phương diện lý thuyết thì thị trường đó phải được gọi là “thị trường sức lao động”. Nhưng trên thực tế, trong
các văn bản chính thống của ILO, cũng như ở nhiều nước phát triển và ở Việt Nam thường được dùng tên
gọi “thị trường lao động”, do đó để thống nhất cách gọi, trong bài viết này cụm từ đó được dùng như là một
khái niệm đồng nhất với “thị trường sức lao động”
Còn một sự nhầm lẫn đáng tiếc giữa khái niệm “sức lao động” với “dân số tích cực kinh tê”Như chúng ta
đều biết dân số tích cực kinh tế bao gồm tất cả những người đang làm việc và những người thất nghiệp
đang tích cực đi tìm kiếm việc làm. Nhưng điều đó không thể đồng nhất với khái niệm sức lao động. Thành
phần của sức lao động không thể bao gồm cả giới chủ doanh nghiệp, chủ trang trại, chủ ngân hàng và
những đại gia v.v.. Nó được cấu thành chỉ có sức lao động làm thuê, mà được hiểu theo sự phân loại của
ILO và trong các văn bản của tổ chức này là gắn với người lao động. Những người tự tổ chức việc làm cho
bản thân mình và những người thất nghiệp cũng không thể đưa vào thành phần của sức lao động, bởi vì
người thất nghiệp là sức lao động tiềm năng và chỉ được chuyển thành sức lao động trong trường hợp được thuê, mướn.
C Mác đã đưa ra rất rõ ràng khái niệm hàng hóa - sức lao động. Theo quan điểm của ông, sức lao động
cũng như bất kỳ những thứ hàng hóa khác, nó có giá trị, giá trị sử dụng và giá cả. Giá trị sử dụng của hàng
hóa sức lao động được thể hiện ở chỗ nó có khả năng tạo ra giá trị thặng dư (lợi nhuận) cho người thuê nó.
Từ đó C.Mác rút ra kết luận quan trọng về sự bóc lột giai cấp công nhân qua chiếm đoạt giá trị thặng dư và
tồn tại những mâu thuẫn sâu sắc giữa người thuê lao động (nhà tư bản) và kẻ làm thuê (người lao động).
Sức lao động trong điều kiện kinh tế thị trường là hàng hóa. Chính bản thân sức lao động được mua và bán
trên thị trường lao động. Nhưng bản chất của thị trường lao động không được tổng hợp đến việc bán và
mua sức lao động. Thị trường lao động - đó là biểu hiện kinh tế, xã hội phức tạp. Tại đó hàng ngày có tới
hàng chục ngàn người lao động và thuê lao động (hoặc đại diện của họ) gặp nhau và tác động ảnh hưởng
lẫn nhau. Những quyết định của họ phụ thuộc không chỉ vào các yếu tố khách quan, mà còn rất nhiều yếu tố chủ quan.
Những yếu tố cơ bản của thị trường lao động là: cầu sức lao động; cung sức lao động; giá cả của sức lao
động (tiền lương); cạnh tranh trên thị trường lao động; cơ sở hạ tầng của thị trường lao động.
Thị trường lao động bao gồm những chủ thể sau: những người thuê lao động (người mua) và đại diện của
họ; những người làm thuê (người bán) và đại diện của họ; nhà nước và các đại diện của mình; các tổ chức môi giới trung gian.
Trong các nền kinh tế thị trường mà một phần đáng kể các xí nghiệp và các tổ chức là nhà nước (những xí
nghiệp và các tổ chức này thuộc sở hữu nhà nước), nhà nước trong trường hợp này tham gia như người
thuê lao động. Nhưng vấn đề quan trọng là nhà nước tham gia như một công cụ quan trọng để điều tiết thị
trường lao động, xác định luật chơi cho tất cả các chủ thể tham trên thị trường này. Từ đó chúng ta lật lại
khái niệm trên đây mà chúng tôi đã chỉ dẫn - thị trường lao động được hiểu như “thị trường thất nghiệp”, qui
mô của nó được xác định bởi số lượng người thất nghiệp và khối lượng chỗ làmviệc còn trống. Đó và sự
giải thích hạn hẹp, chưa đầy đủ về thị trường lao động và hoàn toàn không tương thích với hoạt động của
nó. Tất cả dân số tích cực kinh tế đều tham gia hoạt động trên thị trường lao động hoặc là trong vai trò của
người bán, hoặc trong vai trò của người mua sức lao động.
Tất cả những lao động làm thuê khi gặp bối cảnh thuận lợi đều sẵn sàng thay đổi chỗ làm việc. Ngược lại,
những người thuê lao động thì chỉ lựa chọn cho mình những người làm thuê xuất sắc trong số những người
đang làm việc, chứ không phải những người thất nghiệp.
Còn một khái niệm nữa mà chúng ta thỉnh thoảng vẫn gặp trên các phương tiện thông tin đại chúng, thậm
chí trên cả những ấn phẩm khoa học - đó là “thị trường nguồn nhân lực”. Các tác giả đó cho rằng, trong
quan hệ thị trường tham gia vào thị trường lao động không chỉ có thành phần dân số tích cực kinh tế, mà
còn cả nguồn dự trữ lao động - những sinh viên sắp tốt nghiệp các cơ sở đào tạo đại học, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề. Từ khái niệm này chúng ta suy ra rằng, một phần những người lao động nội trợ, phụ
giúp gia đình cũng phải tham gia vào thị trường lao động.
