Thuyết pháp luật thực chứng ? Chủ nghĩa
thực chứng pháp lý.
1. Khái niệm thuyết pháp luật thực chứng
Thuyết pháp luật thực chứng học thuyết về pháp luật hình thành trên sở
tưởng triết học chủ nghĩa thực chứng hay còn gọi chủ nghĩa thực
nghiệm người sáng lập Ô. Công (August Comte; 1798-1857). Xuất
phát từ cái gốc tình đoàn kết tồn tại chi phối hội. Thuyết pháp luật
thực chứng yếu tố tích cực thuyết minh cho tính đáng tin cậy của
pháp luật, thỏa mãn được nhu cầu chung về tính đáng tin cậy, minh bạch của
pháp luật. Nhưng ràng rất phiến diện, thừa nhận tính đạo đức,
hợp lí, đáp ứng nhu cầu phát triển của hội đối với văn bản pháp luật.
2. Nội dung của học thuyết pháp luật thực chứng
Côngtơ trình bày hệ tưởng của mình trong tác phẩm “Giáo trình triết học
khẳng định" (1830 - 1842) tác phẩm 4 tập “Hệ thống chính trị khẳng định”
(1851 - 1854). Về mặt triết học, Côngtơ chủ trương con người không khả
năng thâm nhập vào bản chất của sự vật, tri thức của con người bị giới hạn
bằng kinh nghiệm, sự tả hiện tượng, phát hiện các mối liên hệ c
quan hệ giữa chúng với nhau. Con người chỉ thể tiếp cận với các quy luật
của hiện tượng. Đối với ông, không thể tri thức tuyệt đối - đó nguyên tắc
duy nhất, tuyệt đối của ông. V mặt khoa học, Côngtơ ch trương phải lấy sự
thực con người đã trải qua làm sở lấy thực nghiệm, quan sát làm
phương pháp nghiên cứu khoa học. Ông tự nhận mình người cải tạo, ch
tân c khoa học ông người đã đề ra chủ trương lấy hội học làm
khoa học chung về các hiện ợng hội c quy luật của hoàn
toàn thích hợp với mọi thời đại mọi dân tộc. hội học của Côngtơ được
chia thành hai phần: Phần thứ nhất “Thống kê” chuyên nghiên cứu cấu
hội Phần thứ hai “Động thái” chuyên nghiên cứu sự phát triển của
hội cả hai được th hiện thành phương thức biểu đạt “trật tự tiến bộ”
được ông trình bày đầu bìa cuốn sách: “Hệ thống chính trị khẳng định của
Côngtơ”. Đó cũng hai đề tài chủ yếu của hệ thống triết học hội của ông.
Côngtơ chủ trương “Trật tự” với nghĩa duy trì chế độ hội hiện tổn, ủng
hộ tình trạng không thể lay chuyển của quan hệ bản chủ nghĩa chủ
trương sự “tiến bộ” với nghĩa sự phát triển a bình, không bị gián đoạn
bởi c cuộc cải tạo cách mạng đối với hội sản. hội như một tổng
thể hữu đối tượng ông dành sự trọng tâm chú ý trong đó. Tình đoàn
kết hiện thân mối quan hệ của con người các nhóm hội. Ông thừa
nhận trong hội đương thời sản sản những giai cấp đối lập
nhưng sự đoàn kết sẽ liên kết họ trong mọi hội đều tổn tại một mục tiêu
chung sự thống nhất hài hòa nhất định. Hài hòa là một trạng thái tồn tại
khắp mọi chốn, nơi tồn tại một h thống nhất định nào đó. Côngtơ tuyên bố:
Không một hội nào thể tồn tại nếu người ới không tôn trọng người
trên, người mạnh không giữ quyền thống trị phải đi phục vụ kẻ yếu. Xuất
phát từ cái gốc tình đoàn kết tồn tại chỉ phối hội, Côngtơ đả kích một
cách mạnh mẽ c quyền. Côngtơ khẳng định triết học của mình không thừa
nhận bất một thứ quyền nào ngoài cái quyền chấp hành nghĩa vụ của mình.
