










Preview text:
Thơ Đỗ Phủ - j dk cnd djcn
Lịch sử văn minh thế giới (Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh)
BINH XA HÀNH
Xa lân lân,
Túng hữu kiện phụ bả sừ lê,
Mã tiêu tiêu,
Hoà sinh lũng mẫu vô đông tê.
Hành nhân cung tiễn các tại yêu.
Huống phục Tần binh nại khổ chiến,
Gia nương thê tử tẩu tương tống,
Bị khu bất dị khuyển dữ kê!
Trần ai bất kiến Hàm Dương kiều.
Trưởng giả tuy hữu vấn,
Khiên y đốn túc lan đạo khốc,
Dịch phu cảm thân hận!
Khốc thanh trực thướng can vân tiêu.
Thả như kim niên đông,
Đạo bàng quá giả vấn hành nhân,
Vị hưu Quan Tây tốt.
Hành nhân đãn vân: điểm hành tần.
Huyện quan cấp sách tô,
Hoặc tòng thập ngũ bắc phòng Hà,
Tô thuế tòng hà xuất?
Tiện chí tứ thập tây doanh điền.
Tín tri sinh nam ác,
Khứ thời lý chính dữ khoả đầu,
Phản thị sinh nữ hảo.
Quy lai đầu bạch hoàn thú biên.
Sinh nữ do đắc giá tị lân,
Biên đình lưu huyết thành hải thuỷ,
Sinh nam mai một tuỳ bách thảo.
Vũ Hoàng khai biên ý vị dĩ.
Quân bất kiến Thanh Hải đầu,
Quân bất văn: Hán gia Sơn Đông nhị
Cổ lai bạch cốt vô nhân thu?
bách châu,
Tân quỷ phiền oan, cựu quỷ khốc,
Thiên thôn vạn lạc sinh kinh kỷ?
Thiên âm vũ thấp, thanh thu thu. Dịch nghĩa
Xe chạy ầm ầm
Ngựa hý vang
Người ra đi cung tiễn đều đeo bên lưng
Cha mẹ vợ con đi đưa tiễn
Bụi tung mù mịt chẳng thấy cầu Hàm Dương
Níu áo, giậm chân, khóc lóc đầy đường
Tiếng khóc than vang lên đến tầng mây cao
Người đi đường qua đó hỏi kẻ ra đi
Kẻ ra đi đáp rằng luôn có việc bắt lính
Có người mới mười lăm tuổi đã đi phòng giữ Hoàng Hà phía bắc
Ðến bốn mươi tuổi thì đổi qua khai thác ruộng đất ở phía tây
Khi ra đi viên lý trưởng cho chiếc khăn bịt đầu
Khi trở về đầu đã bạc lại đi trấn thủ biên cương
Ở biên thuỳ máu chảy thành sông thành biển
Ý muốn mở mang bờ cõi của Vũ Hoàng vẫn chưa ngưng
Ông không nghe sao: Mé Sơn Đông nhà Hán gồm hai trăm châu
Ngàn thôn vạn xóm gai góc mọc đầy
Dầu có những người đàn bà khoẻ mạnh vác nổi cây bừa
Thì lúa mọc bừa bãi trên đồng ruộng cũng chẳng có được gì
Quân Tần lại đánh gấp ghê
Bị lùa đi chẳng khác gì gà chó
Ngài dù có hỏi đến
Nhưng kẻ dịch phu này đâu dám tỏ hết nỗi oán hận
Còn như mùa đông năm nay
Lính ở Quan Tây chưa được nghỉ
Quan huyện hối thúc nộp thuế
Thuế tô biết lấy đâu ra
Thế mới biết sinh con trai là xấu
Ngược lại, sinh con gái mới tốt
Sinh con gái còn được gả chồng gần
Sinh con trai chỉ tổ vùi thây trong đám cỏ
Ngài thấy chăng: ở miền Thanh Hải
Xưa đến giờ đống xương trắng không ai thu dọn
Ma mới oán than, ma cũ khóc lóc
Trời đất âm u, mưa rơi rả rích, tiếng than rên rỉ
LỆ NHÂN HÀNH
Tam nguyệt tam nhật thiên khí tân,
Thuỷ tinh chi bàn hành tố lân.
