lOMoARcPSD| 23136115
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN
KHOA: KINH TẾ
BÀI TIỂU LUẬN
Bộ Môn: Lịch sử kinh tế
Đề Tài: Chính sách kinh tế của Pháp (1858-1945) và hệ
lụy đối với nền kinh tế nước ta
Giáo viên giảng dạy: Lương Thị Hải Yến
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Nhung
Mã sinh viên: 10923138
Lớp: 109233
Hải Dương, 11/2023
LỜI CẢM ƠN
lOMoARcPSD| 23136115
Trong thời gian học tập tại trường em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ
và tạo điều kiện của các thầy, cô giáo trong khoa Kinh tế cùng với sự giúp đỡ
động viên khích lệ của các bạn sinh viên. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ
quý báu đó.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn đến cô Lương Thị Hải Yến , người đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ trong suốt thời gian học tập để em có thể hoàn thành
bài tiểu luận này.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, do điều kiện hạn hẹp về thời gian
của bản thân và hạn chế về kiến thức nên không tránh khỏi những thiếu sót
khi hoàn thành bài luận. Vì vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của cô giáo ề đè tài của em được cả thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
lOMoARcPSD| 23136115
MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của chuyên đề nghiên cứu………………………………3
1.2. Mục tiêu của chuyên đề nghiên cứu………………………….………….3
1.3. Đối tượng nghiên cứu chuyên đề………………………………………..3
1.4. Phương pháp nghiên cứu chuyên đề……………………………….……3
1.5. Kết cấu của chuyên
đề……………………………………………….…..4
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1.Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1858-1918
2.1.1Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và chính sách thương
nghiệp của thực dân Pháp ở Việt Nam……………………………….….4
2.1.2 . Kinh tế thương nghiệp Việt Nam giai đoạn 1858-1918………….…….6
2.2.Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1919-1945
2.2.1. Chương trình khai thác thuộc địa lần hai và chính sách thương nghiệp của
thực dân Pháp ở Việt Nam……………………………………...............13
2.2.2. Kinh tế thương nghiệp Việt Nam giai đoạn 1919 -1945………………..14
2.3.HỆ LỤY ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ 1858 -1945...21
2.4.Đánh giá chung về vấn đề nghiên
cứu…………………………………...22
PHