Thơ Đường luật là gì? Đặc điểm của thơ Đường luật
1. Thơ Đường luật là gì?
Thơ Đường luật hay thơ luật Đường là một thể thơ Đường với các luật xuất hiện vào thời nhà Đường ở
Trung Quốc. Đây là một trong những dạng thơ Đường bên cạnh thơ cổ phong (cổ thể thi), từ, thơ Đường
luật đã phát triển mạnh mẽ chính tại quê hương của nó và lan toả ra nhiều quốc gia lân bang với tư cách
thể loại tiêu biểu nhất của thơ Đường nói riêng và tinh hoa thi ca Trung Hoa nói chung. Thơ Đường luật còn
được gọi với thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể vốn không theo cách luật ấy.
Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở năm điều sau: Luật, Niêm, Vần, Đối và
Bố cục. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng: thất ngôn bát cú - được xem là dạng chuẩn; biến thể có
các dạng như thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú cũng như các dạng ít phổ biến.
2. Nguồn gốc của thơ Đường luật
Thơ Đường luật là một trong những thể loại văn chương xuất hiện từ rất sớm trong văn học Trung Quốc,
đây cũng là một thể loại thơ phổ biến trong văn hoá thơ ca khu vực Đông Á thời trung đại. Thể thơ thất ngôn
bát cú là cổ thi, xuất hiện sớm ở Trung Quốc. Đến đời nhà Đường mới được các nhà thơ đặt ra quy định cụ
thể, rõ rằng kéo dài trong chế độ phong kiến. Thể thơ này đã được các đời vua Trung Quốc và Việt Nam
dùng cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài và rất phổ biến ở Việt Nam vào thời Bắc thuộc, chủ yếu là được
các cây bút quyd tộc sử dụng.
Thể thơ có luật rất chặt chẽ, tuy nhiên trong quá trình sáng tác, nhất là vào phong trào thơ mới tại Việt Nam
từ năm 1925, bằng sự sáng tạo của mình các tác giả đã làm giamr bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật
bằng - trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.
3. Thơ Đường luật tại một số quốc gia
3.1. Việt Nam
Vì văn chương chính thống, giáo dục và hệ thống khoa cử thời trung đại đều sử dụng tiếng Hán, nên từ lâu
người Việt Nam đã sáng tác thơ văn bằng tiếng Hán trong đó có thơ theo luật Đường. Nguyễn Thuyên là
người đầu tiên đưa tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật, là sự kết hợp thơ Đường luật với các thể
thơ khác của dân tộc Việt.
Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỉ XX. Kể từ phong trào thơ
mới trở đi, số người còn làm thể thơ này đã bị giảm đi đáng kể.
3.2. Nhật Bản
Khoảng vào thế kỷ thứ 5, chữ Hán truyền từ Trung Hoa tới Nhật. Năm 593, thái tử Shotoku (Thượng Đức)
nhiếp chính đã ban hiến pháp "Thập thất điều", gửi nhiều phái đoàn sang nhà Đường du học. Năm 710, nữ
hoàng Genmei thiên đô về Nara, đặt tên là Bình Thành Kinh. Năm 794 Thiên hoàng Kammu thiên đô về
Heian và lập kinh đô. Đây là thời kỳ người Nhật mô phỏng Trung Hoa thời nhà Đường toàn diện từ kiến trúc
đô thành (theo mô hình kinh đô Tràng An nhà Đường và thành Lạc Dương triều Bắc Nguỵ) đến nghi thức,
văn hoá và thời kỳ này kéo dài ít nhất tính đến thời điểm Nhật Bản ngừng phái sứ giả sang giao lưu với đại
lục năm 894. Thơ văn chữ Hán trở thành văn học của công và đồng nghĩa với sinh hoạt cung đình.
