




Preview text:
Thư tín là gì ? Khái niệm thư tín được hiểu như thế nào ?
1. Khái niệm thư tín
Thư tín là văn bản chứa đựng những thông tin mà một người muốn báo cho một (hoặc nhiều) người khác biết.
Theo nghĩa rộng nhất, thư tín là bất kì thông tin nào được ghi nhận dưới một hình thức vật chất
nhất định và được chuyển từ một người (người gửi) sang một người khác (người nhận), theo ý chí
của người gửi. Hình thức vật chất đó đồng thời cũng là phương thức bảo quản thông tin trong quá
trình di chuyển từ người gửi sang người nhận.
Việc ghi nhận thông tin dưới một hình thức vật chất nhất định, còn gọi là việc soạn thảo thư tín,
phải xuất phát từ ý chí của chủ thể gửi thông tin. Bởi vậy, người ta nói rằng các cuộc điện đàm
được ghỉ âm không phải là thư tín, trừ trường hợp việc ghi âm được thực hiện với sự đồng ý của
cả hai bên tham gia điện đàm; trong trường hợp một bên không biết việc ghi âm, thì không thể nói
rằng việc ghi âm được thực hiện theo ý chí của bên đó.
Chủ thể nhận thông tin do chủ thể gửi thông tin xác định. Việc xác định đó không cần được sự
đồng ý của chủ thể nhận thông tin.
Bí mật thư tín là một quyền được pháp luật bảo vệ.
2. Các hình thức của thư tín
Trong xã hội hiện đại, hình thức của thư tin rất đa dạng. Có thể ghi nhận bốn hình thức phổ biến nhất sau:
1) Thư viết trên giấy, là loại thư tín cổ điển. Thông tin được ghi nhận trên giấy có thể bằng chữ
viết thông thường hoặc bằng một hệ thống kí hiệu quy ước giữa chủ thể gửi thông tin và chủ thể
nhận thông tin (gọi là mật mã trong ngôn ngữ thông dụng);
2) Thông tin có thể được chứa đựng trong băng, đĩa từ dưới dạng chữ viết, tiếng nói, hình ảnh hoặc cả ba;
3) Thư được soạn thảo trên máy vi tính và gửi từ một địa chỉ điện tử đến một điạ chỉ điện tử khác, thông qua mạng Internet;
4) Nhắn tin qua điện thoại, đây là việc để lại lời nhắn trên hộp thư thoại hoặc hộp tin nhắn của một
số điện thoại. Lời nhắn trên hộp thư thoại tồn tại dưới dạng lời nói (lời độc thoại) được ghỉ âm; lời
nhắn trên hộp tin nhắn được ghi nhận dưới dạng chữ viết hoặc các kí hiệu viết khác. Nhắn tin qua
điện thoại cũng được coi là một loại thư tín, do lời nhắn, sau khi được ghỉ nhận, tồn tại độc lập với
kí ức của người nhắn tin.
3. Khái niệm tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín
Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin
riêng tư khác của người khác là hành vi chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đi...
Điều 159 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định vềtội xâm phạm
bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư
khác của người khác như sau:
"1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm: (a) Chiếm đoạt thư tín, điện báo,
telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông
dưới bất kỳ hình thức nào; (b) Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung
của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng
bưu chính, viễn thông; (c) Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật; (d) Khám xét, thu giữ thư
tín, điện tín trái pháp luật; (đ) Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại,
điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm: (a) Có
tổ chức; (b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; (c) Phạm tội 02 lần trở lên; (d) Tiết lộ các thông tin đã
chiếm đoạt, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác; (đ) Làm nạn nhân tự sát.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm
chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm."
4. Cấu thành tội phạm của tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín
4.1 Mặt khách quan
Hành vi khách quan:Theo quy định tại khoản 1 điều 159 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi
bổ sung 2017 có 5 hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm mà khi một người thực
hiện 1 trong 5 hành vi nêu trên, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi
này mà còn vi phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này".
Hành vi chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được
truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào: Chiếm đoạt thư,
điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông
và máy tính là làm cho thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa
bằng phương tiện viễn thông và máy tính không đến với người nhận bằng nhiều thủ đoạn
khác nhau như: dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, lén lút, gian dối, bội tín, công nhiên…
Cũng giống như hành vi chiếm đoạt tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu là lấy đi,
nhưng tính chất chiếm đoạt ở đây khác chiếm đoạt tài sản ở chỗ, người phạm tội có thể
lấy thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện
viễn thông và máy tính cho mình, nhưng cũng có thể chỉ lấy rồi vứt đi, mà không chiếm hữu sử dụng.
