lOMoARcPSD| 58950985
Họ & tên: Nguyễn Nguyên Hồng MSV: 11222532 LHP: 04
Trình bày thực trạng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp chế biến
chế tạo Việt nam.
Bài làm:
I. Tổng quan về chuỗi cung ứng ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam
1.1. Cấu trúc chuỗi cung ứng ngành công nghiệp chế biến chế tạo
Chuỗi cung ứng (supply chain) mạng lưới liên kết các nhân, tchức, nguồn tài
nguyên, hoạt động, công nghệ liên quan đến việc sản xuất, phân phối và giao hang hoá/
dịch vụ đến tay khách hang Chuỗi cung ứng trong ngành công nghiệp thực phẩm cũng
tuân theo cấu trúc tương tự.
Nguồn cung cấp nguyên vật liệu: Hầu hết nguyên vật liệu chính cho ngành chế
biến chế tạo, như thép, nhựa, và các linh kiện điện tử, vẫn phải nhập khẩu từ các
quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, và Nhật Bản.
Sản xuất và gia công: Đây là khâu chính của chuỗi cung ứng, bao gồm sản xuất,
lắp ráp gia công c sản phẩm như thiết bị điện tử, xe máy, hàng dệt may.
Các doanh nghiệp tại Việt Nam thường chỉ tập trung vào các công đoạn có giá trị
gia công thấp, trong khi các công đoạn giá trcao hơn như thiết kế, nghiên cứu
và phát triển (R&D) chủ yếu được thực hiện ở các quốc gia khác.
Phân phối bán hàng: Sau khi sản xuất, các sản phẩm được phân phối qua các
kênh bán hàng trong nước hoặc xuất khẩu.
Dịch vụ hậu cần logistics: Hệ thống hậu cần đóng vai trò quan trọng trong
chuỗi cung ứng.
1.2. Thực trạng chuỗi cung ứng toàn cầu của doanh nghiệp chế biến chế tạo Thứ
nhất, chuỗi cung ứng bị đứt gãy và gián đoạn do đại dịch Covid 19.
Đại dịch COVID-19 đã làm gián đoạn nghiêm trọng chuỗi cung ứng toàn cầu, khiến
nhiều ngành công nghiệp chế biến chế tạo gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động
sản xuất. Các nhà máy phải tạm ngừng hoạt động, nhiều quốc gia áp đặt lệnh phong
tỏa, gây ra tình trạng thiếu hụt nguyên liệu linh kiện. Điều này ảnh hưởng mạnh
đến các ngành phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài, chẳng hạn như ngành ô tô,
điện tử, dệt may. Ngay cả khi đại dịch đã dần được kiểm soát, sự đứt gãy chuỗi
cung ứng vẫn để lại nhiều hệ lụy, đặc biệt là tình trạng thiếu hụt chip bán dẫn trong
ngành công nghiệp điện tử và ô tô. Theo báo cáo của
lOMoARcPSD| 58950985
AlixPartners, ngành ô toàn cầu thiệt hại khoảng 210 tỷ USD trong năm 2021 do
sự thiếu hụt chip bán dẫn, ảnh hưởng đến sản lượng sản xuất khoảng 7,7 triệu xe.
Thứ hai, chuỗi cung ứng bị ảnh hưởng bởi xung đọt chính trị và thay đổi chính sách
thương mại.
Xung đột chính trị các cuộc chiến thương mại, đặc biệt giữa Mỹ Trung Quốc,
đã gây ra những tác động sâu sắc đến chuỗi cung ứng toàn cầu. Các biện pháp trừng
phạt và tăng thuế quan đã buộc nhiều công ty phải tái cơ cấu lại chuỗi cung ứng của
mình để giảm thiểu rủi ro. Điều này dẫn đến xu hướng đa dạng hóa nguồn cung,
chuyển dịch sản xuất từ Trung Quốc sang các quốc gia khác trong khu vực Đông
Nam Á, Ấn Độ và Mỹ Latinh.
Thứ ba, tình trạng thiếu hụt lao động áp lực về chi phí lao động đang diễn ra phổ
biến.
Ngành chế biến chế tạo toàn cầu đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động, nhất
tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật Bản, EU, nơi dân số đang già hóa.
Đồng thời, chi phí lao động tại c quốc gia sản xuất lớn như Trung Quốc cũng đang
tăng cao, buộc các doanh nghiệp phải tìm kiếm các giải pháp thay thế, bao gồm việc
tự động hóa và chuyển dịch sản xuất sang các quốc gia có chi phí thấp hơn.
II. Thực trạng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp chế biến
chế tạo Việt nam
2.1. Mặt tích cực
Thứ nhất, quy kim ngạch xuất khẩu ngành công nghiệp chế biến chế tạo không
ngừng gia tăng, chiếm ttrọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá
Việt Nam.