Thành tựu đáng chú ý đầu tiên của người Nhật đối với thể loại thơ Đường luật có thể kể đến Kaifuso (Hoài
phong tảo, 751). Thi tập này bao gồm 120 bài thơ chữ Hán, quy tụ các nhà thơ tiêu biểu từ hoàng đế, thành
viên của hoàng tộc, quý tộc, tăng lữ cho đến những Hoa kiều nhập quốc tịch Nhật. Sáng tác đa phần được
thực hiện từ thế kỷ thứ 7 và 8, hình thức thơ chủ yếu là thơ ngũ ngôn, tứ tuyệt, bát cú.
4. Đặc điểm của thơ Đường luật
Thơ Đường luật có các đặc điểm như sau:
- Thơ Đường luật là một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở năm điều sau: Luật, Niêm, Vần, Đối và
Bố cục
- Về hình thức: thơ Đường luật có dạng thất ngôn bát cú (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng
chuẩn
- Các dạng biến thể: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu
năm chữ), ngũ ngôn bát cú (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác, người Việt
Nam cũng tuân thủ hoàn toàn theo các quy tắc này.
- Luật Đối âm (luật bằng trắc)
Luật thơ Đường sẽ căn cứ dựa trên thanh trắc và thanh bằng, dùng các chữ thứ 2 - 4 - 6 và 7 trong
cùng một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng bao gồm những chữ không có dấu hoặc dấu huyền,
thanh trắc bao gồm tất cả các dấu còn lại: sắc, hỏi, ngã, nặng
Những bài có luật bằng là bài sử dụng thanh bằng trong chữ thứ hai của câu đầu tiên; ngược lại, nếu
chữ thứ hai trong câu đầu tiên mà sử dụng thanh trắc thì được gọi là luật trắc. Chữ thứ hai và chữ thứ
sáu trong cùng một câu phải giống nhau về thanh điệu và đồng thời chữ thứ tư không được có thanh
điệu giống với hai chữ kia.
- Luật Đối ý
Một nguyên tắc cố định trong một bài thơ được sáng tác theo thể loại Đường luật chính là ý nghĩa của
câu thứ ba, thứ tư phải đối nhau và cả hai câu thứ năm, thứ sáu cũng phải đối nhau
Đối chính là sự tương phản về nghĩa của cả từ đơn, từ láy hoặc từ ghép và nó bao gồm cả sự tương
đương trong cách mà tác giả sử dụng từ ngữ. Đối chữ là động từ đối động từ, danh từ với danh từ.
Đối cảnh là cảnh động đối với cảnh tĩnh, trên đối với dưới
Nếu trong một bài thơ Đường luật mà các câu ba, bốn không đối nhau hoặc những câu năm, sáu
không đối nhau thì được gọi là thất đối.
5. Bố cục
Một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật theo truyền thống được chia thành bốn phần: đề, thực, luận, kết.
Đề gồm hai câu đầu, trong đó câu đầu tiên gọi là câu phá đề, câu thứ hai gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý
để đi vào phần sau. Thực gồm hai câu tiếp theo, giải thích rõ ý đầu bài. Luận gồm hai câu tiếp sau nữa,
bình luận hai câu thực. Kết là hai câu cuối, kết thúc ý toàn bài, trong đó câu số 7 là câu thúc và câu cuối là
câu hợp. Thơ thấy ngôn bát cú có luật lệ gò bó khó làm nhất, nhưng chính điều này lại được người xưa ưa
thích, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, xướng hoạ... và trong tất cả các kì thi xưa đều
dùng để chọn người tài.
Một quan niệm khác áp dụng cấu trúc 2 - 4 - 2 cho bài thơ thất ngôn bát cú, Theo đó, quan niệm này dứng ở
góc độ không gian - thời gian nghệ thuật để khảo sát toàn bài dựa theo logic hai câu đầu và hai câu cuối
của bài thơ Đường luật thì thường yếu tố thời gian sẽ chiếm vị trí chủ đạo, bốn câu giữa trật tự không gian
là chủ đạo và tác giả dường như dừng lại để quan sát sự vật.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu có xu hướng không cố tìm quy luật chung về bố cụ để áp dụng trong hàng
loạt bài thơ mà áp dụng quan điểm nghiên cứu bám sát và tuân thủ theo cách phân chia bố cục của từng
bài thơ theo mạch cảm xúc của thi nhân biển hiện trong bài. Một ví dụ đó là bài thơ Qua đèo Ngang của Bà
Huyện Thanh Quan hoàn toàn có thể được tách theo bố cục 1/7, hoặc Bạn đến chơi nhà của Nguyễn
Khuyến có thể tác bố cục 7/1 hoặc 1/6/1.
6. Một số dạng thơ Đường luật
6.1. Thất ngôn bát cú
Thơ thất ngôn bát cú chính là một thể loại thơ cổ xuất hiện rất sớm ở Trung Hoa, đến thời Đường đã được
các nhà thơ đặt lại quy tắc rõ ràng, cụ thể hơn và bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ đó. Đặc điểm của thể loại
thơ này chính là mỗi bài thơ sẽ có tám câu và mỗi câu có bảy chữ, đồng thời tuân theo một quy tắc rất chăt
chẽ.
6.2. Thất ngôn tứ tuyệt
Thực chất đây chính là một bài "thất ngôn bát cú" nhưng đem bỏ đi bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối. Luật
bằng trắc và niêm, vần... vẫn được giữ nguyên, tuy nhiên có thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6. Lúc
này sẽ trở thành một bài thơ "bốn câu ba vần".
6.3. Ngũ ngôn tứ tuyệt
Thực chất chính là một bài thất ngôn tứ tuyệt nhưng đem bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu; các chữ và luật sử
dụng còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần.
6.4. Ngũ ngôn bát cú
Cũng là biến thể từ bài thất ngôn bát cú nhưng bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu mà thành, vẫn giữ nguyên luật
bằng trắc, niêm và vần ở các chữ còn lại.

Preview text:

Thơ Đường luật là gì? Đặc điểm của thơ Đường luật
1. Thơ Đường luật là gì?
Thơ Đường luật hay thơ luật Đường là một thể thơ Đường với các luật xuất hiện vào thời nhà Đường ở
Trung Quốc. Đây là một trong những dạng thơ Đường bên cạnh thơ cổ phong (cổ thể thi), từ, thơ Đường
luật đã phát triển mạnh mẽ chính tại quê hương của nó và lan toả ra nhiều quốc gia lân bang với tư cách
thể loại tiêu biểu nhất của thơ Đường nói riêng và tinh hoa thi ca Trung Hoa nói chung. Thơ Đường luật còn
được gọi với thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể vốn không theo cách luật ấy.
Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở năm điều sau: Luật, Niêm, Vần, Đối và
Bố cục. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng: thất ngôn bát cú - được xem là dạng chuẩn; biến thể có
các dạng như thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú cũng như các dạng ít phổ biến.
2. Nguồn gốc của thơ Đường luật
Thơ Đường luật là một trong những thể loại văn chương xuất hiện từ rất sớm trong văn học Trung Quốc,
đây cũng là một thể loại thơ phổ biến trong văn hoá thơ ca khu vực Đông Á thời trung đại. Thể thơ thất ngôn
bát cú là cổ thi, xuất hiện sớm ở Trung Quốc. Đến đời nhà Đường mới được các nhà thơ đặt ra quy định cụ
thể, rõ rằng kéo dài trong chế độ phong kiến. Thể thơ này đã được các đời vua Trung Quốc và Việt Nam
dùng cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài và rất phổ biến ở Việt Nam vào thời Bắc thuộc, chủ yếu là được
các cây bút quyd tộc sử dụng.
Thể thơ có luật rất chặt chẽ, tuy nhiên trong quá trình sáng tác, nhất là vào phong trào thơ mới tại Việt Nam
từ năm 1925, bằng sự sáng tạo của mình các tác giả đã làm giamr bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật
bằng - trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.
3. Thơ Đường luật tại một số quốc gia 3.1. Việt Nam
Vì văn chương chính thống, giáo dục và hệ thống khoa cử thời trung đại đều sử dụng tiếng Hán, nên từ lâu
người Việt Nam đã sáng tác thơ văn bằng tiếng Hán trong đó có thơ theo luật Đường. Nguyễn Thuyên là
người đầu tiên đưa tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật, là sự kết hợp thơ Đường luật với các thể
thơ khác của dân tộc Việt.
Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỉ XX. Kể từ phong trào thơ
mới trở đi, số người còn làm thể thơ này đã bị giảm đi đáng kể. 3.2. Nhật Bản
Khoảng vào thế kỷ thứ 5, chữ Hán truyền từ Trung Hoa tới Nhật. Năm 593, thái tử Shotoku (Thượng Đức)
nhiếp chính đã ban hiến pháp "Thập thất điều", gửi nhiều phái đoàn sang nhà Đường du học. Năm 710, nữ
hoàng Genmei thiên đô về Nara, đặt tên là Bình Thành Kinh. Năm 794 Thiên hoàng Kammu thiên đô về
Heian và lập kinh đô. Đây là thời kỳ người Nhật mô phỏng Trung Hoa thời nhà Đường toàn diện từ kiến trúc
đô thành (theo mô hình kinh đô Tràng An nhà Đường và thành Lạc Dương triều Bắc Nguỵ) đến nghi thức,
văn hoá và thời kỳ này kéo dài ít nhất tính đến thời điểm Nhật Bản ngừng phái sứ giả sang giao lưu với đại
lục năm 894. Thơ văn chữ Hán trở thành văn học của công và đồng nghĩa với sinh hoạt cung đình.
Thành tựu đáng chú ý đầu tiên của người Nhật đối với thể loại thơ Đường luật có thể kể đến Kaifuso (Hoài
phong tảo, 751). Thi tập này bao gồm 120 bài thơ chữ Hán, quy tụ các nhà thơ tiêu biểu từ hoàng đế, thành
viên của hoàng tộc, quý tộc, tăng lữ cho đến những Hoa kiều nhập quốc tịch Nhật. Sáng tác đa phần được
thực hiện từ thế kỷ thứ 7 và 8, hình thức thơ chủ yếu là thơ ngũ ngôn, tứ tuyệt, bát cú.
4. Đặc điểm của thơ Đường luật
Thơ Đường luật có các đặc điểm như sau:
- Thơ Đường luật là một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở năm điều sau: Luật, Niêm, Vần, Đối và Bố cục
- Về hình thức: thơ Đường luật có dạng thất ngôn bát cú (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn
- Các dạng biến thể: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu
năm chữ), ngũ ngôn bát cú (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác, người Việt
Nam cũng tuân thủ hoàn toàn theo các quy tắc này.
- Luật Đối âm (luật bằng trắc)
Luật thơ Đường sẽ căn cứ dựa trên thanh trắc và thanh bằng, dùng các chữ thứ 2 - 4 - 6 và 7 trong
cùng một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng bao gồm những chữ không có dấu hoặc dấu huyền,
thanh trắc bao gồm tất cả các dấu còn lại: sắc, hỏi, ngã, nặng
Những bài có luật bằng là bài sử dụng thanh bằng trong chữ thứ hai của câu đầu tiên; ngược lại, nếu
chữ thứ hai trong câu đầu tiên mà sử dụng thanh trắc thì được gọi là luật trắc. Chữ thứ hai và chữ thứ
sáu trong cùng một câu phải giống nhau về thanh điệu và đồng thời chữ thứ tư không được có thanh
điệu giống với hai chữ kia. - Luật Đối ý
Một nguyên tắc cố định trong một bài thơ được sáng tác theo thể loại Đường luật chính là ý nghĩa của
câu thứ ba, thứ tư phải đối nhau và cả hai câu thứ năm, thứ sáu cũng phải đối nhau
Đối chính là sự tương phản về nghĩa của cả từ đơn, từ láy hoặc từ ghép và nó bao gồm cả sự tương
đương trong cách mà tác giả sử dụng từ ngữ. Đối chữ là động từ đối động từ, danh từ với danh từ.