Trường An thuỷ biên đa lệ nhân.
Tê trợ yêm ứ cửu vi hạ,
Thái nùng ý viễn thục thả chân.
Loan đao lũ thiết không phân luân.
Cơ lý tế nhị, cốt nhục quân.
Hoàng môn phi khống bất động trần,
Tú la y thường chiếu mộ xuân,
Ngự trù lạc dịch tống bát trân.
Xúc kim khổng tước, ngân kỳ lân.
Tiêu quản ai ngâm cảm quỷ thần.
Đầu thượng hà sở hữu ?
Tân tòng tạp đạp thực yếu tân,
Thuý vi hạp thiệp thuỳ mấn thần.
Hậu lai yên mã hà thuân tuần.
Bối hậu hà sở kiến ?
Đương hiên há mã nhập cẩm nhân.
Châu áp yêu kiếp ổn xứng thân.
Dương hoa tuyết lạc phú bạch tần,
Tựu trung vân mạc tiêu phòng thân
Thanh điểu phi khứ hàm hồng cân.
Tứ danh đại quốc Quắc dữ Tần.
Chích thủ khả nhiệt thế tuyệt luân,
Tử đà chi phong xuất thuý phủ,
Thận mạc cận tiền, thừa tướng sân... Dịch nghĩa
Mồng ba tháng ba khí trời mát mẻ,
Bên những dòng nước ở Trường An, có nhiều gái đẹp.
Dáng mặn mà, ý tứ sâu xa, dịu dàng chân thực,
Nước da mịn mà, xương thịt đều đặn.
Xiêm áo lụa thêu sáng ngời dưới cảnh trời cuối xuân:
Nào hình công thêu chỉ vàng, kỳ lân thêu chỉ bạc,
Trên đầu có gì ?
Hình chim trả, hoa cài rủ bên mái tóc.
Sau lưng có gì ?
Dây lưng nạm ngọc vừa khít vóc người.
Trong đó bao người thân thích của chốn màn mây, tiêu phòng,
Được vua cho mang tên những nước lớn như Tần và Quắc.
Từ những nồi xanh biếc, lấy ra thịt bướu của con lạc đà sẫm tía,
Trên mâm thuỷ tinh, bày la liệt loại cá trắng tinh.
No ngấy rồi, đũa gân tê ngưu lâu lâu không gắp,
Dao đeo nhạc uổng công thái nộm rọn ràng!
Cửa hoàng môn rong ngựa như bay không hề thấy bụi,
Bếp nhà vua, tám thức ăn quý, liên tiếp dâng lên.
Sáo thổi, trống rung, tiếng rền rĩ xúc động cả quỷ thần,
Khách khứa nhộn nhịp toàn những người ở địa vị trọng yếu.
Người cưỡi ngựa đến sau sao dùng dắng mãi,
Trước hiên xuống ngựa, bước vào thảm gấm.
Hoa dương rụng như tuyết phủ lớp rau tần trắng,
Chim xanh đem tin liền ngậm khăn đỏ bay đi.
Đó những tay "đặt lửa lửa đỏ" thế lực ai bì,
Hãy coi chừng! Chớ đến gần trước mặt mà thừa tướng nổi giận! TAM LẠI
Thạch Hào lại
Mộ đầu Thạch Hào thôn,
Duy hữu nhũ hạ tôn.
Hữu lại dạ tróc nhân.
Hữu tôn mẫu vị khứ,
Lão ông du tường tẩu,
Xuất nhập vô hoàn quần.
Lão phụ xuất khan môn.
Lão ẩu lực tuy suy,
Lại hô nhất hà nộ,
Thỉnh tòng lại dạ quy.
Phụ đề nhất hà khổ!
Cấp ứng Hà Dương dịch,
Thính phụ tiền trí từ:
Do đắc bị thần xuy".
"Tam nam Nghiệp Thành thú
Dạ cửu ngữ thanh tuyệt,
Nhất nam phụ thư chí
Như văn khốc u yết.
Nhị nam tân chiến tử.
Thiên minh đăng tiền đồ,
Tồn giả thả thâu sinh,
Độc dữ lão ông biệt.
Tử giả trường dĩ hỹ!