Nếu chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng
phương tiện viễn thông và máy tính để dùng vào mục đích khác và hành vi dùng vào mục
đính khác của người phạm tội lại cấu thành mọt tội phạm độc lập thì tuỳ trường hợp cụ
thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng nếu hành
vi chiếm đoạt chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích.
Hành vi cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện
báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu
chính, viễn thông: Hành vi này rất đa dạng về cách thức thực hiện như tiêu huỷ thư, điện
báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và
máy tính của người khác.v.v
Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật: Việc nghe hoặc ghi âm điện thoại liên quan
đến quyền riêng tư của cá nhân về thông tin. Tuy nhiên cần lưu ý đây là trường hợp pháp
luật quy định một cách rõ ràng trường hợp nào thì được nghe, trường hợp nào thì không
được nghe chứ không tùy tiện áp đặt vào thực tế trong mọi trường hợp việc nghe hoặc
ghi âm cuộc đàm thoại vì mọi mục đích đều là trái pháp luật.
Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật: Điều này thể hiện bằng hành vi tự lý lục
lọi, xem xét và giữ thư tín, điện tín trong các trường hợp không được pháp luật cho phép.
Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc
hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác: Bao gồm các hành vi khác mà
nhà làm luật chưa mô tả trong cấu thành tội phạm kể trên.
Hậu quả và mối quan hệ nhân quả: Những hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư
tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác là
gây ra những thiệt hại về vật chất và tinh thần cho con người hoặc gây ra những thiệt hại
về an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Những thiệt hại này có thể tính ra được bằng tiền,
nhưng cũng có thể không tính ra được bằng tiền.Hậu quả của hành vi này, trước hết làm
cho thư tín, điện thoại, điện tín không còn giữ được bí mật hoặc không đến được người
nhận và do không giữ được bí mật hay không đến được người nhận nên có thể gây ra
hậu quả khác về vật chất hoặc tinh thần cho người khác.
Bộ luật Hình sự 2015 không căn cứ vào thiệt hại do hành vi xâm phạm bí mật hoặc an
toàn thư tín, điện thoại, ... gây ra để truy cứư trách nhiệm hình sự người vi phạm về tội
danh này mà chỉ cần xác định thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông
tin riêng tư khác bị lộ, bị chiếm đoạt hoặc bị xâm phạm là tội phạm đã hoàn thành, những
hậu quả khác do thư tín, điện thoại, điện tín bị lộ, bị chiếm đoạt hoặc bị xâm phạm chỉ có
ý nghĩa trong việc xác định mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội để quyết định hình phạt
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy tình trạng xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình
thức trao đổi thông tin riêng tư khác xảy ra khá phổ biến ở nước ta hiện nay, nhưng việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm không đáng kể, nguyên
nhân của tình trạng này thì có nhiều, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do ý thức pháp luật
chưa cao, chỉ khi nào do hành vi xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín gây ra hậu quả
nghiêm trọng khác thì người có hành vi xâm phạm mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
4.2 Mặt chủ quan
Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi
thông tin riêng tư khác của người khác được thực hiện do cố ý (cố ý phạm tội), tức là
người phạm tội nhận thức rõ hành vi xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín của người
khác là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả
xẩy ra hoặc nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành
vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xẩy ra.
Người phạm tội này có nhiều động cơ khác nhau; động cơ không phải là dấu hiệu bắt
buộc của tội phạm này, nên việc xác định động cơ phạm tội của người phạm tội chỉ có ý
nghĩa trong việc quyết định hình phạt. Mục đích của người phạm tội là mong muốn xâm
phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin
riêng tư khác của người khác. Tuy nhiên, mức độ có khác nhau, có người chỉ mong xem
trộm thư rồi dán lại, có người chiếm đoạt…
4.3 Khách thể
Khách thể mà hành vi phạm tội đã xâm phạm đến là quyền được bảo đảm bí mật và an
toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc các hình thức trao đổi riêng tư khác của công dân.
4.4 Chủ thể
Chủ thể của tội phạm là những người đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực hành vi hình sự,
không bị mắc các bệnh về tâm thần dẫn đến không thể điều khiển được hành vi của
mình. Người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm về hành vi này do tội
này không được liệt kê tại Điều 12 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự áp dụng cho
người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi.
5. Thẩm quyền ra lệnh thu giữ thư tín
Thẩm quyền ra lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm được quy định tại khoản 1 Điều
197 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: “Khi cần thiết phải thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm
tại cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thông thì Cơ quan điều tra ra lệnh thu giữ. Lệnh này phải được
Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành”.
Theo đó, thẩm quyền ra lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm thuộc về Cơ quan điều
tra, cụ thể Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra. Lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện,
bưu phẩm được ban hành theo mẫu 121/CQĐT. Và lệnh này phải được Viện Kiểm sát phê chuẩn trước khi thi hành.