Khái niệm quyền phải được biến mất khỏi lĩnh vực chính trị cũng như khái
niệm nguyên nhân - khỏi lĩnh vực triết học. Con người sinh ra bởi các nghĩa
vụ với các nghĩa vụ đó sống cả cuộc đời mình. Tất cả mọi quyền đều
phải được thủ tiêu. Đi theo hướng đó, những người theo trường phái pháp
luật thực chứng chủ trương y dựng nhà nước cực quyền. Goblooc, một
người theo trường phái này, khẳng định sức mạnh pháp của đạo luật bắt
nguồn từ chỗ mệnh lệnh của người đứng đầu một nhà nước, lực
lượng nguồn gốc đầu tiên sinh ra pháp luật pháp luật do n nước
đặt ra một thứ văn bản tính mệnh lệnh tất cả những do nhà nước
quy định thì đều phải được xem pháp luật, ngay cả những đạo luật cực
nhân đạo vẫn giữ nguyên giá trị đó một phần của hệ thống pháp luật
của nhà nước. Tất nhiên, thuyết pháp luật thực chứng yếu tố tích cực
thuyết minh cho tính đáng tin cậy của pháp luật, thỏa mãn được nhu cầu
chung về tính đáng tin cậy, minh bạch của pháp luật. Nhưng ràng nó rất
phiến diện, không thừa nhận tính đạo đức, hợp lí, đáp ng nhu cầu phát
triển của hội đối với một văn bản pháp luật. Đối với những người theo
thuyết giáo này thì bất một điều gì đó đều thể trở thành luật của một nhà
nước khi được một ai đó đủ sức mạnh buộc mọi người tôn trọng, chấp
hành. Đây một cách để phủ nhận sự phân biệt, đối lập giữa pháp luật sự
tùy tiện, bạo lực tự do chỉ cần được nhà nước, người quyền cho
phép. Tính ngụy biện của ch lập luận, giải của thuyết pháp luật thực
chứng rất nguy hiểm, reo rắc những người nhẹ dạ d tin theo với sự
ngộ nhận, nhận thức hồ về pháp luật làm căn cứ cho nhu cầu xây dựng
một nhân sinh quan đúng đắn, cách mạng đối với pháp luật. Trong thời đại đế
quốc chủ nghĩa, những kẻ bảo hộ cho chế độ tư bản độc quyền đã ra sức lợi
dụng hòng ru ngủ một bộ phận quần chúng nhân dân dễ dàng thái độ
chấp nhận cái hội hiện tồn phản dân chủ đến đâu.
3. Khái niệm chủ nghĩa thực chứng pháp
Chủ nghĩa thực chứng pháp một trường phái tưởng về phân tích luật
học được phát triển phần lớn bởi các nhà triết học pháp lý trong thế kỷ 18
19, chẳng hạn như Jeremy Bentham John Austin . Trong khi Bentham
Austin phát triển thuyết thực chứng pháp lý, thì chủ nghĩa kinh nghiệm đã
cung cấp sở thuyết cho những phát triển như vậy xảy ra. Nhà văn theo
trường phái thực chứng pháp nổi tiếng nhất bằng tiếng Anh H. LA Hart ,
người, o m 1958, đã tìm ra ch sử dụng phổ biến của "chủ nghĩa thực
chứng" khi được áp dụng cho luật để bao gồm nội dung rằng:
- Luật mệnh lệnh của con người;
- Không bất kỳ mối quan h cần thiết nào giữa luật pháp đạo đức, nghĩa
là, giữa luật pháp như vốn phải như thế;
- Phân tích (hoặc nghiên cứu ý nghĩa) của các khái niệm pháp là đáng giá
cần được phân biệt với lịch sử hoặc hội học về luật , ng như từ việc
phê bình hoặc thẩm định pháp luật, dụ liên quan đến giá trị đạo đức của nó
hoặc các mục đích hoặc chức năng hội của nó;
- Hệ thống pháp luật là một hệ thống logic, khép kín, trong đó các quyết định
đúng đắn thể được suy ra từ các quy tắc pháp được xác định trước
không cần tham chiếu đến các cân nhắc hội;
- Các phán quyết đạo đức, không giống như các tuyên bố về thực tế, không
thể được thiết lập hoặc bảo vệ bằng lập luận hợp lý, bằng chứng hoặc bằng
chứng ("chủ nghĩa không công nhận" trong đạo đức).
Về mặt lịch sử, pháp thuyết thực chứng đối lập với thuyết luật học của
luật tự nhiên , đặc biệt không đồng ý ement xung quanh tuyên bố của luật
tự nhiên rằng một mối liên hệ cần thiết giữa luật pháp đạo đức.
4. Giá trị pháp các nguồn luật của chủ nghĩa thực chứng
pháp
Theo quan điểm của chủ nghĩa thực chứng, nguồn luật việc thiết lập luật đó
bởi một số quan pháp luật được hội thừa nhận. Giá trị của một luật
một vấn đề riêng biệt: thể một 'luật xấu' theo một số tiêu chuẩn,
nhưng nếu được thêm o hệ thống bởi một quan hợp pháp, vẫn
một luật.
Từ điển Bách khoa Triết học Stanford m tắt sự khác biệt giữa giá trị
nguồn gốc như vậy: "Thực tế một chính sách sẽ công bằng, khôn ngoan,
hiệu quả hoặc thận trọng không bao giờ do đủ để nghĩ rằng thực sự
luật, thực tế rằng không công bằng, không khôn ngoan, m hiệu
quả hoặc thiếu thận trọng không bao giờ do đủ đ nghi ngờ nó. Theo chủ
nghĩa thực chứng, luật pháp vấn đề của những đã được đặt ra (ra lệnh,
quyết định, thực hành, dung thứ, v.v.); như chúng ta thể Nói một cách
thành ngữ hiện đại hơn, chủ nghĩa thực chứng quan điểm cho rằng luật
pháp một công trình xây dựng hội. "
Chủ nghĩa thực chứng pháp không cho rằng các luật lệ được xác định như
vậy phải được tuân theo, hoặc rằng nhất thiết phải giá trị khi (mặc
một số nhà thực chứng cũng thể đưa ra những tuyên bố y). Thật vậy,
các luật của hệ thống pháp luật thể khá bất công, nhà nước thể khá
bất hợp pháp; kết quả là, thể không nghĩa vụ phải tuân theo họ. n
nữa, thực tế một luật đã được tòa án xác định hiệu lực không đưa ra
bất kỳ hướng dẫn nào về việc liệu tòa án nên áp dụng luật đó trong một
trường hợp cụ thể hay không. Như John Gardner đã nói, chủ nghĩa thực
chứng pháp lý "tính quy luật trơ"; một thuyết về luật, không phải
một thuyết về thực nh pháp lý, xét xử, hoặc nghĩa vụ chính trị. Các n
thực chứng pháp tin rằng sự ràng về trí tuệ đạt được tốt nhất bằng cách
để lại những câu hỏi này để điều tra riêng.
5. Tin đề ca ch nghĩa thc chng pháp
Tiền đề chính của chủ nghĩa thực chứng pháp luật Chủ nghĩa kinh nghiệm ,
những nhà tưởng phạm vi từ Sextus Empiricus , Thomas Hobbes , John
Locke , George Berkeley , David Hume Auguste Comte . Ý tưởng chính
của chủ nghĩa kinh nghiệm tuyên bố rằng tất cả kiến thức về thực tế
phải được xác thực bằng kinh nghiệm cảm giác hoặc được suy ra từ các
mệnh đề xuất phát một ch ràng từ dữ liệu giác quan. Xa hơn nữa, chủ
nghĩa kinh nghiệm đối lập với siêu hình học; chẳng hạn, Hume bác bỏ siêu
hình học chỉ suy đoán ngoài những thể học được từ kinh nghiệm giác
quan. Những lời dạy của những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm đi trước
hệ thống hóa một phương pháp thực chứng cho các vấn đề về lĩnh hội
phân tích, sau này được đại diện bởi chủ nghĩa thực chứng pháp lý.
Các nhà thực chứng logic như Rudolf Carnap A. J. Ayer đề xuất một
nguyên quan trọng khác của chủ nghĩa thực chứng pháp lý: đó là, các
mệnh đề cách sử dụng từ ngữ phải được kiểm tra để hiểu thực tế. Một câu
ý nghĩa theo nghĩa đen nếu chỉ khi, nó diễn đạt một điều đó thể
phản bác hoặc kiểm chứng bằng thực nghiệm.

Preview text:

Thuyết pháp luật thực chứng là gì ? Chủ nghĩa thực chứng pháp lý.
1. Khái niệm thuyết pháp luật thực chứng
Thuyết pháp luật thực chứng là học thuyết về pháp luật hình thành trên cơ sở
tư tưởng triết học chủ nghĩa thực chứng hay còn gọi là chủ nghĩa thực
nghiệm mà người sáng lập là Ô. Công tơ (August Comte; 1798-1857). Xuất
phát từ cái gốc là tình đoàn kết tồn tại và chi phối xã hội. Thuyết pháp luật
thực chứng có yếu tố tích cực vì nó thuyết minh cho tính đáng tin cậy của
pháp luật, thỏa mãn được nhu cầu chung về tính đáng tin cậy, minh bạch của
pháp luật. Nhưng rõ ràng nó rất phiến diện, vì nó thừa nhận tính đạo đức,
hợp lí, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội đối với văn bản pháp luật.
