







Preview text:
Khái niệm con người
CON NGƯỜI LÀ THỰC THỂ SINH HỌC-XÃ HỘI
Theo triết học MacLenin, con người là một sinh vật xã hội ở trình độ phát triển cao nhất của giới tự
nhiên và lịch sử xã hội, là chủ thể lịch sử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh và văn hóa.
Về phương diện sinh học, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là động
vật xã hội. “Bản thân cái sự kiện là con người từ loại động vật mà ra, cũng đã quyết định con người
không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật “ Có nghĩa là con người
cũnh như những loại vật khác phải tìm thức ăn, nước uống, phải “đấu tranh sinh tồn” để tồn tại và
phát triển. Tuy nhiên không được tuyệt đối hóa điều đó, không phải đặc tính sinh học hay bản tính
sinh học, sự tồn tại thể xác là cái duy nhất tạo nên bản chất con người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa MacLenin,khi xem xét con người phải xem xét 2 phương diện là sinh học và xã hội.
Con người không chỉ là thực thể sinh học mà còn là bộ phận của giới tự nhiên. “ Giới tự nhiên..... là
thân thể vô cơ của con người .... đời sống thế xác và tinh thần của con ngừi gắn liền với giới tự nhiên “.
Về phương diện thực thể sinh học, con người phải phục tùng các quy luật của giới tự
nhiên, các quy luật sinh học như di truyền, tiến hóa và các quy trình sinh học của giới tự
nhiên. Vd : Quy Luật Lực Hấp Dẫn Trái Đất ( Con người phải tuân theo quy luật lực hấp
dẫn để không bị rơi về dưới mặt đất và duy trì sự sống trên bề mặt Trái Đất.), Chu Kỳ Nước
( Việc tuân theo chu kỳ thủy triều và mưa giúp con người quản lý nguồn nước, tránh hạn hán và lụt lội.),
Con người là một bộ phận đặc biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể biến
đổi tự nhiên và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đó là điểm
khác biệt với các thực thể khác. Về thể xác, con người sống bằng những sản phẩm tự
nhiên, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà ở,... Bằng hoạt động
thực tiễn con người trở thành một bộ phần của giới tự nhiên có quan hệ với giới tự
nhiên, thống nhất với giới tự nhiên, bởi tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người “. Vì
thế con người phải dựa vào giới tự nhiên, gắn bó, hòa hợp với giới tự nhiên mới có thể
tồn tại và phát triển. Quản điểm này là nền tảng lý luận và phương pháp lý luận rất
quan trọng, có tính thời sự trong bối cảnh khủng hoảng sinh thái và yêu cầu phát triển bền vững hiện nay.
Con người là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan trọng nhất
của con người là lao động sản xuất. ‘Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động thoát
khỏi trạng thái thuần túy của loài vật”. Nếu các loài vật khác sống hoàn toàn dựa vào sản
phẩm tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người lại sống bằng lao động sản xuất,, cải tạo tự
nhiên, sáng tạo ra vật phẩm cho nhu cầu của mình. Nhờ hoạt động sản xuất mà con người trở
thành thực thể xã hội, thành chủ thể “lịc sử có tính tự nhiên”, có lý tính , có “bản năng xã
hội”. Lao động góp phần cải tạo bản năng sinh học của con người, làm con người trở thành
con người đúng nghĩa của nó. Lao động là điều kiện tiên quyết, cận thiết và chủ yếu quyết
định sự hình thành và phát triển của con người cả về phương diện sinh học lẫn xã hội.
Trong hoạt động, con người không chỉ có mối quan hệ trong sản xuất mà còn có hàng loạt các mối
quan hệ xã hội khác. Những mối quan hệ đó ngày càng đa dạng, thể hiện những tác động qua lại giữa
họ với nhau. Xã hội, xét đến cùng, là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa những con người. Tính xá hội
của con người chỉ có trong xã hội loài người, con người khỏi thể tách khỏi xã hội và đó là điểm khác
biệt giữa con người và động vật khác. Hoạt động của con người gắn liền với các quan hệ xã hội
không chỉ phục vụ cho con người mà còn cho xã hội, khác với con vật chỉ phục vụ cho nhu cầu trực
tiếp của nó. Hoạt động giao tiếp của con người hình thành nên ý thức con người. Tư duy, ý thức của
con người chỉ có thể phát triển trong lao động và giao tiếp với nhau. Cũng nhờ có lao động và giao
tiếp ngôn ngữ mới xuất hiện và phát triển. Ngôn ngữ và tư duy con người thể hiện tập trung và nổi
trội nhất về tính xã hội của con người, là một trong những biểu hiện rõ nhất phương diện con người là
một thực thể xã hội. Chính vì vậy, khác với con vật, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người
1/QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC- LENIN VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI.
a,-Con người là một hệ thống thực thi thống nhất giữa các mặt sinh vật với mặt xã hội. :
-Dẫn chứng: Luận điểm nổi tiếng về con người được C.Mác viết trong Luận cương về
Feuerbach(1845):’’Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội.
+Theo C.Mác: bản chất con người k phải là trừu tượng mà là hiện thực, k phải tự nhiên mà là lịch sử. Con
người là một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản
chất đích thực của con người
+Con người(về phương diện sinh học) là thực thể sinh vật, là sp của giới tự nhiên, là một động vật xã
hội.’’Bản than cái sự kiện là con người từ đv mà ra, quyết định việc con người k bao g hoàn toàn thoát ly
khỏi những đặc tính vốn có của con vật-> con người cũng như đvat phải kiếm ăn, đồ uống, đấu tranh sinh tồn, sinh đẻ,…
+Không chỉ là thực thể sinh học, con người cũng là một bộ phận của giới tự nhiên. Con người luôn phục
tùng các quy luật của giới tự nhiên
Vd: các quy luật như di truyền, tiến hóa sinh học,…
+Bằng hoạt động thực tiễn, con người trở thành một bộ phận cải giới tự nhiên có quan hệ với giới tự
nhiên, gắn bó hòa hợp vs giới tự nhiên để tồn tại và ptrien
+Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xh qtrong nhất của con ngườ i
là lao động sản xuất. (Nếu con vật phải sống dựa vào sp tự nhiên, bản năng thì con ng sống bằng lđ sx, cả i
tạo tự nhiên, sang tạo sp phục vụ nhu cầu bản thanà lđ là đk kiên quyết quyết định sự hình thành và ptrien của con người)
àCon người vừa có mặt sinh vật và mặt xã hội, quá trình tác động 2 mặt đó cũng là quá trình hình thành bản chất con người
b- Con người khác với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình
+Con người khác con vật ở chỗ có ý thức, trí tuệ, sự sang tạo. Tuy nên điểm khác biệt cơ bản nhất là nếu
đvat chỉ biết sống dựa trên những gì có sẵn ở tự nhiên, thì con người biết lđ sx để tạo ra c hính đs vật chất của mình
+Hđ quan trọng nhất của con người là lđsx
Ví dụ: Nhờ quá trình lđ sang tạo ra của cải, vật chất như trồng lúa, gạo,.. vs mục đích ban đầu là tồn tại,
nhưng con người vs bộ não, ý thức, tư duy nên đã có những mong muốn, đòi hỏi nhiều hơn trong cuộc
sốngà thúc đẩy việc tạo ra nhiều công cụ tiên tiến, hiện đại làm qtrinh sx diễn ra năng suất hơn, đồng thời
hoàn thiện đc kĩ năng, phẩm cách: ‘Nhờ lđ mà con người có dáng đi thẳng’,….
c- Con người là sản phẩm lịch sử và của chính bản thân con người
+Quan điểm của Feuerbach: con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể và hđ thực tiễn của họ, xem xét
con người chỉ là đối tượng cảm tính, trừu tượng, kco hđ thực tiễn đã bị các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lenin phê phán.
+Chủ nghĩa Mác khẳng định con người vừa là sp của sự phát triển lâu dài giới tự nhiên, vừa là sp của lịch
sử xã hội loài người và của chính bản than con người. Mác đã khẳng định trong tác phẩm hệ tư tưởng Đức
rằng tiền đề cả lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của các ông là những con người hiện thực
đang hoạt động, lđ sản xuất và làm ra lịch sử của chính mình, làm cho họ trở thành những con người như đang tồn tại.
àTóm lại, quan hệ xã hội ko chỉ xét ở quan hệ trong từng hình thái xã hội riêng biệt, mà còn khái quát
những quan hệ xh chung thể hiện qua từng chế độ, thời đại riêng bệt.Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo
chiều ngang( đương đại) vừa theo chiều dọc lịch sử. Các quan hệ xã hội quy định bản chất con người bao
gồm cả quan hệ xã hội hiện tại và quan hệ xã hội truyền thống , bởi trong lịch sử của mình, con người bắt
buộc phải kế thừa di sản của những thế hệ trước nó.
d- Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội:
+Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định con người có quan hệ với
nhau để tồn tại và phát triển.
+ Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người, là sự tổng hợp hài hòa giữa chúng. Mối quan hệ xã
hội có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại, ko tách rời.
+ Các quan hệ xã hội có nhiều loại, quan hệ quá khứ, qhe htai, qhe vật chất, qhe tinh thần, qhe trực tiếp,
gián tiếp ,… tất cả góp phần hình thành nên bản chất con người.
Ví dụ: Bản than mỗi ngừơi có rất nhiều mqh khác nhau như qhe gđinh, bạn bè, thầy cô, đồng nghiệp,..
Mqh ấy tồn tại một cách khách quan, ko ai có thể tồn tại mà kco bất kì 1 mqh xã hội nào cả. Mỗi cá nhân
đảm nhiệm ko chỉ có 1 vai trò mà là nhìu vai trong xã hội: họ có thể vừa là giáo viên, vừa là một người
mẹ, và là thành viên câu lạc bộ,.. những mqh trong xh được hình thành trong cuộc sống, bất kì ai cũng có những mqh trong xã hội
➔ Các mối quan hệ xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc khẳng định bản chất của con người
Huỳnh Thị Diễm Thúy ( 2321002556 )
1. Hiện tượng tha hóa con người và vấn đề giải phóng con người:
- “Tha hóa”: là một khái niệm được sử dụng để đánh giá con người, nhằm mô tả sự đánh mất bản chất tự nhiên của con người.
Quá trình tha hóa: bản chất của sự việc bị bóp méo dần trong ý thức của con người theo hiện thực đời
sống xã hội. những cá nhân cực đoan những triết lý sống tiêu cực, trái đạo đức, thiếu nhân tính xuất hiện
và đi vào trong tư tưởng và lối sống của con người, dẫn đến tình trạng tha hóa về phẩm chất đạo đức, lối sống ở họ.
- “Giải phóng con người”: là khái niệm liên quan đến quá trình loại bỏ sự hạn chế, bóc lột, và tạo điều
kiện cho con người tự do, tự chủ, phát triển.
Các triết lý xã hội như chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thường nhấn mạnh việc tạo ra một xã hội
công bằng và bình đẳng để giải phóng con người khỏi áp lực kinh tế và xã hội nặng nề.
Giải phóng con người liên quan đến việc bảo đảm tự do cá nhân và tự chủ. Mỗi người có quyền tự do
trong việc lựa chọn, phát triển bản thân, và thể hiện ý kiến cá nhân mà không bị ràng buộc bởi áp lực ngoại lực.
Mục tiêu của giải phóng con người thường là xây dựng một xã hội công bằng, nhân quyền, và có sự đồng
thuận trong sự phát triển của từng cá nhân và cộng đồng.
2. Thực chất của tha hóa con người là lao động của con người bị tha hóa:
Tha hóa là khi con người bi tách rời ra khỏi sản phẩm lao động của mình, lao động không còn là quá trình
tự do sáng tạo, không phải để phát triển phẩm chất, mất quyền kiểm soát đối với công việc của mình dẫn
đến đánh mất sự to do và tự chủ cá nhân
Theo quan điểm các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, hiện tượng tha hóa con người là một hiện tượng lịch sử
đặc thù, chỉ diễn ra trong xã hội có sự phân chia giai cấp.
Nguyên nhân: chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Là khi lao động không còn là quá trình tự do sáng tạo, không phải để phát triển phẩm chất mà thay vào đó
là sự cưỡng bức, bị ép buộc bởi điều kiện xã hội, chỉ để đảm bảo sự tồn tại cho thể xác mà đánh đổi về mặt tâm hồn.
Lao động trở thành một phần của hệ thống sản xuất tư bản. Theo quan điểm Mác, trong xã hội tư bản, con
người bị "tha hóa" khi họ phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để có tiền lương. Qua quá trình
này, lao động không chỉ mất đi quyền kiểm soát sản phẩm lao động của mình mà còn mất đi tính cá nhân
và tự do vì họ phải tuân theo các quy tắc và điều kiện của nhà tư bản.
Con người đã bị biến thành lực lượng đối lập, nô dịch và thống trị con người.
Lao động tha hoá làm cho giới tự nhiên (thân thể vô cơ của con người) bị biến thành một bản chất xa lạ
với con người. Nó cũng làm cho bản thân con người, chức năng hoạt động của bản thân con người, hoạt
động sinh sống của con người trở thành xa lạ với chính họ.
“Vật chất hay cụ thể ở đây là đồng tiền đang trở thành lực lượng thống trị, con người dùng đồng tiền
trong mọi lúc, mọi nơi d ng đồng tiền để hành động và đánh giá hành động, thậm chí dựa vào đồng tiền để
đánh giá suy nghĩ, đánh giá đạo đức, nhân phẩm của người khác.” Trích Ths Lê Thi Kim Quyên. *Thông tin them:
trong thời kỳ Trung Cổ ở châu Âu, các lãnh chúa phong kiến thường sở hữu đất đai và các tư liệu sản xuất
như nhà máy, mỏ quặng, và trang trại. Dân làng và nông dân, dưới sự áp bức của địa chủ, phải làm việc
nô lệ hoặc dưới các điều kiện lao động cực kỳ khắc nghiệt để tạo ra lợi nhuận cho các lãnh chúa.
Các địa chủ phong kiến thường áp đặt thuế cao, thu chiếm phần lớn lợi nhuận từ sản phẩm nông nghiệp
và thủ công mỹ nghệ của dân làng. Họ cũng có thể sử dụng quyền lực và vũ lực để ép buộc dân làng phải
làm việc cho họ hoặc phải trả các khoản thuế và phí không công bằng.
Mác không quy sự tha hoá thành những hiện tượng của ý thức mà xem xét nó trong chính đời sống hiện
thực và hoạt động thực tiễn của con người. Xuất phát từ chỗ cho rằng tha hoá biểu hiện những mâu thuẫn
của một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội, nó do sự phân công lao động có tính chất đối kháng đẻ
ra và gắn liền với chế độ tư hữu. Trong những điều kiện đó, các mối quan hệ xã hội được hình thành một
cách tự phát và vượt khỏi sự kiểm soát của con người, còn những kết quả và sản phẩm của hoạt động thì
bị tha hoá khỏi các cá nhân và các tập đoàn xã hội.
Trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844” Mác đã chỉ ra sự tha hoá của hiện tượng cơ bản
của đời sống xã hội - hiện tượng lao động. Sự tha hoá của lao động là kết quả của tất yếu của quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
Người công nhân bị tha hoá trong sản phẩm: Sản phẩm lao động là kết quả của quá trình lao động, trong
quá trình đó, người công nhân đã chuyển đời sống của anh ta vào sản phẩm, tự phát tiết trong lao động để
sáng tạo ra sản phẩm. Sản phẩm lao động là kết quả sáng tạo của người công nhân, là biểu hiện năng lực
lao động của anh ta, gắn bó với anh ta, thuộc về anh ta. Nhưng những sản phẩm lao động của anh ta đều
bị nhà tư bản tước đoạt. Việc chiếm hữu sản phẩm biểu hiện ra là một sự tha hoá đến nỗi người công nhân
sản xuất ra càng nhiều sản phẩm bao nhiêu thì lại càng nghèo đi bấy nhiêu, người công nhân càng tạo ra
nhiều hàng hoá thì anh ta lại trở thành một hàng hoá rẻ mạt, thế giới vật phẩm càng tăng thêm giá trị thì
thế giới nhân loại càng mất giá trị. Như vậy người công nhân bị chính sản phẩm của mình, tức tư bản
thống trị. Do đó người công nhân đối với sản phẩm lao động của mình như đối với một vật xa lạ. Sự tha
hoá của công nhân trong sản phẩm được hiểu là mối quan hệ của công nhân với sản phẩm của lao động
như với một vật xa lạ và thống trị anh ta.
Người công nhân bị tha hoá trong lao động: sự tha hoá của công nhân trong sản phẩm lao động dẫn tới sự
tha hoá trong hoạt động lao động của anh ta. Mác phân tích, lao động là hoạt động bản chất của con
người, thông qua lao động, con người tự khẳng định mình, có được trạng thái sung sướng, thoải mái; lao
động giúp con người phát huy hoạt động thể xác tự do và hoạt động tinh thần tự do; hoạt động lao động
do đó là một nhu cầu của con người, con người tự nguyện lao động và cảm thấy mình là chính mình trong quá trình lao động.
Song điều đó không xảy ra ở quá trình lao động trong chủ nghĩa tư bản, do sản phẩm của lao động là sự
tha hoá nên bản thân lao động cũng là một sự tha hoá, đó là sự tha hoá bằng hành động, sự tha hoá của hoạt động.
Sự tha hoá đó biểu hiện ở chỗ: hoạt động lao động không còn là của người công nhân, không thuộc về
anh ta mà thuộc về người khác; bản thân anh ta trong quá trình lao động không thuộc về anh ta mà thuộc
về người khác. Vì vậy lao động của người công nhân không phải để tự khẳng định mà lại phủ định anh ta,
anh ta cảm thấy khổ sở, bị hành hạ trong lao động; lao động làm kiệt quệ thân thể của anh ta và huỷ hoại
tinh thần của anh ta; lao động trở thành sự cưỡng bức đối với công nhân, tồn tại bên ngoài anh ta, trở thành xa lạ với anh ta.
Tóm lại, hiện tượng tha hóa con người là một khía cạnh của xã hội hiện đại, trong khi vấn đề giải phóng
con người đề cập đến nỗ lực để tạo ra một mô hình xã hội mới giúp con người đạt được sự tự do và tự chủ cá nhân.
Ví dụ: Nhà nước CHXHCN Việt Nam xét về bản chất là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, là
nhà nước của dân, do dân, vì dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Trong nhà nước ta,
nhân dân lao động là chủ thể tối cao của quyền lực. Cơ chế thực hiện quyền lực là: bằng quyền bầu cử,
nhân dân lao động gián tiếp lập ra bộ máy hành chính các cấp, bộ máy đó sẽ thay mặt nhân dân triển khai
và thực hiện quyền lực của họ. Nói cách khác, nhân dân đã trao cho các cán bộ công chức nhà nước - các
“công bộc” của mình quyền lực chính trị. Như vậy, quyền lực trong tay các vị công bộc là quyền lực để
phục vụ nhân dân. Nhưng trong thực tế, không ít vị công bộc đã biến quyền lực phục vụ đó thành quyền
lực thống trị nhân dân. Điều đó thể hiện rõ rệt ở sự quan liêu, cửa quyền của bộ máy hành chính mặc dù
chúng ta đã ra sức cải cách; thể hiện ở sự xa dân, vô cảm với dân của rất nhiều cán bộ công chức; thể hiện
ở sự lợi dụng chức quyền tước đoạt số lượng lớn của cải của nhà nước, của nhân dân trong các vụ tham
nhũng liên tiếp bị phát hiện gần đây; thể hiện ở sự lãng phí đến mức đáng báo động trong nếp làm ăn,
sinh hoạt của cán bộ công chức đối với những tài sản công...