Vấn đề ở chỗ, phần lớn những người đang theo học trong các cơ sở đào tạo đại học, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề sẽ tham gia vào thị trường lao động khi họ được chuyển thành dân số tích cực kinh tế.
Trong điều kiện thị trường, cung cầu trên thị trường, giá cả của sức lao động từng lĩnh vực riêng biệt thực
sự ảnh hưởng tới người học và cơ sở đào tạo. Nhưng những người đang đi học không tham gia trực tiếp
trên thị trường, họ không phải là chủ thể của thị trường lao động. Bởi vậy khái niệm “thị trường nguồn nhân
lực” là quá rộng và không chính xác.
Một khái niệm nữa được dùng cũng đang gây tranh cãi về bản chất của thị trường lạo động “Đó là - thị
trường lao động bao gồm cả thị trường chỗ làm việc. Hay nói gọn lại, thị trường lao động - là sự thống nhất
biện chứng của hai thị trường: chỗ làm việc và sức lao động”. Chúng tôi cũng không thể đồng ý với quan
điểm này, bởi vì chỗ làm việc thì không thể bán được và cũng không có giá cả, đó chỉ là một phần không thể
tách rời của thị trường sức lao động, nếu không có nó thì người thuê lao động không thể thuê công nhân
được. Hay nói cách khác, sức lao động là chủ thể của việc làm, còn chỗ làm việc - là đối tượng của việc làm.
3. Những đặc trưng hoạt động của thị trường lao động
Trên cơ sở hoạt động của thị trường lao động, cũng giống như các yếu tố sản xuất khác, nó cũng có những
nguyên tắc làmcơ sở cho thị trường hàng hóa tiêu thụ và dịch vụ phân tích quan hệ cung - cầu là phương
pháp cơ bản để nghiên cứu hoạt động của thị trường này hay thị trường kia. Tuy nhiên, hoạt động của thị
trường lao động có nhiều đặc biệt, gắn với tính chất và những đặc thù của quá trình tái sản xuất sức lao động.
- Không tách rời quyền sở hữu hàng hóa - sức lao động khỏi sở hữu chủ. Trên thị trường lao động, người
mua chỉ có quyền sử dụng và làm chủ từng phần khả năng lao động - sức lao động, mà hoạt động trong
một khoảng thời gian nhất định. Nhưng người mua không đơn giản là mua sức lao động như những loại
hàng hóa khác, mà có quan hệ với người có những quyền hạn nhất đỉnh như một cá nhân tự do, mà anh ta
phải tuân thủ. Nếu vi phạm những quyền hạn đó người mua phải chịu trách nhiệm pháp lý và có thể có
những tổn thất về kinh tế. Người mua này, chính xác hơn, được gọi là người thuê lao động (người sử dụng lao động);
- Có trách nhiệm phối hợp hành động tương đối dài với nhau giữa người bán và người mua nếu so sánh với
thị trường hàng hóa, lương thực và thực phẩm. Điểm này đặt một dấu ấn trong mối quan hệ tương hỗ hai
bên và đóng một vai trò không ít quan trọng trong khả năng cạnh tranh của công ty. Người lao động, như
một cá thể, có thể tự kiểm soát chất lượng công việc của mình với những nỗ lực khác nhau, thể hiện mức
độ trung thực khác nhau với công ty đã thuê họ. Người thuê phải tính đến những yếu tố đó để quản lý sản
xuất, nghĩa là phải xây dựng một cơ chế đãi ngộ, kích thích, tạo động lực đối với người lao động một cách
phù hợp như: điều kiện làm việc, tiền lương, tiền thưởng và các phúc lợi xã hội khác;
- Tồn tại số lớn cấu trúc thể chế loại đặc biệt (hệ thống pháp luật phân nhánh, những chương trình kinh tế-
xã hội, dịch vụ việc làm các tổ chức công đoàn, liên hiệp hội các nhà doanh nghiệp, v.v..) sinh ra đặc thù
quan hệ giữa các chủ thể của thị trường lao động. Vì vậy, cần phải thể chế hóa thật chi tiết mọi hướng hoạt động khác nhau của họ;
- Chất lượng lao động ở từng người lao động có khác nhau theo giới tính, tuổi tác, thể lực, trí tuệ, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ công tác, động lực làm việc v.v… Vì vậy, mức độ cá thể hóa cao khi ký kết giao kèo,
gắn với trình độ chuyên môn khác nhau của sức lao động, sự đa dạng của công nghệ và tổ chức lao động,
nên việc đánh giá chất lượng lao động khi tuyển dụng, trả công phù hợp cho từng người gặp nhiều khó khăn và phức tạp;
- Nhiều điểm độc đáo trong trao đổi sức lao động so với trao đổi hàng hóa vật chất. Quá trình trao đổi sức
lao động so với trao đổi hàng hóa vật chất được bắt đầu trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa - quyền sử dụng
khả năng lao động được chuyển sang người mua theo những gì đã được ấn định trong hợp đồng hay thoả
ước tập thể. Quá trình trao đổi được tiếp tục trong sản xuất dưới hình thức trao đổi sức lao động đang hoạt
động, lao động thực tế thành lương danh nghĩa và kết thúc trong lĩnh vực lưu thông của cải vật chất, có
nghĩa là trên thị trường hàng hóa và dịch vụ được trao đổi lương danh nghĩa thành phương tiện sống. Việc
trao đổi hàng hóa vật chất được bắt đầu và kết thúc trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa vật chất. Từ đặc
điểm nói trên đưa đến 2 kết quả: thứ nhất, thị trường lao động liên kết xung quanh mình các thị trường khác
nhau; thứ hai, tiền công lao động thực tế được thực hiện tương ứng với kết quả cuối cùng, có nghĩa là với
giá sản phẩm mà lao động đó làm ra. Điểm này đặt cầu sức lao động phụ thuộc vào cầu hàng hóa và dịch vụ cuối cùng.