Hàng CNCBCT ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong nhiều m. Giai
đoạn 2011 - 2020, quy kim ngạch xuất khẩu hàng CNCBCT không ngừng gia
tăng. Quy mô xuất khẩu tăng 4,06 lần, kim ngạch xuất khẩu tăng từ 59.351,6 triệu USD
năm 2011 lên 127.333,0 triệu USD năm 2015, lên tới 240.787,9 triệu USD năm 2020.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu ng CNCBCT bình quân 18,70%/năm giai
đoạn 2011 - 2020, cao hơn so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
(14,62%/ năm). Kim ngạch xuất khẩu hàng CNCBCT ngày càng đóng góp quan trọng
vào tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa chung của cả ớc. Tỷ trọng kim ngạch xuất
khẩu hàng CNCBCT trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng lên
hàng năm, từ 61,25% năm 2011 lên 78,59% năm 2015 và lên tới 85,20% năm 2020.
lOMoARcPSD| 58950985
Hình 1. Kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến chế tạo của Việt Nam giai
đoạn 2011 - 2020
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Hải quan
Năm 2021, quy mô các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được mở rộng. Có 35 mặt hàng đạt
KNXK trên 1 tỷ USD, tăng 1 mặt hàng so với năm 2020 chiếm 93,8% tổng KNXK
(có 8 mặt hàng đạt KNXK trên 10 tỷ USD, tăng 2 mặt hàng so với năm 2020). Theo đó,
năm 2021 nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu
xuất khẩu, chiếm khoảng 86,24% tổng KNXK, tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm
trước. Đóng góp chung vào tăng trưởng xuất khẩu của cả nước sự tăng trưởng mạnh
của nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản khi tăng 24,4% nhóm hàng công nghiệp chế
biến tăng 20,4% so với cùng kỳ năm 2020; nhóm nông lâm sản thủy sản chỉ tăng 11,9%.
Sự gia tăng trong xuất khẩu các mặt hàng CBCT động lực của ng trưởng góp
phần tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt
Nam.
Theo số liệu thống bộ của Tổng cục Hải quan, tính đến ngày 15/12/2023, kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 337,62 tỷ USD. Trong đó, đóng góp quan trọng đến
từ nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với 7 mặt hàng xuất khẩu giá trị kim
ngạch trên 10 tỷ USD, chiếm 66,8% tổng kim ngạch xuất khẩu cả ớc. Các nhóm hàng
này bao gồm: điện tử linh kiện, máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng, máy vi tính
sản phẩm điện tử và linh kiện, dệt may, da giày và đồ gỗ. Điều đáng chú ý là xuất khẩu
các nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo lại giữ vai trò chủ đạo trong bối cảnh hoạt
động ng nghiệp gặp nhiều khó khăn, phục hồi chậm chạp, nhu cầu tiêu dùng các
hoạt động kinh tế suy giảm. Năm 2023, nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo đã
thực hiện tốt đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đã tăng mức xuất khẩu sang các nước
lOMoARcPSD| 58950985
châu Phi, Đông Âu, Bắc Âu và Tây Á để đắp cho sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu
sang các thị trường lớn (như: Mỹ, EU, Hàn Quốc). Nhìn chung, cấu hàng hóa xuất
khẩu cũng tiếp tục cải thiện theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng xuất khẩu thô, tăng xuất
khẩu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo. Điều này giúp hàng hóa Việt Nam tham gia
sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Thứ hai, các hiệp định thương mại tự do (FTA) mở ra hội cho chuỗi cung ứng toàn
cầu ngành công nghiệp chế biến chế tạo.
Tính đến năm 2023, Việt Nam đã kết thành công 15 FTA, bao gồm các FTA thế hệ
mới như CPTPP, UKVFTA, RCEP EVFTA. Việc thực thi hiệu quả 15 FTA đã giúp
cho Việt Nam mrộng đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, thâm nhập vào các thị
trường lớn, giảm thuế nhập khẩu và tăng sức cạnh tranh.. Các thị trường xuất khẩu chủ
yếu hàng CNCBCT của Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, EVFTA đã giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang EU tăng 7,5% trong năm đầu tiên hiệu lực. Đồng thời, kết FTA giúp
Việt Nam lợi thế thu hút nhà đầunước ngoài. Các công ty quốc tế thậm chí cả
các công ty Trung Quốc, bắt đầu tìm cách chuyển dịch sản xuất sang Việt Nam. Đây
hội để các doanh nghiệp nội địa tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng của các tập
đoàn công nghiệp toàn cầu.
Thứ ba, thực trạng xanh hóa chuỗi cung ứng ngành chế biến, chế tạo tại Việt Nam đang
có triển vọng.
Ngành chế biến chế tạo Việt Nam ghi nhận những con số ấn tượng về thu hút FDI cao,
minh chứng cho việc các doanh nghiệp trong ngành đang nỗ lực đáp ứng các tiêu chuẩn
xanh của thế giới. cấu ngành chiếm hơn 60% tổng vốn đầu FDI vào Việt Nam
trong những năm gần đây. Các công ty lớn như Samsung, LG, và Foxconn đã chọn Việt
Nam làm nơi đặt nhà máy sản xuất, giúp Việt Nam gia tăng năng lực tham gia vào chuỗi
cung ứng toàn cầu.Nhiều doanh nghiệp đã đạt được các chứng nhận quốc tế về sản xuất
xanh, bền vững. Bên cạnh đó, do u cầu của các nhà nhập khẩu nước ngoài, đặc biệt
Mỹ, EU, các nhà sản xuất gỗ chế biến thủy hải sản Việt Nam cũng đã nỗ lực tuân thủ
các quy định về nguồn gốc, xuất xứ, nhất là các điều kiện đối với gỗ khai thác trái phép.