2. Nội dung của học thuyết pháp luật thực chứng
Côngtơ trình bày hệ tư tưởng của mình trong tác phẩm “Giáo trình triết học
khẳng định" (1830 - 1842) và tác phẩm 4 tập “Hệ thống chính trị khẳng định”
(1851 - 1854). Về mặt triết học, Côngtơ chủ trương con người không có khả
năng thâm nhập vào bản chất của sự vật, tri thức của con người bị giới hạn
bằng kinh nghiệm, sự mô tả hiện tượng, phát hiện các mối liên hệ và các
quan hệ giữa chúng với nhau. Con người chỉ có thể tiếp cận với các quy luật
của hiện tượng. Đối với ông, không thể có tri thức tuyệt đối - đó là nguyên tắc
duy nhất, tuyệt đối của ông. Về mặt khoa học, Côngtơ chủ trương phải lấy sự
thực mà con người đã trải qua làm cơ sở và lấy thực nghiệm, quan sát làm
phương pháp nghiên cứu khoa học. Ông tự nhận mình là người cải tạo, cách
tân các khoa học và ông là người đã đề ra chủ trương lấy xã hội học làm
khoa học chung về các hiện tượng xã hội mà các quy luật của nó là hoàn
toàn thích hợp với mọi thời đại và mọi dân tộc. Xã hội học của Côngtơ được
chia thành hai phần: Phần thứ nhất là “Thống kê” chuyên nghiên cứu cơ cấu
xã hội và Phần thứ hai là “Động thái” chuyên nghiên cứu sự phát triển của xã
hội và cả hai được thể hiện thành phương thức biểu đạt “trật tự và tiến bộ” và
được ông trình bày ở đầu bìa cuốn sách: “Hệ thống chính trị khẳng định của
Côngtơ”. Đó cũng là hai đề tài chủ yếu của hệ thống triết học xã hội của ông.
Côngtơ chủ trương “Trật tự” với nghĩa là duy trì chế độ xã hội hiện tổn, ủng
hộ tình trạng không thể lay chuyển của quan hệ tư bản chủ nghĩa và chủ
trương vì sự “tiến bộ” với nghĩa là sự phát triển hòa bình, không bị gián đoạn
bởi các cuộc cải tạo cách mạng đối với xã hội tư sản. Xã hội như một tổng
thể hữu cơ là đối tượng mà ông dành sự trọng tâm chú ý trong đó. Tình đoàn
kết là hiện thân mối quan hệ của con người và các nhóm xã hội. Ông thừa
nhận trong xã hội đương thời tư sản và vô sản là những giai cấp đối lập
nhưng sự đoàn kết sẽ liên kết họ vì trong mọi xã hội đều tổn tại một mục tiêu
chung và có sự thống nhất hài hòa nhất định. Hài hòa là một trạng thái tồn tại
khắp mọi chốn, nơi tồn tại một hệ thống nhất định nào đó. Côngtơ tuyên bố:
Không một xã hội nào có thể tồn tại nếu người dưới không tôn trọng người
trên, người mạnh không giữ quyền thống trị mà phải đi phục vụ kẻ yếu. Xuất
phát từ cái gốc là tình đoàn kết tồn tại và chỉ phối xã hội, Côngtơ đả kích một
cách mạnh mẽ các quyền. Côngtơ khẳng định triết học của mình không thừa
nhận bất kì một thứ quyền nào ngoài cái quyền chấp hành nghĩa vụ của mình.