- Đối với người lao động, vấn đề quan trọng không chỉ là tiền công và tiền lương, mà còn là nội dung và điều
kiện lao động, bảo đảm duy trì chỗ làmviệc, tương lai công việc và triển vọng thăng tiến trong nghề nghiệp,
bầu không khí làmviệc trong tập thể và quan hệ giữa người lao động với người thuê lao động v.v….
4. Ý nghĩa của thị trường lao động
Trong nền kinh tế, mỗi một thị trường đều rất cần thiết, phải giải quyết những nhiệm vụ đặt ra trước nó và
có ý nghĩa quan trọng khác nhau. Thị trường lao động được coi như một đầu tầu để kéo theo sự chuyển
động của các thị trường khác. Thị trường lao động khác với các loại thị trường khác (như: hàng hóa, vốn,
nhà ở, bất động sản v.v..) ở chỗ nó phức tạp hơn, bao gồm hoạt động của những lực lượng và các công cụ
điều tiết mà phần lớn ở các thị trường khác không có. Vậy ý nghĩa của thị trường lao động trong đời sống xã hội ở chỗ nào?
Trước hết, thị trường lao động đảm bảo việc làm cho dân số tích cực kinh tế, kết nối họ vào lĩnh vực sản
xuất và dịch vụ, tạo khả năng cho họ nhận được những thu nhập thiết yếu để tái sản xuất sức lao động của
chính bản thân mình, cũng như nuôi sống gia đình mình. Thị trường lao động dễ dàng chuyển đổi người lao
động sang chỗ làm việc thích hợp hơn với họ, nơi mà thành quả lao động của họ có năng suất hơn và có cơ
hội nhận được thu nhập cao hơn.
Thông qua thị trường lao động các công ty, xí nghiệp được trang bị đồng bộ sức lao động cần thiết theo khối
lượng đặt ra và chất lượng đòi hỏi. Dĩ nhiên, không phải luôn luôn trong mỗi một khu vực đều có sẵn lực
lượng lao động cần thiết. Nhưng chính thị trường lao động sẽ cung cấp đầy đủ những thông tin về ngành
nghề nào đang cần, nơi nào đang dư thừa sức lao động, những người đang đi tìm kiếm việc làm cần phải
trang bị và bồi bổ những chuyên môn nghiệp vụ gì, phải mở rộng kiến thức và kỹnăng theo hướng nào để
có thể nhận được việc làm theo mong muốn. Đó là sự tiếp cận không đơn giản đến gần sự cân đối cung và
cầu sức lao động. Cụ thể là sự cân đối không phải là chung chung mà là theo nghề nghiệp và chuyên môn.
Từ đó cho chúng ta thấy rằng, thị trường lao động là nguồn thông tin rất quan trọng và nó quan hệ chặt chẽ
với tất cả các thị trường. Thông tin trên thị trường lao động đem lại cơ sở tư duy lớn cho cả người thuê lao
động cũng như người lan động để xây dựng kế hoạch hoạt động trong tương lai của họ. Người lao động
biết rất rõ rằng, giới chủ có đòi hỏi ngày càng cao với người làm thuê trên thị trường lao động. Như chúng ta
thấy, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, cùng với việc hình thành và phát triển thị trường lao động ở
Việt Nam cũng đang diễn ra sự đòi hỏi ngày càng tăng của người thuê lao động vời trình độ đào tạo nghề
nghiệp, chất lượng, cũng như thể lực của sức lao động.
Cạnh tranh giữa những người lao động sẽ thúc đẩy mở rộng vùng thợ chuyên nghiệp làm thuê, nâng cao
chuyên môn và khả năng tổng hợp của họ. Trong thực tế gần hai mươi năm cải cách ở Việt Nam vừa qua
cho chúng ta thấy rằng, người lao động có tay nghề cao, có óc sáng tạo, năng động, biết thích ứng nhanh
với bối cảnh mới thì sẽ không bao giờ thiếu việc làm. Mặt khác, sự cạnh tranh của các ông chủ trên thị
trường lao động sẽ bắt buộc họ không chỉ duy trì mức lương đã đặt ra, mà còn tạo ra những môi trường làm
việc thuận lợi, thể hiện sự quan tâm nhất định về thoả mãn những nhu cầu cần thiết và đảm bảo những
quan hệ qua lại bình thường trong tập thể lao động giữa những người lao động, cũng như giữa lãnh đạo và nhân viên.