Nhiều doanh nghiệp trong ngành đã tiên phong trong những chiến lược phát triển bền
vững xanh hóa chuỗi cung ứng, như: Vinamilk, Masan, Trung Nguyên, SamSung,
NS BlueScope Việt Nam... Trong chiến lược của mình, doanh nghiệp đã đề ra một loạt
nguyên tắc, như: tính chính trực minh bạch, đảm bảo môi trường bền vững, chống
biến đổi khí hậu, chuỗi cung ứng bền vững. Bên cạnh đó, nhờ chính sách hỗ trợ của Nhà
nước, nhiều chuỗi giá trị chế biến nông sản, thủy sản… hình thành theo các hình thức
lOMoARcPSD| 58950985
liên kết đa dạng, đảm bảo chia sẻ lợi ích rủi ro giữa doanh nghiệp người nông dân,
người nuôi trồng thủy sản. Các chuỗi cung ứng ứng dụng công nghệ mới giúp truy xuất
nguồn gốc sản phẩm, gia tăng giá trị, đảm bảo các tiêu chuẩn sản phẩm xanh.
2.2. Mặt hạn chế
Thứ nhất, xuất khẩu hàng CNCBCT vẫn chủ yếu phụ thuộc vào doanh nghiệp vốn
đầu tư nước ngoài.
Khu vực doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài chiếm khoảng 70% kim ngạch xuất
khẩu hàng CNCBCT, doanh nghiệp trong nước chỉ chiếm khoảng 30%. Ngay từ khi mở
cửa nền kinh tế, Việt Nam đã trthành điểm đến hấp dẫn các nhà đầu nước ngoài.
Tính đến ngày 20/12/2020, Việt Nam đã thu hút được 36.299 dự án, với tổng vốn đăng
ký 481.617 triệu USD, tổng vốn thực hiện đạt 231.453 triệu USD. Các nhà đầu tư nước
ngoài đã đầu tư vào 19 ngành lĩnh vực, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo
dẫn đầu với vốn đầu tư đạt 13,6 tỷ USD, chiếm 47,7% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Thứ hai, ngành chế biến, chế tạo tại Việt Nam còn lệ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu.
Theo Tổng cục Thống kê, khoảng 60-70% nguyên liệu sản xuất của ngành dệt may, da
giày công nghiệp điện tử vẫn phải nhập khẩu. Ngành vẫn mang nặng tính chất gia
công, lệ thuộc nhiều vào nước ngoài, chưa chiếm lĩnh được những vị trí vững chắc trong
chuỗi gia công toàn cầu và còn thiếu nền tảng để phát triển một cách độc lập. Ngoài ra,
công nghiệp chế biến, chế tạo chưa đáp ứng được việc cung cấp những thiết bị, công cụ
sản xuất tiên tiến, các sản phẩm hiện đại.
Thứ ba, hạn chế về quy mô, khả năng tham gia vàn cạnh tranh trong chuỗi cung ứng
của các doanh nghiệp trong ngành còn thấp.
Ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam tỷ lệ doanh nghiệp nội địa chiếm
đa số, nhưng phần lớn doanh nghiệp vừa nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ. Các doanh
nghiệp này thường ưu tiên cho việc giảm thiểu rủi ro tuân thủ luật pháp hơn các
sáng kiến môi trường rộng lớn toàn ngành. Trong khi, các doanh nghiệp vừa lớn
thường sẽ tiên tiến hơn trong thực tiễn quản lý chuỗi cung ứng xanh so với các doanh
nghiệp nhỏ hơn (Zhu và cộng sự, 2008). Những hạn chế về vốn, quy mô, khả năng đổi
mới ứng dụng công nghệ của các doanh nghiệp vừa nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ
cũng kìm hãm mức độ liên kết ngành, dẫn đến việc tham gia chuỗi cung ứng hình
thành chuỗi cung ứng xanh trong toàn ngành còn thấp. Cộng thêm, các rào cản xanh có
xu hướng ngày càng nhiều hơn, khắt khe hơn làm giảm tỷ lệ đơn hàng đáp ứng, đòi hỏi
nếu doanh nghiệp không chủ động đáp ng các tiêu chuẩn xanh hóa, thì hàng hóa không
thể vào các thị trường lớn.
lOMoARcPSD| 58950985
III. Xu hướng
Một là, chuyển đổi số và tự động hoá trong chuỗi cung ứng.
Chuyển đổi số tự động hóa đang trở thành yếu tố quan trọng trong chuỗi cung ứng
ngành chế biến chế tạo. Các công nghệ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI),
dữ liệu lớn (Big Data), blockchain giúp tối ưu hóa quá trình sản xuất, quản tn
kho, và dự báo nhu cầu. Những công nghệ này không chỉ giúp doanh nghiệp tăng năng
suất, giảm chi phí còn tăng khả năng linh hoạt giảm thiểu rủi ro khi chuỗi cung
ứng bị gián đoạn. Theo Deloitte, 35% doanh nghiệp chế biến chế tạo toàn cầu đã áp
dụng các giải pháp AI vào năm 2022 để nâng cao hiệu quả và giảm chi phí trong chuỗi
cung ứng. Các công ty sản xuất lớn như Siemens, Bosch General Electric đang chi
hàng tỷ USD vào trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn để tối ưu hóa chuỗi cung ứng.
Hai là, sự chuyển dịch sang chuỗi cung ứng xanh và bền vững.