Khái niệm quyền phải được biến mất khỏi lĩnh vực chính trị cũng như khái
niệm nguyên nhân - khỏi lĩnh vực triết học. Con người sinh ra bởi các nghĩa
vụ và với các nghĩa vụ đó mà sống cả cuộc đời mình. Tất cả mọi quyền đều
phải được thủ tiêu. Đi theo hướng đó, những người theo trường phái pháp
luật thực chứng chủ trương xây dựng nhà nước cực quyền. Goblooc, một
người theo trường phái này, khẳng định sức mạnh pháp lí của đạo luật bắt
nguồn từ chỗ nó là mệnh lệnh của người đứng đầu một nhà nước, là lực
lượng và là nguồn gốc đầu tiên sinh ra pháp luật và pháp luật do nhà nước
đặt ra là một thứ văn bản có tính mệnh lệnh và tất cả những gì do nhà nước
quy định thì đều phải được xem là pháp luật, ngay cả những đạo luật cực kì
vô nhân đạo vẫn giữ nguyên giá trị và đó là một phần của hệ thống pháp luật
của nhà nước. Tất nhiên, thuyết pháp luật thực chứng có yếu tố tích cực vì
nó thuyết minh cho tính đáng tin cậy của pháp luật, thỏa mãn được nhu cầu
chung về tính đáng tin cậy, minh bạch của pháp luật. Nhưng rõ ràng nó rất
phiến diện, vì nó không thừa nhận tính đạo đức, hợp lí, đáp ứng nhu cầu phát
triển của xã hội đối với một văn bản pháp luật. Đối với những người theo
thuyết giáo này thì bất kì một điều gì đó đều có thể trở thành luật của một nhà
nước khi nó được một ai đó có đủ sức mạnh buộc mọi người tôn trọng, chấp
hành. Đây là một cách để phủ nhận sự phân biệt, đối lập giữa pháp luật và sự
tùy tiện, bạo lực và tự do vì chỉ cần được nhà nước, người có quyền cho
phép. Tính ngụy biện của cách lập luận, lí giải của thuyết pháp luật thực
chứng rất nguy hiểm, reo rắc ở những người nhẹ dạ dễ tin theo nó với sự
ngộ nhận, nhận thức mơ hồ về pháp luật làm căn cứ cho nhu cầu xây dựng
một nhân sinh quan đúng đắn, cách mạng đối với pháp luật. Trong thời đại đế
quốc chủ nghĩa, những kẻ bảo hộ cho chế độ tư bản độc quyền đã ra sức lợi
dụng nó hòng ru ngủ một bộ phận quần chúng nhân dân dễ dàng có thái độ
chấp nhận cái xã hội hiện tồn dù nó phản dân chủ đến đâu.
3. Khái niệm chủ nghĩa thực chứng pháp lý
Chủ nghĩa thực chứng pháp lý là một trường phái tư tưởng về phân tích luật
học được phát triển phần lớn bởi các nhà triết học pháp lý trong thế kỷ 18 và
19, chẳng hạn như Jeremy Bentham và John Austin . Trong khi Bentham và
Austin phát triển lý thuyết thực chứng pháp lý, thì chủ nghĩa kinh nghiệm đã
cung cấp cơ sở lý thuyết cho những phát triển như vậy xảy ra. Nhà văn theo
trường phái thực chứng pháp lý nổi tiếng nhất bằng tiếng Anh là H. LA Hart ,
người, vào năm 1958, đã tìm ra cách sử dụng phổ biến của "chủ nghĩa thực
chứng" khi được áp dụng cho luật để bao gồm nội dung rằng:
- Luật là mệnh lệnh của con người;
- Không có bất kỳ mối quan hệ cần thiết nào giữa luật pháp và đạo đức, nghĩa
là, giữa luật pháp như nó vốn có và nó phải như thế;
- Phân tích (hoặc nghiên cứu ý nghĩa) của các khái niệm pháp lý là đáng giá
và cần được phân biệt với lịch sử hoặc xã hội học về luật , cũng như từ việc
phê bình hoặc thẩm định pháp luật, ví dụ liên quan đến giá trị đạo đức của nó
hoặc các mục đích hoặc chức năng xã hội của nó;
- Hệ thống pháp luật là một hệ thống logic, khép kín, trong đó các quyết định
đúng đắn có thể được suy ra từ các quy tắc pháp lý được xác định trước mà
không cần tham chiếu đến các cân nhắc xã hội;
- Các phán quyết đạo đức, không giống như các tuyên bố về thực tế, không
thể được thiết lập hoặc bảo vệ bằng lập luận hợp lý, bằng chứng hoặc bằng
chứng ("chủ nghĩa không công nhận" trong đạo đức).
Về mặt lịch sử, pháp lý thuyết thực chứng đối lập với lý thuyết luật học của
luật tự nhiên , đặc biệt không đồng ý ement xung quanh tuyên bố của luật sư
tự nhiên rằng có một mối liên hệ cần thiết giữa luật pháp và đạo đức.