Khi ký kết hợp đồng lao động bằng miệng hoặc trên văn bản giấy tờ giữa người thuê lao động và người lao
động, vấn đề phải được xem xét không chỉ thoả thuận về mức lương và thời gian làm việc, mà còn cả chế
độ nghỉ phép, bệnh tật ốm đau và cả những bảo hiểm xã hội cùng với những ưu đãi khác.
Thị trường lao động đảm bảo việc phân chia và sắp xếp lại dân số tích cực kinh tế trong trường hợp cải
cách cấu trúc nền kinh tế ngày nay ở Việt Nam, vấn đề này đặc biệt quan trọng và không kém phần khó
khăn khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, các xí nghiệp chịu sự sắp xếp lại theo nhiều hướng khác nhau:
sáp nhập, giải thể, liên kết, nên doanh, cổ phần hóa, cho thuê hoặc bán doanh nghiệp đã làm cho số người
mất việc làm trong các xí nghiệp quốc doanh lên tới hàng triệu người. Bên cạnh đó sự cho phép hình thành
và phát triển đa dạng các loại hình sở hữu, nhiều xí nghiệp mới ra đời đã giải quyết hàng chục ngàn chỗ
làm việc mới cho người lao động và cả những người dôi dư từ khu vực nhà nước trong nhiều năm vừa qua.
Tỷ trọng lao động trong các thành phần kinh tế, các ngành nghề, khu vực dân cư dần dần được thay đổi
theo cơ cấu ngày càng hợp lý, uyển chuyển, thích ứng và phù hợp vời cấu trúc mới của nền kinh tế.
Thị trường lao động làm tăng tính cơ động của sức lao động giữa các xí nghiệp trong một ngành, giữa các
ngành và các khu vực với nhau. Trong thời kỳ đầu của cai cách kinh tế ở Việt Nam, dòng chuyển động này
vẫn chưa mang tính cơ động cao vì hàng loạt những nguyên nhân (như: tính ỷ lạivà trông chờ vào sự sắp
xếp công việc của Nhà nước là thói quen đã ăn sâu vào tiềm thức của cả thế hệ người lao động từ thời kinh
tế bao cấp, thói quen thích ứng với nơi đã sống thường xuyên, sự gắn bó với công việc, gánh nặng gia đình
cùng việc học hành của con cái, những thủ tục hành chính nhiêu khê như: chế độ hộ khẩu, tạm trú, tạm
vắng, vấn đề nhà ở v.v.). Nhưng đến nay đã qua gần 20 năm đổi mới, Nhà nước đã có nhiều thay đổi trong
chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô, cải cách từng bước các thủ tục hành chính cũng như hoàn thiện dần cơ
sở hạ tầng của thị trường lao động thì tính cơ động của sức lao động Việt Nam cũng đang dần dần có nhiều
chuyển biến tích cực, đặc biệt là trong giới trẻ. .
Tóm lại, thị trường lao động điều tiết dòng chuyển sức lao động đang được hình thành trên thị trường đi
theo 4 hướng cơ bản sau: Thứ nhất, chuyển những người làm thuê bị mất việc vào hàng ngũ người thất
nghiệp. Thứ hai, sắp xếp những người thất nghiệp ở xí nghiệp hoặc các công sở và chuyển họ vào đội ngũ
người lao động. Thứ ba, bố trí về hưu hoặc giảm việc tìm kiếm công việc, có nghĩa là chuyển họ từ dân số
tích cực kinh tế vào dân số không tích cực kinh tế. Thứ tư, tìm kiếm và sắp xếp công việc cho những người
mới tất nghiệp các trường đào tạo, cũng như những người trước đây không làm việc và chưa bao giờ tìm
kiếm việc làm, có nghĩa là chuyển họ từ dân số không tích cực kinh tế vào dân số tích cực kinh tế.
Cùng với việc hoạt động tương hỗ để giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội quan trọng khác, thì thị trường
lao động cũng đem đến những hậu quả tiêu cực: một là, tăng sự phân lập về lương và thu nhập của người
lao động, làm giảm tỷ lệ lương trong thu nhập, tăng bất công là nguyên nhân sinh ra đói nghèo. Thị trường
lao động Việt Nam đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, vì vậy nó không thể tránh khỏi bị những
ảnh hưởng trực tiếp từ kết quả cải cách toàn diện nền kinh tế trong những năm qua. Theo kết quả điều tra
vào năm 1998, ở Hà Nội có tới 65% số công nhân có mức thu nhập từ 144 ngàn đồng đến 350 ngàn
đồng/người/tháng; các con số tương ứng ở Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh và Thái Nguyên là 10,18%, 22,68%
và 92,9%; sự chênh lệch về thu nhập giữa 20% người giầu nhất và nghèo nhất là 11,26 lần, hệ số này năm
2001 là hơn 13 lần. Hai là, thị trường lao động làm tổn hại tới tinh thần đoàn kết, nhất trí của người lao
động. Cạnh tranh giữa những người lao động dẫn đến tách rời ý kiến, cá thể hóa quyền lợi, làm yếu đi sự
đồng nhất quan điểm trong đàm phán với người thuê lao động.