Yêu cầu về phát triển bền vững đang trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu của
chuỗi cung ứng ngành chế biến chế tạo. Các doanh nghiệp toàn cầu phải tuân thủ các
tiêu chuẩn về i trường hội, chẳng hạn như giảm phát thải carbon, sử dụng
nguyên liệu tái chế, và thực hiện trách nhiệm xã hội. Xu hướng này chủ yếu được thúc
đẩy bởi các quy định khắt khe của các thị trường lớn như EU Mỹ, cũng như sự gia
tăng nhận thức của người tiêu dùng về sản phẩm bền vững. Theo khảo sát của McKinsey,
70% người tiêu dùng Bắc Mỹ châu Âu sẵn sàng trả thêm tiền cho các sản phẩm
thân thiện với môi trường, tạo áp lực cho các chuỗi cung ng ngành chế biến chế tạo
phải chuyển đổi sang mô hình bền vững. Vì vạy, ngành ng nghiệp ô tô, cụ thể các
hãng như Volkswagen và BMW, đã đầu tư hàng tỷ USD vào quy trình sản xuất xanh.
Ba là, sự gia tăng nhu cầu đối với các giải pháp chuỗi cung ứng ngắn và gần.
Để giảm thiểu rủi ro từ các biến động toàn cầu và chi phí logistics, nhiều doanh nghiệp
đang áp dụng chiến ợc "nearshoring" (tìm kiếm các nhà cung cấp gần gũi về địa lý)
"onshoring" (sản xuất trong nước). Việc xây dựng chuỗi cung ứng ngắn giúp giảm
thiểu chi phí vận chuyển, tăng tốc độ giao ng, dễ dàng kiểm soát chất lượng sản
phẩm. Xu hướng này đã dẫn đến sự gia tăng các khu ng nghiệp, đặc biệt các quốc
gia có vị trí địa lý thuận lợi. Theo báo cáo của Kearney, tỷ lệ sản xuất trong nước gần
kề (nearshoring) tại Mỹ tăng từ 8% năm 2019 lên 12% vào năm 2022 do các rủi ro từ
chuỗi cung ứng quốc tế và chi phí logistics tăng cao. Việc này nhằm giảm sự phụ thuộc
vào chuỗi cung ứng từ châu Á, giảm thời gian giao hàng tăng khả năng kiểm soát sản
xuất.
lOMoARcPSD| 58950985
IV. Giải pháp
Một là, đầu tư vào công nghệ và đào tạo nhân lực.
Các doanh nghiệp cần đổi mới chính sách chương trình đào tạo, dạy nghề về công
nghệ và kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường và phù hợp
với hội nhập kinh tế quốc tế. Mở rộng hoạt động hợp tác hội nhập quốc tế về dạy
nghề, phát triển thị trường lao động, an sinh hội… nhằm thu hút nguồn lực, kinh
nghiệm quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực. Đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số, thúc
đẩy phát triển khoa học công nghệ ngành công nghiệp, nâng cao năng lực, trình đ
quản lý sản xuất ngành công nghiệp, trên sở thúc đẩy mạnh doanh nghiệp thực hiện
các hệ thống tiêu chuẩn, quản chất ợng theo tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt về sức
khỏe, môi trường, để vượt qua các rào cản kỹ thuật trong thương mại tại các thị trường
xuất khẩu quan trọng.
Hai là, tập trung phát triển chuỗi cung ứng nội địa.
Nhà nước cần các chính sách khuyến khích sản xuất nguyên vật liệu trong nước, các chính
sách ưu đãi về thuế và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp trong nước sản xuất nguyên vật liệu, từ
đó giúp giảm phụ thuộc vào nhập khẩu. Đồng thời xây dựng hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ vừa phát triển, đặc biệt trong các ngành công
nghiệp hỗ trợ như sản xuất linh kiện, vật liệu công nghiệp, nhằm giảm chi phí và gia tăng tính
tự chủ.
Ba là, Xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp theo hướng xanh hoá chuỗi cung
ứng.
Doanh nghiệp cần ứng dụng các quy trình sản xuất thân thiện với môi trường để đáp
ứng các yêu cầu khắt khe từ các đối tác quốc tế, đồng thời tập trung vào phát triển sản
xuất bền vững, như giảm khí thải carbon và sử dụng nguyên liệu tái chế.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. https://tapchitaichinh.vn/giai-phap-xanh-hoa-chuoi-cung-ung-nganh-cong-
nghiepche-bien-che-tao-cho-viet-nam-trong-boi-canh-hoi-nhap.html
2. https://vioit.vn/uploads/plugin/file/150/noi-dung-so-07-dang-web.pdf
3. https://www.gso.gov.vn/default/2021/08/cong-nghiep-che-bien-che-tao-dong-
luctang-truong-kinh-te-viet-nam-giai-doan-2011-2020/
4. https://vioit.org.vn/vn/chien-luoc-chinh-sach/nganh-cong-nghiep-che-bien--che-
taocua-viet-nam-hien-nay--phan-1--4972.4050.html
lOMoARcPSD| 58950985
5. https://via.gov.vn/linh-vuc-cong-nghiep-che-bien-che-tao/doanh-nghiep-che-
bienche-tao-nhan-dien-thach-thuc-chu-dong-noi-lai-chuoi-cung-ung.htm
6. https://vioit.org.vn/vn/chien-luoc-chinh-sach/nganh-cong-nghiep-che-bien--che-
taocua-viet-nam-hien-nay--phan-2--4974.4050.html

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58950985
Họ & tên: Nguyễn Nguyên Hồng MSV: 11222532 LHP: 04
Trình bày thực trạng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt nam. Bài làm:
I. Tổng quan về chuỗi cung ứng ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam
1.1. Cấu trúc chuỗi cung ứng ngành công nghiệp chế biến chế tạo
Chuỗi cung ứng (supply chain) là mạng lưới liên kết các cá nhân, tổ chức, nguồn tài
nguyên, hoạt động, công nghệ liên quan đến việc sản xuất, phân phối và giao hang hoá/
dịch vụ đến tay khách hang Chuỗi cung ứng trong ngành công nghiệp thực phẩm cũng
tuân theo cấu trúc tương tự.
