

Preview text:
2.1 Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần
Căn cứ vào hình thức huy động vốn, thị trường tài chính chia làm hai loại: Thị trường
nợ và thị trường vốn cổ phần. Thị trường nợ
Một công ty hoặc một cá nhân có thể kêu gọi nguồn vốn trên thị trường tài chính theo
hai cách. Phương thức phổ biến nhất là phát hành một công cụ nợ, như một trái phiếu
hoặc một món vay thế chấp. Như vậy, thị trường công cụ nợ là thị trường phát hành,
mua bán các chứng khoán nợ.
Thực chất, công cụ nợ (trái phiếu, tín phiếu…) là một thỏa thuận theo hợp đồng và
người đi vay có nghĩa vụ trả cho người nắm giữ công cụ đó một số tiền nhất định
(gồm tiền gốc và khoản lãi) vào thời gian đáo hạn.
Công cụ nợ được coi là ngắn hạn nếu thời gian đáo hạn của nó dưới một năm, còn nếu
từ một năm trở lên thì được gọi là công cụ nợ trung và dài hạn.
Quan hệ vay mượn trên các công cụ nợ thường ấn định trước thời hạn và lãi suất cố
định vì người sở hữu cam kết trả những khoản tiền cố định trong tương lai. Tuy nhiên,
những người sở hữu công cụ nợ không có quyền tham gia vào các hoạt động biểu
quyết, sử dụng vốn của bên vay.
Thị trường vốn cổ phần
Thị trường vốn cổ phần là thị trường phát hành, mua bán các chứng khoán vốn. Ở đó,
người đi vay có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu. Khác với việc phát
hành một công cụ nợ, một công ty chỉ được quyền phát hành cổ phiếu khi nó là một công ty cổ phần.
Cổ phiếu được coi là loại chứng khoán xác nhận việc người nắm giữ nó (cổ đông) góp
vốn vào các doanh nghiệp cổ phần và được chia cổ tức từ thu nhập ròng của công ty
(sau khi trừ chi phí và thuế) theo số lượng cổ phần mà họ nắm giữ.Chính vì vậy mà
giá trị cổ tức không ổn định như người giữ công cụ nợ nhưng cổ tức có thể cao hoặc
thấp hơn lãi trái phiếu, vì nó tuy thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Cổ phiếu được coi là loại chứng khoán dài hạn do không có ngày đáo hạn, nó sẽ tồn
tại cho đến khi doanh nghiệp hết thời hạn hoạt động hoặc rơi vào tình trạng phá sản.
Ngoài ra, sở hữu cổ phiếu có nghĩa là sở hữu một phần của công ty và do đó người
nắm giữ cổ phần có quyền biểu quyết về các vấn đề quản trị điều hành doanh nghiệp
và bầu các giám đốc của công ty.
Việc sở hữu cổ phiếu có bất lợi là tập đoàn sẽ thanh toán cho tất cả các chủ nợ của
mình trước khi trả cho các chủ sở hữu vốn chủ sở hữu. Tức là, người giữ chứng
khoán nợ được ưu tiên thanh toán nợ trước. Lợi thế của việc nắm giữ cổ phiếu là các
chủ sở hữu vốn cổ phần được hưởng lợi trực tiếp từ bất kỳ sự gia tăng nào về khả
năng sinh lời hoặc giá trị tài sản của công ty bởi vì cổ phần trao quyền sở hữu cho chủ sở hữu vốn cổ phần.
Document Outline
- 2.1 Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần
- Thị trường nợ
- Thị trường vốn cổ phần