5. Thị trường lao động ở Việt Nam và những đặc điểm của nó trong giai đoạn hiện nay
Hình thành thị trường lao động ở Việt Nam không thể diễn ra trong chốc lát, bởi vì chúng ta đang chuyển đổi
từ hệ thống tổ chức lao động tập trung sang thị trường, do vậy phải cần một thời gian dài để tạo lập những
bản tính của nền kinh tế thị trường tổng hợp. Xây dựng thị trường lao động tự do là yếu tố quan trọng nhất
cho việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, đồng thời cũng là điều kiện để tăng trưởng có hiệu quả của
nền kinh tế đó. Tuy nhiên, thị trường lao động Việt Nam mới chỉ đạt được những bước đi ban đầu trên con
đường giải phóng khỏi những tồn đọng từ hệ thống kinh tế mệnh lệnh hành chính trước đây.
Theo chúng tôi thì ở Việt Nam quan điểm có tính nguyên tắc của chính sách phát triến thị trường lao động là
phải giữ nguyên sự duy trì đầy đủ vai trò lớn lao của Nhà nước đối với nhân dân trong vấn đề điều tiết việc
làm. Tuy nhiên, điều tiết của Nhà nước không phải là sử dụng để trấn áp cơ chế tự điều chỉnh của thị
trường. Điểm khác biệt của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là định hướng vào việc làm có hiệu suất
cao dựa trên cơ sở tổng hợp những kết quả của nền kinh tế và xã hội. Trong nền kinh tế đó, việc đầu tư lớn
vào con người được thực sự quan tâm để đảm bảo phát huy hết tài năng của họ và hướng tới một cuộc
sống đầy đủ, ấm no và hạnh phúc. Đảm bảo việc làm có hiệu suất cao chỉ có thể đạt được trên cơ sở kết
hợp chặt chẽ những hoạt động tích cực của các cơ quan quản lý nhà nước với sự tự điều tiết của thị
trường. Điều kiện quan trọng nhất của việc thực hiện chính sách này là phải tuân theo hàng loạt những
nguyên tác như: phát triển đa dạng các loại hình sở hữu và hoạt động kinh doanh với mục đích mở rộng
những khả năng lựa chọn các hnh vực bổ sung lao động; không được phép cưỡng bức lao động và bất kỳ
hình thức phân biệt đối xử nào - theo giới, độ tuổi, dân tộc v.v… ; tự do pháp lý và kinh tế đối với người lao
động và người thuê lao động khi thuê mướn và sa thải; tự do di chuyển lao động và vốn; phát triển hệ thống
điều tiết các quan hệ lao động, đặc biệt khi giải quyết những tranh chấp lao động tập thể và cá nhân. Kết
hợp những nguyên tắc này có nghĩa là chuyển sang một mô hình việc làmmới dựa trên cơ sở tổng hợp
những nguyên tắc điều tiết của thị trường và sự tham gia tích cực của Nhà nước trong việc ấn định những
nguyên tắc hoạt động cho thị trường lao động, trong đó có lĩnh vực tư doanh. Chính sách việc làmphải đưa
vào và phối hợp chặt chẽ với quan niệm chung của cải cách kinh tế, phù hợp với những nguyên tắc chùng
và chiến lược thực hiện nó.
Tuy nhiên, sự liên kết phối hợp cần thiết giữa chính sách việc làm đã được chọn cho mô hình thị trường lao
động với khái niệm đổi mới toàn diện ở Việt Nam đến nay vẫn chưa được hình thành, thiếu hẳn quan điểm
thống nhất giữa mục đích trước mắt và lâu dài trong việc quản lý các quá trình giải quyết việc làm. Trong
tiến trình cải cách đồng bộ nền kinh tế phải hình thành không chậm chạp khái niệm đó, nhưng đáng tiếc
rằng, hiện tại chúng ta môi chỉ quan tâm đến hậu quả, chứ không phải nguyên nhân xuất hiện thất nghiệp. ở
nước ta vấn đề thất nghiệp chỉ được xem xét từ một phía - đó là từ người lao động. Trong khi đó, ở các
nước phát triển, dịch vụ việc làmđược trang trải tài chính tới hơn 50% từ ngân quỹ quốc gia: Theo qui định
của Bộ luật Lao động Việt Nam, tất cả các xí nghiệp, công sở, công ty không phân biệt loại hình sở hữu đều
phải chuyển vào nguồn vốn bảo hiểm xã hội một tỷ lệ phần trăm xác định được trích từ Quỹ lương hưu
(20% trong đó: người thuê lao động 15%, người lao động 5%). Nhưng, trong thực tế vấn đề thực hiện luôn
luôn không kịp thời hoặc là hoàn toàn không được thực hiện, và mục đích sử dụng các nguồn vốn này cũng
không rõ ràng. Bên cạnh đó, trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam vẫn còn áp dụng những biện pháp hành
chính cứng nhắc trong hnh vực giải quyết việc làm. Chính sách này phần lớn cản trở việc thực hiện cải cách
cấu trúc nền kinh tế kìm hãm công cuộc sắp xếp lại các xí nghiệp nhà nước, gây nhiều khó khăn cho việc
hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Thực trạng này cần phải xoá bỏ triệt để khi vận dụng những chính sách