• Nguồn cung cấp nguyên vật liệu: Hầu hết nguyên vật liệu chính cho ngành chế
biến chế tạo, như thép, nhựa, và các linh kiện điện tử, vẫn phải nhập khẩu từ các
quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, và Nhật Bản.
• Sản xuất và gia công: Đây là khâu chính của chuỗi cung ứng, bao gồm sản xuất,
lắp ráp và gia công các sản phẩm như thiết bị điện tử, xe máy, và hàng dệt may.
Các doanh nghiệp tại Việt Nam thường chỉ tập trung vào các công đoạn có giá trị
gia công thấp, trong khi các công đoạn giá trị cao hơn như thiết kế, nghiên cứu
và phát triển (R&D) chủ yếu được thực hiện ở các quốc gia khác.
• Phân phối và bán hàng: Sau khi sản xuất, các sản phẩm được phân phối qua các
kênh bán hàng trong nước hoặc xuất khẩu.
• Dịch vụ hậu cần và logistics: Hệ thống hậu cần đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng.
1.2. Thực trạng chuỗi cung ứng toàn cầu của doanh nghiệp chế biến chế tạo Thứ
nhất, chuỗi cung ứng bị đứt gãy và gián đoạn do đại dịch Covid 19.
Đại dịch COVID-19 đã làm gián đoạn nghiêm trọng chuỗi cung ứng toàn cầu, khiến
nhiều ngành công nghiệp chế biến chế tạo gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động
sản xuất. Các nhà máy phải tạm ngừng hoạt động, nhiều quốc gia áp đặt lệnh phong
tỏa, gây ra tình trạng thiếu hụt nguyên liệu và linh kiện. Điều này ảnh hưởng mạnh
đến các ngành phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài, chẳng hạn như ngành ô tô,
điện tử, và dệt may. Ngay cả khi đại dịch đã dần được kiểm soát, sự đứt gãy chuỗi
cung ứng vẫn để lại nhiều hệ lụy, đặc biệt là tình trạng thiếu hụt chip bán dẫn trong
ngành công nghiệp điện tử và ô tô. Theo báo cáo của lOMoAR cPSD| 58950985
AlixPartners, ngành ô tô toàn cầu thiệt hại khoảng 210 tỷ USD trong năm 2021 do
sự thiếu hụt chip bán dẫn, ảnh hưởng đến sản lượng sản xuất khoảng 7,7 triệu xe.
Thứ hai, chuỗi cung ứng bị ảnh hưởng bởi xung đọt chính trị và thay đổi chính sách thương mại.
Xung đột chính trị và các cuộc chiến thương mại, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc,
đã gây ra những tác động sâu sắc đến chuỗi cung ứng toàn cầu. Các biện pháp trừng
phạt và tăng thuế quan đã buộc nhiều công ty phải tái cơ cấu lại chuỗi cung ứng của
mình để giảm thiểu rủi ro. Điều này dẫn đến xu hướng đa dạng hóa nguồn cung,
chuyển dịch sản xuất từ Trung Quốc sang các quốc gia khác trong khu vực Đông
Nam Á, Ấn Độ và Mỹ Latinh.
Thứ ba, tình trạng thiếu hụt lao động và áp lực về chi phí lao động đang diễn ra phổ biến.
Ngành chế biến chế tạo toàn cầu đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động, nhất
là tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật Bản, và EU, nơi dân số đang già hóa.
Đồng thời, chi phí lao động tại các quốc gia sản xuất lớn như Trung Quốc cũng đang
tăng cao, buộc các doanh nghiệp phải tìm kiếm các giải pháp thay thế, bao gồm việc
tự động hóa và chuyển dịch sản xuất sang các quốc gia có chi phí thấp hơn.
II. Thực trạng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp chế biến chế tạo Việt nam 2.1. Mặt tích cực
Thứ nhất, quy mô và kim ngạch xuất khẩu ngành công nghiệp chế biến chế tạo không
ngừng gia tăng, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá Việt Nam.