Thất trung cánh vô nhân,
Đồng Quan lại
Sĩ tốt hà thảo thảo?
Khởi phục ưu Tây Đô
Trúc thành Đồng Quan dạo
Trượng nhân thị yếu xứ
Đại thành thiết bất như
Chính hiệp dung đan xa
Tiểu thành vạn trượng dư
Gian nan phấn trường kích
Tá vấn Đồng Quan lại
Vạn cổ dụng nhất phu
Tu quan hoàn bị Hồ
Ai tai Đào Lâm chiến
Yêu ngã há mã hành
Bách vạn hóa vi ngư
Vị ngã chỉ sơn ngu
Thỉnh phúc phòng quan tướng
Liên vân liệt chiến cách
Thận vật học Kha Thư!
Phi điểu bất năng du
Hồ lai đãn tự thủ
Tân An lại
Khách hành Tân An đạo
Thiên địa chung vô tình !
Huyện hô ao điểm binh
Ngã quân thủ Tương Châu
Tá vấn Tân An lại
Nhật tịch vọng kỳ bình
Huyện tiểu cánh vô đinh
Khởi ý tặc nan liệu
Phủ thiếp tạc dạ há
Qui quân tinh tản doanh
Thứ tuyển trung nam hành
Tựu lương cận cố lũy
Trung nam tuyệt đoản tiểu
Luyện tốt y cựu kinh
Hà dĩ thủ vương thành ?
Quật hào bất đáo thủy
Phì nam hữu mẫu tống
Mục mã dịch diệc khinh
Sấu nam độc linh bình
Huống nãi vương sư thuận
Bạch thủy mộ đông lưu
Phủ dưỡng thậm phân minh
Thanh sơn do khốc thanh
Tống hành vật khấp huyết
Mạc tự sử nhãn khô
Bộc dịch như phũ huynh !
Thu nhữ lệ tung hoành
Nhãn khô tức kiến cốt Dịch Nghĩa
Tên lại ở Đồng Quan
Quân lính bao khó nhọc
Cung cái kích dài cũng khó khăn
Đắp thành trên đường Đồng Quan
Từ xưa vẫn chỉ dùng một người cũng
Thành lớn , sắt không vững bằng
giữ được
Thành nhỏ , dài hơn vạn trượng
Thương thay! Trận Rừng Đào
Ướm hỏi người nha lại ở Đồng Quan
Trăm vạn quân đều hóa cá
(Rằng) vẫn sửa sang cửa ải để đề
Xin dặn ông tướng giữ cửa ải:
phòng giặc Hồ?
Coi chừng! Chớ bắt chước Kha Thư!
(Người nha lạ ) mời ta xuống ngựa
cùng đi
- Đồng Quan: một cửa ải rất hiểm yếu
Chỉ cho ta xem phía góc núi:
ngày xưa, tây giáp núi Hoa Sơn ,
Hàng chiến lũy kéo dài như liền với
đông giáp Rừng Đào mây
- Rừng Đào: một địa điểm gần Đồng
Chim bay cũng không vượt được
Quan, nơi Kha Thư Hàn, tướng nhà
Giặc Hồ dù có đến cũng tự giữ lấy
Đường bị An Lộc Sơn đánh tan, hơn
Không còn phải lo cho Tây Đô nữa
mươi vạn quân chết đuối ở sông
- Ông xem những chỗ hiểm yếu:
Hoàng Hà
Hẹp chỉ vừa một chiếc xe đi
Tên lại ở Tân An
Khách qua đường Tân An nhạt
Nghe rầm rộ bắt lính
Quân ta đã lấy được châu Tương
Ướm hỏi viên lại Tân An
Sớm chiều những mong yên ổn
-(Rằng ) huyện nhỏ hết cả trai tráng
Ai ngờ thế giặc khôn lường
Đêm qua quan phủ lại hạ trát
Quân rút về các trại tản mát
Bắt tuyển xuống hạng trung nam
Muốn tiện lương , phải đóng gần lũy
- Trung nam thấp bé quá cũ
Giữ sao nổi thành nhà vua ?