cải cách kinh tế của Nhà nước trong tương lai và lựa chọn những giải pháp tối ưu để công việc thực hiện có hiệu quả.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý lao động và việc làm của Việt Nam vẫn chưa được chuẩn bị chu đáo cả
về mặt tổ chức và mặt kinh tế để thích ứng năng động với việc đào tạo lại số lượng lớn những người đang
lao động, cùng những người thất nghiệp thuộc các ngành nghề và trình độ chuyên môn khác nhau có tính
toán tới những đòi hỏi ngày càng đa dạng của người thuê lao động đối với lao động làm thuê. Mất cân đối
của thị trường lao động khu vực sẽ kéo theo việc giảm khối lượng đào tạo chuyên gia và công nhân lành
nghề, giảm cả khối lượng và chất lượng đào tạo công nhân trực tiếp sản xuất. Từ đó sẽ dẫn tới mất cân đối
nghiêm trọng giữa cung và cầu, sẽ đi kèm với thất nghiệp thường xuyên. Khi đó tăng việc chuyển khoản
của các xí nghiệp vào nguồn vốn bảo hiểm xã hội sẽ không đem lại hiệu quả cho vấn đề đào tạo lại bởi vì
nguồn vốn này thậm chí sẽ không đủ chi trả trợ cấp. Việc định hướng vào sự giúp đỡ tài chính của các tổ
chức thế giới sẽ đặt công cuộc cải cách kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào các hợp đồng kinh tế đối ngoại,
điều đó rất nguy hiểm trong tình thế hiện nay. Sự thiếu hụt ngân quỹ của Việt Nam lại càng làm khó khăn
thêm việc áp dụng những biện pháp cần thiết để hỗ trợ cho người thất nghiệp (như: trợ cấp thất nghiệp,
phát triển các trung tâm đào tạo lại, những công việc xã hội và việc làm phụ cho một nhóm dân cư). Tiềm
năng của các cơ quan quản lý lao động và việc làm trong lĩnh vực cung ứng sản xuất, kỹ thuật, tổ chức hiệu
quả việc làm cho dân cư, mở rộng khả năng cấp phép cho các trung tâm giới thiệu việc làm ở nước ta hiện
nay còn bị giới hạn rất nhiều.
Chính sách giải quyết việc làmvà phát triển thị trường lao động không phải công việc của riêng một bộ, một
ngành, nó chỉ đem lại hiệu quả khi những chính sách ngân quỹ, chương trình chống lạmphát và hệ thống
giáo dục, đào tạo cùng đồng bộ hoạt động có hiệu quả toàn xã hội và từng thành viên của cộng đồng phải
cùng tham gia vào giải quyết việc làm. ở đây bao gồm Nhà nước mà đại diện là các cơ quan chính quyền
hành pháp và lập pháp, từng cá nhân có mong muốn được đào tạo nghề nghiệp và chính bản thân người
thuê mướn lao động. Quá trình cải cách kinh tế xã hội sẽ không thể thực hiện có hiệu quả nếu thiếu việc
soạn thảo những chính sách đồng bộ về lao động và việc thực hiện nó, trên cơ sở thể hiện quyền lợi chính
đáng của nhân dân. Tuy nhiên, cùng với việc tăng khối lượng và sự phức tạp những công việc cần giải
quyết, tất cả những bất cập giữa hiệu quả lao động và sự đảm bảo việc làm ngày càng trở lên rõ ràng và
bức xúc, và cũng là động lực thúc đẩy sự quan tâm tới hiệu quả công việc và những đảm bảo xã hội.
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam, có thể rút ra một số đặc điểm chủ yếu sau:
- Hệ thống quản lý lao động và việc làm ở Việt Nam được hình thành trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, đang ớ trong giai đoạn biến đổi sâu sắc;
- Bộ luật Lao động và các văn bản pháp lý khác thể hiện vai trò can thiệp tích cực của Nhà nước để đảm
bảo cho việc phối hợp hoạt động của các loại thị trường nói chung và hiệu quả hoạt động của thị trường lao
động nói riêng chưa được hoàn thiện hoặc hoàn toàn chưa có. Cơ sở hạ tầng xã hội và cơ sở hạ tầng của
thị trường lao động đang được hình thành ở Việt Nam vẫn chưa tương thích với cơ chế thị trường. Thị
trường lao động vừa mới được hình thành và đang hoạt động trong điều kiện kém phát triển của thể chế
điều tiết các quan hệ lao động xã hội chỉ mới vừa được sinh ra, và đến giờ vẫn chưa được bao trùm hết tất cả các cấp;
- Những bất cập ngày càng lớn giữa qui mô chung và cấu trúc “cung-cầu” sức lao động trên thị trường lao
động. Hiện nay ở Việt Nam cung về sức lao động đang vượt quá cầu và sẽ còn tiếp tục vượt trong tương
lai, điều đó tạo ra một áp lực rất lớn về việc làm cho dân cư. Hàng năm cung sức lao động tăng từ 3,2% đến
3,5%, như vậy mỗi năm chúng ta sẽ có thêm khoảng 1,3 đến 1,5 triệu người đến độ tuổi lao động. Đó là hậu