Hàng CNCBCT là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong nhiều năm. Giai
đoạn 2011 - 2020, quy mô và kim ngạch xuất khẩu hàng CNCBCT không ngừng gia
tăng. Quy mô xuất khẩu tăng 4,06 lần, kim ngạch xuất khẩu tăng từ 59.351,6 triệu USD
năm 2011 lên 127.333,0 triệu USD năm 2015, lên tới 240.787,9 triệu USD năm 2020.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng CNCBCT bình quân 18,70%/năm giai
đoạn 2011 - 2020, cao hơn so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
(14,62%/ năm). Kim ngạch xuất khẩu hàng CNCBCT ngày càng đóng góp quan trọng
vào tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa chung của cả nước. Tỷ trọng kim ngạch xuất
khẩu hàng CNCBCT trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng lên
hàng năm, từ 61,25% năm 2011 lên 78,59% năm 2015 và lên tới 85,20% năm 2020. lOMoAR cPSD| 58950985
Hình 1. Kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến chế tạo của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Hải quan
Năm 2021, quy mô các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được mở rộng. Có 35 mặt hàng đạt
KNXK trên 1 tỷ USD, tăng 1 mặt hàng so với năm 2020 và chiếm 93,8% tổng KNXK
(có 8 mặt hàng đạt KNXK trên 10 tỷ USD, tăng 2 mặt hàng so với năm 2020). Theo đó,
năm 2021 nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu
xuất khẩu, chiếm khoảng 86,24% tổng KNXK, tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm
trước. Đóng góp chung vào tăng trưởng xuất khẩu của cả nước là sự tăng trưởng mạnh
của nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản khi tăng 24,4% và nhóm hàng công nghiệp chế
biến tăng 20,4% so với cùng kỳ năm 2020; nhóm nông lâm sản thủy sản chỉ tăng 11,9%.
Sự gia tăng trong xuất khẩu các mặt hàng CBCT là động lực của tăng trưởng và góp
phần tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, tính đến ngày 15/12/2023, kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 337,62 tỷ USD. Trong đó, đóng góp quan trọng đến
từ nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với 7 mặt hàng xuất khẩu có giá trị kim
ngạch trên 10 tỷ USD, chiếm 66,8% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Các nhóm hàng
này bao gồm: điện tử và linh kiện, máy móc thiết bị, dụng cụ và phụ tùng, máy vi tính
sản phẩm điện tử và linh kiện, dệt may, da giày và đồ gỗ. Điều đáng chú ý là xuất khẩu
các nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo lại giữ vai trò chủ đạo trong bối cảnh hoạt
động công nghiệp gặp nhiều khó khăn, phục hồi chậm chạp, nhu cầu tiêu dùng và các
hoạt động kinh tế suy giảm. Năm 2023, nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo đã
thực hiện tốt đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đã tăng mức xuất khẩu sang các nước lOMoAR cPSD| 58950985
châu Phi, Đông Âu, Bắc Âu và Tây Á để bù đắp cho sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu
sang các thị trường lớn (như: Mỹ, EU, Hàn Quốc). Nhìn chung, cơ cấu hàng hóa xuất
khẩu cũng tiếp tục cải thiện theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng xuất khẩu thô, tăng xuất
khẩu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo. Điều này giúp hàng hóa Việt Nam tham gia
sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Thứ hai, các hiệp định thương mại tự do (FTA) mở ra cơ hội cho chuỗi cung ứng toàn
cầu ngành công nghiệp chế biến chế tạo.
Tính đến năm 2023, Việt Nam đã ký kết thành công 15 FTA, bao gồm các FTA thế hệ
mới như CPTPP, UKVFTA, RCEP và EVFTA. Việc thực thi có hiệu quả 15 FTA đã giúp
cho Việt Nam mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, thâm nhập vào các thị
trường lớn, giảm thuế nhập khẩu và tăng sức cạnh tranh.. Các thị trường xuất khẩu chủ
yếu hàng CNCBCT của Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, EVFTA đã giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang EU tăng 7,5% trong năm đầu tiên có hiệu lực. Đồng thời, ký kết FTA giúp
Việt Nam có lợi thế thu hút nhà đầu tư nước ngoài. Các công ty quốc tế và thậm chí cả
các công ty Trung Quốc, bắt đầu tìm cách chuyển dịch sản xuất sang Việt Nam. Đây là
cơ hội để các doanh nghiệp nội địa tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng của các tập
đoàn công nghiệp toàn cầu.
Thứ ba, thực trạng xanh hóa chuỗi cung ứng ngành chế biến, chế tạo tại Việt Nam đang có triển vọng.
Ngành chế biến chế tạo Việt Nam ghi nhận những con số ấn tượng về thu hút FDI cao,
minh chứng cho việc các doanh nghiệp trong ngành đang nỗ lực đáp ứng các tiêu chuẩn
xanh của thế giới. Cơ cấu ngành chiếm hơn 60% tổng vốn đầu tư FDI vào Việt Nam
trong những năm gần đây. Các công ty lớn như Samsung, LG, và Foxconn đã chọn Việt
Nam làm nơi đặt nhà máy sản xuất, giúp Việt Nam gia tăng năng lực tham gia vào chuỗi
cung ứng toàn cầu.Nhiều doanh nghiệp đã đạt được các chứng nhận quốc tế về sản xuất
xanh, bền vững. Bên cạnh đó, do yêu cầu của các nhà nhập khẩu nước ngoài, đặc biệt là
Mỹ, EU, các nhà sản xuất gỗ và chế biến thủy hải sản Việt Nam cũng đã nỗ lực tuân thủ
các quy định về nguồn gốc, xuất xứ, nhất là các điều kiện đối với gỗ khai thác trái phép.