Để luyện quân lính phải dựa kinh
Hạng trai mập mạp có mẹ đi tiễn xưa
Riêng hạng gầy nhàng thất thễu lẽ loi
Đào hào không đào đến nước
Chiều rồi , dòng nước bạc vẫn cứ
Chăn ngựa cũng là việc nhẹ nhàng
xuôi đông
Huống chi quân nhà vua là chính
Tận dãy núi xanh còn vang tiếng nghĩa khóc
An ủi , nuôi dưỡng rất phân minh
Thôi ! Đừng làm cho mắt mình khô đi
Buổi tiễn đưa đừng khóc lóc thảm nữa
thiết nữa
Hãy ngừng những hàng lệ ngổn
Có quan bộc dịch chẳng khác gì cha
ngang lại
anh !
Mắt khô tức là trơ xương
Trời đất bao giờ cũng dửng dưng lạnh TAM BIỆT
Thùy lão biệt
Tứ giao vị ninh tĩnh
Hạnh viên độ diệc nan
Thùy lão bất đắc an
Thế dị Nghiệp thành hạ
Tử tôn trận vong tận
Tùng tử thời do khoan
Yên dụng thân độc hoàn ?
Nhân sinh hữu ly hợp
Đầu trượng xuất môn khứ ?
Khởi trạch suy thịnh đoan ?
Đồng hành vị tân toan
Ức tích thiếu tráng nhật
Hạnh hữu nha xỉ tồn
Trì hồi cánh trường than
Sở bi cốt tủy can
Vạn quốc tận chinh thú
Nam nhi ký giới trụ
Phong hoả bị cương loan
Trường ấp biệt thượng quan
Tích thi thảo mộc tinh
Lão thê ngọa lộ đề
Lưu huyết xuyên nguyên đan
Tuế mộ y thường đan
Hà hương vi lạc thổ
Thục tri thị tử biệt ?
An cảm thượng bàn hoàn
Thả phục thương kỳ hàn
Khí tuyệt bồng thất cư
Thử khứ bất tất quy
Tháp nhiên tồi phế can
Hoàn văn khuyến gia xan
Thổ môn bích thậm kiên
Tân hôn biệt
Thỏ ty phụ bồng ma
Trầm thống bách trung trường
Dẫn man cố bất trường
Thệ dục tùy quân khứ
Giá nữ dữ chinh phu
Hình thế phản thương hoàng
Bất như khí lộ bàng !
Vật vị tân hôn niệm
Kết phát vi quân thê
Nỗ lực sự nhung hàng
Tịch bất noãn quân sàng
Phụ nhân tại nhân trung
Mộ hôn thần cáo biệt
Binh khí khủng bất dương
Vô nãi thái thông mang !
Tự ta bần gia nữ
Quân hành tuy bất viễn
Cửu trí la nhu thường
Thú biên phó Hà Dương
La nhu bất phục thi
Thiếp thân vị phân minh
Đối quân tẩy hồng trang
Hà dĩ bái cô chương ?
Ngưỡng thị bách điểu phi
Phụ mẫu dưỡng ngã thì
Đại tiểu tất song tường
Nhật dạ linh ngã tàng
Nhân sự đa thác ngỗ
Sinh nữ hữu sở quy
Dữ quân vĩnh tương vương
Kê cẩu diệc đắc tương
Quân kim vãng tử địa
Vô gia biệt
Tịch mịch Thiên Bảo hậu
Nhật mộ hoàn quán khuê
Viên lư đãn cao lê
Huyện lại tri ngã chí
Ngã lý bách dư gia
Triệu linh tập cổ bề
Thế loạn các đông tê
Tuy tòng bản châu dịch
Tồn giả vô tiêu tức
Nội cố vô sở huề
Tử giả vị trần nê !
Cận hành chỉ nhất thân
Tiện tử nhân trận bại
Viễn khứ chung chuyển mê
Quy lai tầm cựu khê
Gia hương ký đãng tận
Cửu hành kiến không hạng
Viễn cận lý diệc tề
Nhật sấu khí thảm thê !
Vĩnh thống trường bệnh mẫu
Đãn đối hồ dữ ly
Ngũ niên uỷ câu khê !
Thụ mao nộ ngã đề
Sinh ngã bất đắc lực
Tứ lân hà sở hữu ?
Chung thân lưỡng toan tê !
Nhất nhị lão quả thê
Nhân sinh vô gia biệt
Túc điểu luyến bản chi
Hà dĩ vi chửng lê ?
An từ thả cùng thê
Phương xuân độc hà xừ Dịch Nghĩa
Cuộc chia ly lúc về già
Bốn phương chưa ổn định
Thành Hạnh Viên cũng khó vượt qua
Thân về già cũng chẳng được yên
Hình thế không giống như ở dưới
Con cháu chết trận hết
thành Nghiệp
Một mình sống để làm gì ?
Dù có chết cũng còn lâu
Quẳng gậy ra cửa đi
Đời người có tan có hợp
Bạn đồng hành cũng lấy làm chua xót
Kể gì tuổi trẻ hay già ?
May hàm răng vẫn còn
Nhớ lại đương thì trai tráng
Thương nỗi tủy xương đã khô kiệt !
Băn khoăn rồi lại thở dài
Thân trai đã mặc đồ giáp trụ
Muôn nước đều có chiến tranh đồn
Vái dài từ biệt quan trên thú
Vợ già lăn ra đường gào
Lửa báo động bốc khắp núi gò
Hết năm rồi quần áo mỏng manh
Thây chất làm tanh hôi cây cỏ
Ai ngờ đến lúc tử biệt
Máu chảy nhuộm đỏ sông ngòi đồng
Mà còn thương nhau rét ! ruộng
Lần này đi chắc chắn không trở về
Còn quê hương nào là đất yên vui
Vẫn còn nghe khuyên nhau cố ăn
Mà còn dám chần chừ nữa ? thêm
Dứt bỏ nơi ở tranh pheo này
Nơi Thổ Môn thành lũy rất vững
Rời rã như nát cả gan phổi !
Cuộc chia ly của cặp vợ chồng mới cưới
Dây tơ hồng bám vào cây bòng bong ,
Sinh con gái thì phải gả chồng
cây gai
Con gà con chó cũng được mang theo
Dù ngọn dây có lan ra cũng không
thể được dài
Nay anh đến nơi vào sinh ra tử
Có con gái gã cho người đi lính
Nỗi đau ngầm nung nấu trong lòng
Chẳng thà vất bỏ bên đường em
Vấn tóc về làm vợ anh
Đã toan thề quyết đi theo anh
Giường của anh , em nằm chưa ấm
Song tình thế lại biến chuyển khó chiếu khăn
Chập tối đưa dâu , sớm mai từ biệt
Anh chớ nên vì vợ mới mà bịn rịn
Há chẳng là quá đỗi vội vàng !
Hãy gắng sức gánh vác việc quân
Anh đi tuy không xa
Nếu có đàn bà trong quân đội
Đến Hà Dương để đóng giữ biên giới
E tinh thần binh sĩ khó lên cao
Nhưng thân phận em chưa được
Em chỉ than thân là con gái nhà
phân minh nghèo
Biết lạy chào cha mẹ chồng thế nào
Bộ áo xiêm lụa may mãi mới xong
cho phải ?
Áo xiêm ấy nay không mặc nữa
Nhớ khi ở với cha mẹ
Trước mặt anh rửa hết phấn son
Ngày đêm nuôi nấng giữ gìn trong
Ngước nhìn trăm giống chim bay trên nhà trời
Mặc dù lớn nhỏ cũng đều có đôi
Em cùng anh trông ngónh nhau hoài
Sao đời người lại lắm điều lận đận
Cuộc chia ly của kẻ vô gia cư
Cảnh tiêu điều sau năm Thiên Bảo
Chiều tối vẫn tát nước ngoài đồng
Nhà vườn toàn là cỏ dại
Bọn nha lại trên huyện biết mình về
Xóm mình có hơn trăm nhà
Gọi gắt đi tập trống trận
Gặp đời loạn , mỗi người đi một
Tuy chỉ phục dịch trong châu nhà phương
Nhìn lại chẳng có người nào
Người còn không tin tức gì
Đi gần chỉ có một thân
Người chết biến thành bụi đất
Đi xa cuối cùng lạc lối !
Thân hèn vì thua trận
Quân nhà đã sạch sành sanh
Tìm lối cũ quay về
Dù xa hay gần thì cũng thế
Đi mãi chỉ thấy ngõ vắng
Xót thương vô cùng , mẹ già ốm lâu
Ánh nắng thoi thóp , cảnh tượng thê năm
lương !