quả của việc bùng nổ dân số trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, phần cơ bản của lực lượng lao động
mới lại không có chuyên môn đầy đủ, vì vậy vấn đề đào tạo và đào tạo lại trở lên rất cấp bách, nó mang tính
chiến lược và là vấn đề mấu chốt để tăng chất lượng và khả năng cạnh tranh của sức lao động trên thị trường lao động;
- Xoá bỏ sự mất cân đối, bất cập trong cơ cấu lao động cũ đã tồn tại từ nền kinh tế bao cấp xây dựng một
cấu trúc lao động mới cho phù hợp với cơ cấu nền kinh tế mới diễn ra rất chậm chạp. Mâu thuẫn giữa lao
động và việc làm ngày càng gay gắt khi chúng ta triệt để tiến hành cải cách, cùng với việc điều chỉnh cơ cấu
kinh tế phải tổ chức lại lao động trên phạm vi toàn xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động cho phù hợp với cơ
cấu mới của nền kinh tế tất yếu dẫn đến hiện tượng và xu thế đẩy lao động tách ra khỏi việc làm, và làm
cho một bộ phận lớn lao động trở nên dư thừa, trước hết là trong khu vực quốc doanh. Trong quá trình dịch
chuyển này chúng ta vừa thiếu đội ngũ lao động có kỹ thuật, công nhân lành nghề có khả năng làm việc
trong lĩnh vực công nghệ cao, các khu chế xuất và những xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, lại vừa thừa
đội ngũ lao động phổ thông không có tay nghề chuyên môn. Mặc dù cải cách nền kinh tế đã diễn ra gần 20
năm, Việt Nam đã có những chuyển biến rất tích cực về cơ cấu kinh tế (tính theo GDP), nó cơ cấu lao động
theo .ngành kinh tế gần như không có chuyển biến gì đáng kể hoặc diễn ra rất chậm chạp. Bởi vì, thứ nhất,
Nhà nước chưa có một chiến lược và cơ cấu đầu tư có hiệu quả; thứ hai, sự mất cân đối giữa các nguồn
lực (khan hiếm về vốn, sử đụng và quản lý đất đai kém hiệu quả, trình độ thấp kém của nguồn nhân lực...);
thứ ba, chưa có định hướng phát triển công nghiệp một cách hợp lý, đầu tư thiên về sử dụng nhiều vốn hơn
là sử dụng nhiều lao động;
- Mâu thuẫn giữa nhu cầu giải quyết việc làm rất lớn với trình độ tổ chức quản lý về mặt nhà nước trong lĩnh
vực việc làm chưa phù hợp với cơ chế mới, với hệ thống sự nghiệp giải quyết việc làmcòn phôi thai, non
yếu chưa đáp ứng được yêu cầu về giải quyết việc làm trong cơ chế thị trường;
Hệ thống định hướng nghề nghiệp, đào tạo và đào tạo lại không theo kịp với những đòi hỏi mới của sự phát
triển kinh tế xã hội, không tương thích với quá trình cải tổ khối lượng và chất lượng chuyên gia đã đào tạo,
đặc biệt đối với các ngành kinh tế như dịch vụ, du lịch, sản xuất công nghệ cao, sản xuất hàng hóa xuất
khẩu v.v. . . Theo đó, thị trường lao động được hình thành trong bối cảnh bất lợi vì vẫn duy trì tính tự phát
đào tạo công nhân lành nghề và chuyên gia cho nền kinh tế quốc dân, lỏng lẻo trong việc ràng buộc khối
lượng và nghề nghiệp của người được đào tạo với cấu trúc cầu sức lao động, phối hợp không ăn khớp
công việc đào tạo với dịch vụ mối giới việc làm ở khu vực. Ngoài ra, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất ổn và
không phối hợp chặt chẽ ở nhiều khu vực lãnh thổ trong các cấu trúc trợ giúp việc làm cho khu vực ngoài
quốc doanh, và đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chính quyền địa phương;
- Hệ thống dịch vụ giới thiệu việc làm (như các công ty nghiên cứu tâm lý, tư vấn, giới thiệu, thông tin… ) chỉ
mới được hình thành và phân bổ chưa rộng khắp cả nước. Hệ thống này chưa có một cấu trúc tổ chức
thành lập rõ ràng, chưa được đảm bảo trang bị vật chất cần thiết và đội ngũ cán bộ không đồng bộ. Đặc
biệt, cho đến nay ở Việt Nam chưa hình thành một hệ thống thông tin về thị trường lao động một cách đầy
đủ và đồng bộ, được cập nhật theo thời gian và có các dự báo làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đánh giá các
đặc trưng và biến động của quan hệ cung-cầu sức lao động để phục vụ cho công tác kế hoạch hóa đào tạo
chung cho toàn bộ hệ thống cũng như từng cơ sở đào tạo) nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nhân
lực của thị trường lao động. Tất cả những điều đó không đáp ứng đầy đủ được cầu về sức lao động và về
chỗ làm. Đối với Việt Nam, tính cơ động của sức lao động theo nghề nghiệp và lãnh thổ còn rất hạn chế,
phần lớn cư dân chưa sẵn sàng cho cuộc sống và lao động trong điều kiện thị trường (người lao động chưa