Nhiều doanh nghiệp trong ngành đã tiên phong trong những chiến lược phát triển bền
vững và xanh hóa chuỗi cung ứng, như: Vinamilk, Masan, Trung Nguyên, SamSung,
NS BlueScope Việt Nam... Trong chiến lược của mình, doanh nghiệp đã đề ra một loạt
nguyên tắc, như: tính chính trực và minh bạch, đảm bảo môi trường bền vững, chống
biến đổi khí hậu, chuỗi cung ứng bền vững. Bên cạnh đó, nhờ chính sách hỗ trợ của Nhà
nước, nhiều chuỗi giá trị chế biến nông sản, thủy sản… hình thành theo các hình thức lOMoAR cPSD| 58950985
liên kết đa dạng, đảm bảo chia sẻ lợi ích và rủi ro giữa doanh nghiệp và người nông dân,
người nuôi trồng thủy sản. Các chuỗi cung ứng ứng dụng công nghệ mới giúp truy xuất
nguồn gốc sản phẩm, gia tăng giá trị, đảm bảo các tiêu chuẩn sản phẩm xanh. 2.2. Mặt hạn chế
Thứ nhất, xuất khẩu hàng CNCBCT vẫn chủ yếu phụ thuộc vào doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 70% kim ngạch xuất
khẩu hàng CNCBCT, doanh nghiệp trong nước chỉ chiếm khoảng 30%. Ngay từ khi mở
cửa nền kinh tế, Việt Nam đã trở thành điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Tính đến ngày 20/12/2020, Việt Nam đã thu hút được 36.299 dự án, với tổng vốn đăng
ký 481.617 triệu USD, tổng vốn thực hiện đạt 231.453 triệu USD. Các nhà đầu tư nước
ngoài đã đầu tư vào 19 ngành lĩnh vực, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo
dẫn đầu với vốn đầu tư đạt 13,6 tỷ USD, chiếm 47,7% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Thứ hai, ngành chế biến, chế tạo tại Việt Nam còn lệ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu.
Theo Tổng cục Thống kê, khoảng 60-70% nguyên liệu sản xuất của ngành dệt may, da
giày và công nghiệp điện tử vẫn phải nhập khẩu. Ngành vẫn mang nặng tính chất gia
công, lệ thuộc nhiều vào nước ngoài, chưa chiếm lĩnh được những vị trí vững chắc trong
chuỗi gia công toàn cầu và còn thiếu nền tảng để phát triển một cách độc lập. Ngoài ra,
công nghiệp chế biến, chế tạo chưa đáp ứng được việc cung cấp những thiết bị, công cụ
sản xuất tiên tiến, các sản phẩm hiện đại.
Thứ ba, hạn chế về quy mô, khả năng tham gia vàn cạnh tranh trong chuỗi cung ứng
của các doanh nghiệp trong ngành còn thấp.
Ngành công nghiệp chế biến và chế tạo Việt Nam có tỷ lệ doanh nghiệp nội địa chiếm
đa số, nhưng phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ. Các doanh
nghiệp này thường ưu tiên cho việc giảm thiểu rủi ro và tuân thủ luật pháp hơn là các
sáng kiến môi trường rộng lớn toàn ngành. Trong khi, các doanh nghiệp vừa và lớn
thường sẽ tiên tiến hơn trong thực tiễn quản lý chuỗi cung ứng xanh so với các doanh
nghiệp nhỏ hơn (Zhu và cộng sự, 2008). Những hạn chế về vốn, quy mô, khả năng đổi
mới và ứng dụng công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ
cũng kìm hãm mức độ liên kết ngành, dẫn đến việc tham gia chuỗi cung ứng và hình
thành chuỗi cung ứng xanh trong toàn ngành còn thấp. Cộng thêm, các rào cản xanh có
xu hướng ngày càng nhiều hơn, khắt khe hơn làm giảm tỷ lệ đơn hàng đáp ứng, đòi hỏi
nếu doanh nghiệp không chủ động đáp ứng các tiêu chuẩn xanh hóa, thì hàng hóa không
thể vào các thị trường lớn. lOMoAR cPSD| 58950985 III. Xu hướng
Một là, chuyển đổi số và tự động hoá trong chuỗi cung ứng.
Chuyển đổi số và tự động hóa đang trở thành yếu tố quan trọng trong chuỗi cung ứng
ngành chế biến chế tạo. Các công nghệ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI),
dữ liệu lớn (Big Data), và blockchain giúp tối ưu hóa quá trình sản xuất, quản lý tồn
kho, và dự báo nhu cầu. Những công nghệ này không chỉ giúp doanh nghiệp tăng năng
suất, giảm chi phí mà còn tăng khả năng linh hoạt và giảm thiểu rủi ro khi chuỗi cung
ứng bị gián đoạn. Theo Deloitte, 35% doanh nghiệp chế biến chế tạo toàn cầu đã áp
dụng các giải pháp AI vào năm 2022 để nâng cao hiệu quả và giảm chi phí trong chuỗi
cung ứng. Các công ty sản xuất lớn như Siemens, Bosch và General Electric đang chi
hàng tỷ USD vào trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn để tối ưu hóa chuỗi cung ứng.
Hai là, sự chuyển dịch sang chuỗi cung ứng xanh và bền vững.
