




Preview text:
lOMoAR cPSD| 61591627
Tình hình thương nghiệp từ thế kỷ XVII – XVIII Nội thương
Chợ: Ở nông thôn chợ là trung tâm kinh tế, trao đổi hàng hóa của một vùng, của
một xã hay của một làng, người dân mang đến đây các loại nông sản, lương thực, thực
phẩm, công cụ lao động, đồ dùng gia đình,… để mua bán, trao đổi,. Có nhiều hình
thức chợ khác nhau như chợ họp hằng ngày, chợ phiên, chợ vùng, chợ chùa. Vào thế
kỷ XVIII, ở Thăng Long có 8 chợ lớn như chợ Cửa Đông, Cửa
Nam, Chợ Huyện, chờ Đình Ngang,…
Ở trung dun, vùng núi, mật độ chùa thưa hơn.
Ở Đàng Ngoài vào thế kỷ XVIII nổi lên hiện tượng chợ Chùa, vì hai lí do: Thu
nhập từ chợ được đưa lại cho chợ chùa quản lý, đất đai xây dựng chợ và những đất
mọi người cúng thêm cho chợ đều thuộc quyền sở hữu của chùa.
Như vậy, chợ chùa ở thế kỷ 17 đã thay đổi trách nhiệm của chợ làng, trở thành trung
tâm giao lưu trao đổi buôn bán của cộng đồng
Ở Đàng Trong, kinh tế phát triển, chợ mọc lên rất nhiều ở các địa phương, mỗi phủ
đều có nhiều chợ lớn.
Khoảng cuối thế kỷ XVIII, Sài Gòn ngày nay có các chợ: chợ Bến Nghé, Chợ Cây
Đa, Chợ Bến Thành, chợ Lớn..
Cả Đàng Trong và Đàng Ngoài đều buôn bán tấp nập giữa các vùng. Ngoại thương
Từ đầu thế kỷ XVIII, cả Đàng trong và Đàng ngoài, chính quyền phong kiến thi hành
chính sách mở cửa về ngoại thương với ý đồ lợi dụng các nước phương Tây để phát
triển về quân sự và kinh tế.
Quan hệ buôn bán với các nước phương Đông buôn bán với Trung Quốc:
Vào thế kỷ XVII, Hoa kiều là những thần dân trung thành với nhà Minh, không muốn
ở tổ quốc với chính quyền triều Thanh nên đã có những đợt di cư lớn. Hoa kiều ở Việt
Nam, làm rất nhiều nghề nhưng phổ biến là buôn bán. Đóng góp quan trong trọng
hđộng thương nghiệp ở Việt Nam các thế kỉ XVII, XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX.
Người Hoa buôn bán với Việt Nam bằng đường bộ và đường biển. Ở Đàng Ngoài,
các thuyền đi theo cửa sông Bạch Đằng, cửa sông Thái Bình, sông Đáy để đến Phố
Hiến hay Kẻ chợ. Ở Đàng Trong, (miss) lOMoAR cPSD| 61591627
Buôn bán với Nhật Bản
Trong khoảng năm từ 1604 – 1635, có hơn 100 thuyền Nhật đến Việt Nam buôn bán.
Chúa Nguyễn còn dành sự ưu đãi cho các thương gia Nhật, Nguyễn Hoàng còn nhận
phái viên Honamoto Yabeije làm con nuôi. Năm 1619, gả con gái cho thương gia Nhật là Araki Sataoo.
Người Nhật ở Đàng Trong được phép mở cửa hàng, lập phố buôn bán ở thương cảng
Hội An. Thuyền buôn Nhật lui tới cả Đàng Trong và Đàng Ngoài vì ở đây mua được tất cả
hàng hóa của Trung Quốc (miss)
Quan hệ buồn bán với các nước phương Tây Buôn bán với Bồ Đào Nha:
Các giáo sĩ và thương nhân Bồ Đào Nha là những người người phương Tây đầu tiên
có mặt tại Việt Nam. Họ đến buôn bán ở Hội An từ đầu thế kỷ XVI, đến TK XVII
vẫn là những đại biểu chính của đô thị này.
Các thương nhân Bồ Đào Nha bán vũ khí và nguyên liệu cần cho chính quyền Đàng
Trong, dạy cho chúa Nguyễn kĩ thuật đúc súng, đã mở một xưởng đúc ở Đàng Trong.
Người Bồ Đào Nha mang đến Đàng Trong và Đàng Ngoài các loại hàng hóa: vũ khí,
diêm sinh, chì, kẽm, đồng, đồ sứ,..
Thuyền buồm Bồ Đào Nha xuất phát từ căn cứ mà họ chiếm được là Ma Cao. Buôn bán với Hà Lan
Các lái buôn Hà Lan biết đến thị trường Đàng Trong qua các lái buôn người Nhật. Năm
1618, chúa Nguyễn gửi thử cho công ty Đông Ấn Hà Lan (V.O.C) ở Malacca (Malaysia)
đề nghị họ tới Đàng Trong buôn bán. Năm 1636, Công ty Đông  (miss)
Đầu năm 1637, chiều tàu của Công ty Đông Ấn do Carel Hartsinck chỉ huy đã đến
Đàng Ngoài, được chúa Trịnh Tráng tiếp đón nồng nhiệt và chỉ cho phép xây dựng
thương điếm tại Phố Hiến. Năm 1640, Hà Lan đã lập được thương điếm ở Thăng Long.
Những hàng hóa thu gom tại Phố Hiến, Thăng Ling được đem bán cho người Nhật
ngay tại nước Nhật. Vì sao?