Đối cảnh là cảnh động đối với cảnh tĩnh, trên đối với dưới
Nếu trong một bài thơ Đường luật mà các câu ba, bốn không đối nhau hoặc những câu năm, sáu
không đối nhau thì được gọi là thất đối. 5. Bố cục
Một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật theo truyền thống được chia thành bốn phần: đề, thực, luận, kết.
Đề gồm hai câu đầu, trong đó câu đầu tiên gọi là câu phá đề, câu thứ hai gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý
để đi vào phần sau. Thực gồm hai câu tiếp theo, giải thích rõ ý đầu bài. Luận gồm hai câu tiếp sau nữa,
bình luận hai câu thực. Kết là hai câu cuối, kết thúc ý toàn bài, trong đó câu số 7 là câu thúc và câu cuối là
câu hợp. Thơ thấy ngôn bát cú có luật lệ gò bó khó làm nhất, nhưng chính điều này lại được người xưa ưa
thích, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, xướng hoạ... và trong tất cả các kì thi xưa đều
dùng để chọn người tài.
Một quan niệm khác áp dụng cấu trúc 2 - 4 - 2 cho bài thơ thất ngôn bát cú, Theo đó, quan niệm này dứng ở
góc độ không gian - thời gian nghệ thuật để khảo sát toàn bài dựa theo logic hai câu đầu và hai câu cuối
của bài thơ Đường luật thì thường yếu tố thời gian sẽ chiếm vị trí chủ đạo, bốn câu giữa trật tự không gian
là chủ đạo và tác giả dường như dừng lại để quan sát sự vật.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu có xu hướng không cố tìm quy luật chung về bố cụ để áp dụng trong hàng
loạt bài thơ mà áp dụng quan điểm nghiên cứu bám sát và tuân thủ theo cách phân chia bố cục của từng
bài thơ theo mạch cảm xúc của thi nhân biển hiện trong bài. Một ví dụ đó là bài thơ Qua đèo Ngang của Bà
Huyện Thanh Quan hoàn toàn có thể được tách theo bố cục 1/7, hoặc Bạn đến chơi nhà của Nguyễn
Khuyến có thể tác bố cục 7/1 hoặc 1/6/1.
6. Một số dạng thơ Đường luật
6.1. Thất ngôn bát cú
Thơ thất ngôn bát cú chính là một thể loại thơ cổ xuất hiện rất sớm ở Trung Hoa, đến thời Đường đã được
các nhà thơ đặt lại quy tắc rõ ràng, cụ thể hơn và bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ đó. Đặc điểm của thể loại
thơ này chính là mỗi bài thơ sẽ có tám câu và mỗi câu có bảy chữ, đồng thời tuân theo một quy tắc rất chăt chẽ.
6.2. Thất ngôn tứ tuyệt
Thực chất đây chính là một bài "thất ngôn bát cú" nhưng đem bỏ đi bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối. Luật
bằng trắc và niêm, vần... vẫn được giữ nguyên, tuy nhiên có thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6. Lúc
này sẽ trở thành một bài thơ "bốn câu ba vần".
6.3. Ngũ ngôn tứ tuyệt
Thực chất chính là một bài thất ngôn tứ tuyệt nhưng đem bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu; các chữ và luật sử
dụng còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần.
6.4. Ngũ ngôn bát cú
Cũng là biến thể từ bài thất ngôn bát cú nhưng bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu mà thành, vẫn giữ nguyên luật
bằng trắc, niêm và vần ở các chữ còn lại.

| 1/4