sẵn sàng làm việc ở những chỗ bấp bênh, chưa chủ động tìm kiếm cho mình việc làm trong điều kiện khan hiếm) ;
= Cấu trúc nguồn nhân lực Việt Nam phân bổ rất bất hợp lý, có tới gần 80% lực lượng lao động ở nông
thôn, mà ở đây việc làm không đầy đủ và thất nghiệp có thể lên tới 30%. Những lao động này tự do đi đến
các thành phố và những khu công nghiệp mới với mục đích tìm kiếm việc làm, điều đó còn làm tăng hơn
nữa về cung sức lao động. Nông dân là những người lao động không có chuyên môn, vì vậy phải luôn sẵn
sàng chấp nhận những việc làm có thu nhập thấp, do vậy lại càng làm tăng thêm sự cạnh tranh tiêu cực
trên thị trường lao động;
- Những bất cập trong chính sách và cấu trúc đầu tư, cùng với việc soạn thảo chiến lược đổi mới công nghệ
không đầy đủ, và sự chậm chạp dịch chuyển cấu trúc ngành kinh tế trong nền kinh tế đang chuyển đổi đã
kéo theo sư mất cân đối nghiêm trọng trong cấu trúc việc làm ở Việt Nam. Nhiều ngành (như công nghiệp
rừng, đánh bắt hải sản, du lịch và dịch vụ) có tiềm năng rất lớn trong việc tạo ra những chỗ làm việc mới,
nhưng họ không thể biến khả năng đó thành hiện thực được vì thiếu vốn, cơ sở hạ tầng yếu kém, kỹ thuật
và công nghệ lạc hậu v.v… Ngược lại, ở khu vực miền núi, đồng bằng sông Cửu Long lại rất thiếu hụt cán
bộ, nhưng việc di dân đến đó lại rất hạn chế. Đến nay Nhà nước vẫn chưa có một chính sách khuyến khích
thật hợp lý cho khu vực kinh tế gia đình, lĩnh vực phi sản xuất, các xí nghiệp ngoài quốc doanh, nơi có rất
nhiều lợi thế cho việc thu hút sức lao động. Những chính sách hỗ trợ việc làm hầu như không đến được với
các doanh nghiệp tư nhân mặc dù họ là nguồn giải quyết việc làm mới chủ yếu trong xã hội, kể cả việc thu
nhận một đội ngũ lao động thất nghiệp từ khu vực doanh nghiệp nhà nước;
- Cùng với quá trình hình thành và phát triển của thị trường lao động, các loại thị trường khác như: tư liệu
sản xuất, tài chính, bất động sản .v.v… cũng đã và đang hình thành nhưng chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, sự
nên kết giữa chúng với nhau còn yếu, nên chưa tạo ra được động lực để phát triển;
- Sự phân hóa thu nhập của các tầng lớp dân cư ngày càng tăng giữa các vùng lãnh thổ trên cả nước theo
các chỉ số phát triển kinh tế xã hội;
- Nhìn chung mức tiền công lao động rất thấp, sự lạc hậu giữa đồng lương thực tế của người lao động Việt
Nam so với mức tiền công lao động ở các nước trong khu vực ngày càng tăng. Mức lương trung bình hàng
tháng của người lao động Việt Nam khoảng từ 25-35 USD (tức là gần 1USD/ngày), trong khi đó ở Inđônêxia
khoảng 2 USD/ngày, Thái Lan hơn 6 USD/ngày (chứ chưa so sánh với những nước có nền kinh tế thị
trường phát triển cao). Điều đó ngay từ khởi đầu đã làm biến dạng những thành phần quan trọng nhất của
thị trường lao động là: cung và cầu. Hậu quả là giảm vai trò của cơ chế tự điều tiết, được dựa vào những
nguyên tắc giá trị hình thành tỷ lệ việc làm và cấu trúc chuyên môn nghiệp vụ, điều chỉnh và phân bố lạisức
lao động theo lĩnh vực hoạt động, ngành kinh tế, luân chuyển cán bộ giữa các xí nghiệp và theo vùng lãnh thổ;
- Cuối cùng, Công đoàn Việt Nam, người đại diện hợp pháp cho quyền lợi của người lao động, vẫn chưa
phát huy hết khả năng của mình để thích ứng được với những nguyên tắchoạt động trong điều kiện thị
trường. Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện được quá trình hình thành nền tảng pháp lý và tổ chức cho việc bảo
vệ quyền lợi của các doanh nghiệp trong nước, cũng như hoạt động tương hỗ của họ với guồng máy Nhà nước và Công đoàn.
Từ những đánh giá và kết luận trên đây chúng ta có thể nhận thấy rằng, thị trường lao động đang được
hình thành ở Việt Nam, hoạt động trong điều kiện kém phát triển của thể chế điều tiết các quan hệ lao động
xã hội chỉ mới vừa được sinh ra, và đến giờ vẫn chưa được bao trùm hết tất cả các cấp. Đó là điều cực kỳ
khó khăn khi soạn thảo những chính sách đồng bộ và thống nhất trong các vấn đềhình thành giá cả, tiền
lương, thu nhập, thuế khoá phù hợp với việc tính toán quyền lợi cho các chủ thể khác nhau của thị trường
lao động, thực sự giảm vai trò của công cụ điều tiết và tự điều tiết khi hình thành cơ chế phân chia và phân
chia lại sức lao động dựa trên cơ sở những quan hệ giá trị./.
Phạm Đức Chính - Nguồn: Sưu tầm