Chết đã năm năm rồi vẫn vùi bên khe
Trước mắt chỉ thấy cáo cùng cầy lạch
Xù lông nhìn ta gầm gừ , giận dữ
Sinh ra mình mà chẳng được nhờ
Bốn bề hàng xóm còn gì đâu ?
Suốt đời mẹ con đều chua xót !
Một vài bà già góa bụa
Ðời người đến nỗi không có nhà mà
Chim ngủ mến cành quen
từ biệt
Đâu dám ngại , đành nương náu với
Thực làm kẻ dân đen cũng không
nghèo khổ ! đáng
Giữa mùa xuân thui thủi vác cuốc THU HỨNG
Thu hứng kỳ 1
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Thu hứng kỳ 2
Quỳ phủ cô thành lạc nhật tà,
Sơn lâu phấn điệp ẩn bi già.
Mỗi y Nam Đẩu vọng kinh hoa.
Thỉnh khan thạch thượng đằng la
Thính viên thực há tam thanh lệ, nguyệt,
Phụng sứ hư tuỳ bát nguyệt tra,
Dĩ ánh châu tiền lô địch hoa.
Hoạ tỉnh hương lô vi phục chẩm,
Dịch nghĩa
Ánh mặt trời xiên xuống thành phủ
Nhớ lò hương nơi dinh quan, ôm gối
Quỳ vắng vẻ,
thao thức,
Ta thường dõi sao Nam Đẩu trông về
Ở tường vôi lầu canh trên núi, vọng
kinh đô.
tiếng kèn buồn.
Nghe vượn kêu ba tiếng rơi nước mắt
Hãy xem trăng qua cây leo dọi trên thật,
mặt đá,
Đi sứ theo chiếc bè tám tháng uổng
Đã sáng lấp lánh trên bông lau ngoài công!
bãi sông
Thu hứng kỳ 3
Thiên gia sơn quách tĩnh triêu huy
Nhật nhật giang lâu toạ thuý vi.
Tín túc ngư nhân hoàn phiếm phiếm,
Thanh thu yến tử cố phi phi,
Khuông Hành kháng sớ công danh bạc,
Lưu Hướng truyền kinh tâm sự vi.
Đồng học thiếu niên đa bất tiện,
Ngũ Lăng cừu mã tự khinh phì.
Dịch nghĩa
Nghìn nhà thành núi rạng nắng mai yên tĩnh,
Ngày ngày ngồi trên lầu sông giữa hơi núi biếc.
Đêm dài, người đánh cá bơi thuyền vùn vụt,
Trời thu trong, từng con én bay liệng.
Như Khuông Hành dâng sớ mà công danh mỏng,
Như Lưu Hướng giảng sách mà tâm sự ngang trái.
Nhiều bạn cùng học thời trẻ nay có hèn đâu,
Đều mặc áo cừu, cỡi ngựa béo ở Ngũ Lăng! ĐĂNG CAO
Phong cấp, thiên cao, viên khiếu ai,
Chử thanh, sa bạch, điểu phi hồi.
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu há,
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
Vạn lý bi thu thường tác khách,
Bách niên đa bệnh độc đăng đài.
Gian nan khổ hận phồn sương mấn,
Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi.
Dịch nghĩa
Gió thổi gấp, trời cao, vượn kêu buồn,
Bến nước trong, cát trắng, chim bay lượn vòng.
Vô vàn lá xào xạc rụng xuống,
Dòng sông dài cuồn cuộn chảy vô tận.
Xa nhà vạn dặm, vẻ thu hiu hắt, mãi vẫn làm khách xứ người,
Cuộc đời lắm bệnh, một mình lên đài cao.
Gian nan, khổ hận, tóc mai dày nhuốm màu sương gió,
Thân già ốm yếu nên mới phải thôi cạn chén rượu đục.
Document Outline
- Dịch nghĩa
- LỆ NHÂN HÀNH
- TAM LẠI
- Thạch Hào lại
- Đồng Quan lại
- Tân An lại
- Dịch Nghĩa
- TAM BIỆT
- Dịch Nghĩa
- THU HỨNG
- ĐĂNG CAO