4. Giá trị pháp lý và các nguồn luật của chủ nghĩa thực chứng pháp lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa thực chứng, nguồn luật là việc thiết lập luật đó
bởi một số cơ quan pháp luật được xã hội thừa nhận. Giá trị của một luật là
một vấn đề riêng biệt: nó có thể là một 'luật xấu' theo một số tiêu chuẩn,
nhưng nếu nó được thêm vào hệ thống bởi một cơ quan hợp pháp, nó vẫn là một luật.
Từ điển Bách khoa Triết học Stanford tóm tắt sự khác biệt giữa giá trị và
nguồn gốc như vậy: "Thực tế là một chính sách sẽ công bằng, khôn ngoan,
hiệu quả hoặc thận trọng không bao giờ là lý do đủ để nghĩ rằng nó thực sự
là luật, và thực tế rằng nó không công bằng, không khôn ngoan, kém hiệu
quả hoặc thiếu thận trọng không bao giờ là lý do đủ để nghi ngờ nó. Theo chủ
nghĩa thực chứng, luật pháp là vấn đề của những gì đã được đặt ra (ra lệnh,
quyết định, thực hành, dung thứ, v.v.); như chúng ta có thể Nói một cách
thành ngữ hiện đại hơn, chủ nghĩa thực chứng là quan điểm cho rằng luật
pháp là một công trình xây dựng xã hội. "
Chủ nghĩa thực chứng pháp lý không cho rằng các luật lệ được xác định như
vậy phải được tuân theo, hoặc rằng nhất thiết phải có giá trị khi có (mặc dù
một số nhà thực chứng cũng có thể đưa ra những tuyên bố này). Thật vậy,
các luật của hệ thống pháp luật có thể khá bất công, và nhà nước có thể khá
bất hợp pháp; kết quả là, có thể không có nghĩa vụ phải tuân theo họ. Hơn
nữa, thực tế là một luật đã được tòa án xác định là có hiệu lực không đưa ra
bất kỳ hướng dẫn nào về việc liệu tòa án có nên áp dụng luật đó trong một
trường hợp cụ thể hay không. Như John Gardner đã nói, chủ nghĩa thực
chứng pháp lý là "tính quy luật trơ"; nó là một lý thuyết về luật, không phải là
một lý thuyết về thực hành pháp lý, xét xử, hoặc nghĩa vụ chính trị. Các nhà
thực chứng pháp lý tin rằng sự rõ ràng về trí tuệ đạt được tốt nhất bằng cách
để lại những câu hỏi này để điều tra riêng.
5. Tin đề ca chnghĩa thc chng pháp lý
Tiền đề chính của chủ nghĩa thực chứng pháp luật là Chủ nghĩa kinh nghiệm ,
những nhà tư tưởng có phạm vi từ Sextus Empiricus , Thomas Hobbes , John
Locke , George Berkeley , David Hume và Auguste Comte . Ý tưởng chính
của chủ nghĩa kinh nghiệm là tuyên bố rằng tất cả kiến ​ ​ thức về thực tế
phải được xác thực bằng kinh nghiệm cảm giác hoặc được suy ra từ các
mệnh đề xuất phát một cách rõ ràng từ dữ liệu giác quan. Xa hơn nữa, chủ
nghĩa kinh nghiệm đối lập với siêu hình học; chẳng hạn, Hume bác bỏ siêu
hình học chỉ là suy đoán ngoài những gì có thể học được từ kinh nghiệm giác
quan. Những lời dạy của những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm đi trước
hệ thống hóa một phương pháp thực chứng cho các vấn đề về lĩnh hội và
phân tích, mà sau này được đại diện bởi chủ nghĩa thực chứng pháp lý.
Các nhà thực chứng logic như Rudolf Carnap và A. J. Ayer đề xuất một
nguyên lý quan trọng khác của chủ nghĩa thực chứng pháp lý: đó là, các
mệnh đề và cách sử dụng từ ngữ phải được kiểm tra để hiểu thực tế. Một câu
có ý nghĩa theo nghĩa đen nếu và chỉ khi, nó diễn đạt một điều gì đó có thể
phản bác hoặc kiểm chứng bằng thực nghiệm.
Document Outline

  • Thuyết pháp luật thực chứng là gì ? Chủ nghĩa thực
    • 1. Khái niệm thuyết pháp luật thực chứng
    • 2. Nội dung của học thuyết pháp luật thực chứng
    • 3. Khái niệm chủ nghĩa thực chứng pháp lý
    • 4. Giá trị pháp lý và các nguồn luật của chủ nghĩa
    • 5. Tiền đề của chủ nghĩa thực chứng pháp lý