Trong khi làm ăn phát đạt tại Đàng Ngoài, các thương nhân Hà Lan vẫn chú ý đến thị
trường Đàng Trong. Tuy nhiên họ đã không còn được chúa Nguyễn tin tưởng. Năm
1641, hai chiếc tàu Hà lan bị đắm ở Cù Lao Chàm, bị chính quyền tịch thu hàng hóa, lOMoAR cPSD| 61591627
bắt giữ thủy thủ, các lái buôn buộc phải đóng cửa thương điếm và không được miễn thuế như trước nữa.
Các lái buôn Hà Lan lợi dụng chiến tranh Trịnh – Nguyễn để mua chuộc chính quyền
họ Trịnh bằng cách không chỉ mua bán vũ khí mà còn nhúng tay vào các hoạt động
quân sự chống lại họ Nguyễn ở Đàng Trong. Trong các năm 1642,1643 (miss)
Buôn bán với Vương Quốc Anh
Công ty Đông Ấn bắt đầu chú ý đến Việt Nam từ thế kỷ XVII. Năm 1616, Người
Anh đến Đàng Ngoài buôn bán nhưng không thu được kết quả. Đầu năm 1673,
thương nhân Gyfford của Anh được gặp chúa Trịnh. Chúa Trịnh cho phép người
Anh đến buôn bán ở Đàng Ngoài, đặt một điếm ở Phố Hiến, sau đó là Kẻ Chợ. Các
lái buôn Anh và Hà Lan cạnh tranh nhau kịch liệt ở Đàng Ngoài.
Do khó khăn trong việc mua bán như hàng hóa đắt đỏ, thu gom không được tiến
hành trực tiếp mà phải nhờ các quan lại địa phương. Người Anh đóng cửa của
thương điếm Đàng Ngoài vào năm 1697.
Năm 1702, Công ty Đông Ấn Anh trắng trợn chiếm đoạt đảo Côn Lôn, một nơi
cóc vị trí chiến lược trên đường hàng hải quốc tế (miss) Buôn bán với Pháp:
Năm 1680, chiếc thuyền buôn của Pháp lên đường tới Việt Nam, khi tàu đến Đàng
Ngoài, Chappelin biếu chúa Trịnh rất nhiều quà, bán hàng hóa rẻ hơn lái buô Anh.
Họ được mở thương điếm tại phố Hiến.
Ở Đàng Trong, từ cuối thế kỷ XVII, tư bản Pháp đã dòm ngó đảo Côn Lôn, có ý
định xâm chiếm đảo nhưng chưa thực hiện thì quân Anh đã nhanh chân hơn. Sang
thế kỉ XVIII, tình hình ngoại thương của Việt Nam với các nước phương Tây sa sút
dần. Thương điếm của các công ty tư bản ở các thành phố lớn như
Phố Hiến, Hội An, Thăng Long lần lượt đóng cửa. Chỉ còn lái buôn Anh và Bồ
Đào Nha, Trung Quốc, với các chuyến buôn lẻ tẻ. Lúc này, người Pháp vẫn kiên
trì đặt mối quan hệ buôn bán và nhanh chóng tính đến việc đều tra tình hình cho
cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa.
Ảnh hưởng của ngoại thương đối với sự phát triển của kinh tế thế kỷ XVII – XVIII
Từ thế kỷ XVII – XVIII, ngoại thương Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, bên
cạnh các mối giao thương với các nước láng giềng, các nước Đông Nam Á, đã xuất
hiện đối tác đại biểu các thế lực tư bản Phương Tây.
Việc mở rộng một số quan hệ ngoại thương đã kích thích một số ngành kinh tế trong
nước phát triển như: ươm tơ, dệt, gốm, làm đường,… các sản vật tự nhiên trong
nước được xuất khẩu nhiều và có giá trị cao hơn. lOMoAR cPSD| 61591627
Đẩy nhanh giao lưu hàng hóa trong nước, thúc đẩy hoạt động và tăng thêm vốn liếng,
kinh nghiệm cho thương nhân Việt Nam.
Làm cho thị trường nước ta trở nên phồn thịnh, hiện đại hơn, làm cho sản xuất thủ
công nghiệp và sản xuất nông nghiệp bớt đi tính tự túc lạc hậu.
Ngoại thương Việt Nam có bước phát triển mạnh mẽ ở thế kỷ XVII. Nhưng từ cuối
thế kỷ XVII sang đầu thế kỷ XVIII, lượng thuyền buôn phương Tây đến Việt Nam lOMoAR cPSD| 61591627
THƯƠNG NGHIỆP ( NGOẠI THƯƠNG )
Buôn bán giao dịch với một số nước láng giềng và một số nước trong khu vực Đông Nam Á.
Ở vùng biên giới chung giữa nước ta với các nước Trung Quốc, Ai Lao đều có các
trường giao dịch hoạt động, đó là các chợ biên giới phía Bắc.
Trên tuyến đường biển, các thuyền buôn TQ, Xiêm, Chà Và, Ma Cao…qua lại thông
thương dễ hơn thuyền buôn của Phương Tây.
Quan hệ buôn bán với một số nước tư bản phương Tây
Tháng 7/1803, người Hồng Mao (Anh) đến dâng lễ vật quý và xin lập buôn bán ở Sơn
Trà (Quảng Nam), vua Gia Long trả lại lễ vật và từ chối.
Tháng 5/1804, người Hồng Mao lại
Ndung ôn thi: tình hình buôn bán nội/ngoại thương của việt nam với các nước.
Tình hình thương nghiệp ở thế kỷ 17,18
Thương nghiệp (từ XI-XV LÝ TRẦN LÊ)
Quan hệ đối ngoại (từ XI-XV)
Chế độ phong kiến của đàng ngoài và đàng trong ở thế kỉ 18
Thương nghiệp nhà Nguyễn ở thế kỷ XIX (nội/ngoại thương)z1