Yêu cầu về phát triển bền vững đang trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu của
chuỗi cung ứng ngành chế biến chế tạo. Các doanh nghiệp toàn cầu phải tuân thủ các
tiêu chuẩn về môi trường và xã hội, chẳng hạn như giảm phát thải carbon, sử dụng
nguyên liệu tái chế, và thực hiện trách nhiệm xã hội. Xu hướng này chủ yếu được thúc
đẩy bởi các quy định khắt khe của các thị trường lớn như EU và Mỹ, cũng như sự gia
tăng nhận thức của người tiêu dùng về sản phẩm bền vững. Theo khảo sát của McKinsey,
70% người tiêu dùng ở Bắc Mỹ và châu Âu sẵn sàng trả thêm tiền cho các sản phẩm
thân thiện với môi trường, tạo áp lực cho các chuỗi cung ứng ngành chế biến chế tạo
phải chuyển đổi sang mô hình bền vững. Vì vạy, ngành công nghiệp ô tô, cụ thể là các
hãng như Volkswagen và BMW, đã đầu tư hàng tỷ USD vào quy trình sản xuất xanh.
Ba là, sự gia tăng nhu cầu đối với các giải pháp chuỗi cung ứng ngắn và gần.
Để giảm thiểu rủi ro từ các biến động toàn cầu và chi phí logistics, nhiều doanh nghiệp
đang áp dụng chiến lược "nearshoring" (tìm kiếm các nhà cung cấp gần gũi về địa lý)
và "onshoring" (sản xuất trong nước). Việc xây dựng chuỗi cung ứng ngắn giúp giảm
thiểu chi phí vận chuyển, tăng tốc độ giao hàng, và dễ dàng kiểm soát chất lượng sản
phẩm. Xu hướng này đã dẫn đến sự gia tăng các khu công nghiệp, đặc biệt ở các quốc
gia có vị trí địa lý thuận lợi. Theo báo cáo của Kearney, tỷ lệ sản xuất trong nước và gần
kề (nearshoring) tại Mỹ tăng từ 8% năm 2019 lên 12% vào năm 2022 do các rủi ro từ
chuỗi cung ứng quốc tế và chi phí logistics tăng cao. Việc này nhằm giảm sự phụ thuộc
vào chuỗi cung ứng từ châu Á, giảm thời gian giao hàng và tăng khả năng kiểm soát sản xuất. lOMoAR cPSD| 58950985 IV. Giải pháp
Một là, đầu tư vào công nghệ và đào tạo nhân lực.
Các doanh nghiệp cần đổi mới chính sách và chương trình đào tạo, dạy nghề về công
nghệ và kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường và phù hợp
với hội nhập kinh tế quốc tế. Mở rộng hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế về dạy
nghề, phát triển thị trường lao động, an sinh xã hội… nhằm thu hút nguồn lực, kinh
nghiệm quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực. Đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số, thúc
đẩy phát triển khoa học công nghệ ngành công nghiệp, và nâng cao năng lực, trình độ
quản lý sản xuất ngành công nghiệp, trên cơ sở thúc đẩy mạnh doanh nghiệp thực hiện
các hệ thống tiêu chuẩn, quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là về sức
khỏe, môi trường, để vượt qua các rào cản kỹ thuật trong thương mại tại các thị trường xuất khẩu quan trọng.
Hai là, tập trung phát triển chuỗi cung ứng nội địa.
Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích sản xuất nguyên vật liệu trong nước, các chính
sách ưu đãi về thuế và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp trong nước sản xuất nguyên vật liệu, từ
đó giúp giảm phụ thuộc vào nhập khẩu. Đồng thời xây dựng hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, đặc biệt là trong các ngành công
nghiệp hỗ trợ như sản xuất linh kiện, vật liệu công nghiệp, nhằm giảm chi phí và gia tăng tính tự chủ.
Ba là, Xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp theo hướng xanh hoá chuỗi cung ứng.
Doanh nghiệp cần ứng dụng các quy trình sản xuất thân thiện với môi trường để đáp
ứng các yêu cầu khắt khe từ các đối tác quốc tế, đồng thời tập trung vào phát triển sản
xuất bền vững, như giảm khí thải carbon và sử dụng nguyên liệu tái chế.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. https://tapchitaichinh.vn/giai-phap-xanh-hoa-chuoi-cung-ung-nganh-cong-
nghiepche-bien-che-tao-cho-viet-nam-trong-boi-canh-hoi-nhap.html
2. https://vioit.vn/uploads/plugin/file/150/noi-dung-so-07-dang-web.pdf
3. https://www.gso.gov.vn/default/2021/08/cong-nghiep-che-bien-che-tao-dong-
luctang-truong-kinh-te-viet-nam-giai-doan-2011-2020/
4. https://vioit.org.vn/vn/chien-luoc-chinh-sach/nganh-cong-nghiep-che-bien--che-
taocua-viet-nam-hien-nay--phan-1--4972.4050.html lOMoAR cPSD| 58950985
5. https://via.gov.vn/linh-vuc-cong-nghiep-che-bien-che-tao/doanh-nghiep-che-
bienche-tao-nhan-dien-thach-thuc-chu-dong-noi-lai-chuoi-cung-ung.htm
6. https://vioit.org.vn/vn/chien-luoc-chinh-sach/nganh-cong-nghiep-che-bien--che-
taocua-viet-nam-hien-nay--phan-2--4974.4050.html