Quyền lực phục vụ nhân dân biến thành quyền lực thống trị nhân dân, đó là sự tha hoá quyền lực và đó là
lực cản của sự phát triển.
“Vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức”
Đây là một trong những tư tưởng căn bản, cốt lối của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người. -
Đấu tranh giai cấp để thay thế chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, để giải phóng con người về phương diện chính trị là
nội dung quan trọng hàng đầu. -
Điều kiện và tiền đề để giải phóng triệt để con người là xóa bỏ giai cấp, xóa bỏ chế độ tu hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất và sức sản xuất phát triển ở trình độ rất cao. Đó là quá trình lịch sử lâu dài. -
Việc giải phóng những con người cụ thể là để đi đến giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và
tiến tới giải phóng toàn thể nhân loại.
⇨ Mục tiêu cuối cùng trong tư tưởng về con người của chủ nghĩa Mác-Lênin: giải phóng con
người trên tất cả các nội dung và các phương diện: lao động, chính trị kinh tế, xã hội, năng
lực, con người cá nhân, con người giai cấp, con người dân tộc, con người nhân loại,… -
Tư tưởng về giải phóng con người trong triết học Mác-Lênin hoàn toàn khác với các tư tưởng
giải phóng con người của các học thuyết khác đã và đang tồn tại trong lịch sử.
Tôn giáo: Giải phóng con người là sự giải thoát khỏi cuộc sống tạm, khỏi bể khổ cuộc đời để lên
cõi niết bàn hoặc lên thiên đường ở kiếp sau.
Một số học thuyết triết học duy vật: Giải phóng con người bằng một vài phương tiện nào đó
trong đời sống xã hội: pháp luật, đạo đức, chính trị.
⇨ Lập trường duy tâm, siêu hình. -
Quan điểm rằng mọi sự giải phóng đều liên quan đến thế giới con người và quan hệ của con
người với thân thể và lao động của họ, thể hiện lập trường duy vật biện chứng, khách quan, khoa
học trong việc nhận thức nguồn gốc, bản chất và đời sống của con người và phương thức giải phóng con người.
“Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”
“Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” -
Chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bị thủ tiêu: lao động không còn bị tha hóa, con
người được giải phóng, khi đó xã hội là liên hiệp các cá nhân, con người bắt đầu được phát triển
tự do. Sự phát triển tự do của mỗi người chỉ có thể đạt được khi con người thoát khỏi sự tha hóa,
thoát khỏi sự nô dịch do chế độ tư hữu các tư liệu sản xuất bị thủ tiêu triệt để, khi sự khác biệt
giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay không còn, khi con người
không còn bị trói buộc bởi sự phân công lao động xã hội. -
Con người là sự thống nhất giữa cá nhân và xã hội, cá nhân với giai cấp, dân tộc và nhân
loại. bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. -
Sự phát triển tự do của mỗi người: Tất yếu.
Là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người.
Đạt được khi con người thoát ra khỏi sự tha hóa. -
Những tư tưởng về con người trong triết học của chủ nghĩa Mác-lênin là những tư tương cơ
bản đóng vai trò là “kim chỉ nam” là cơ sở lý luận khoa học, định hướng cho các hoạt động
chính trị, xã hội văn hóa và tư tưởng trong gần hai thế kỷ qua. Những tư tưởng đó, còn là tiền đề
lý luận và phương pháp luận đúng đắn cho sự phát triển của khoa học xã hội. Ngày nay, chúng
vẫn tiếp tục là cơ sở, tiền đề cho các quan điểm, lý luận về con người và về xã hội, cho các khoa
học hiện đại về con người nói chung. Lý luận về con người của các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lênin là lý luận duy vật biện chứng triệt để mang tính khoa học và cách mạng, góp phần
tạo nên cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Lý luận đó ngày càng được khẳng định
tính đúng đắn, khoa học trong bối cảnh hiện nay và nó vẫn tiếp tục là “kim chỉ nam” cho hành
động, là nền tảng lý luận cho việc nghiên cứu, giải phóng và phát triển con người trong hiện thực.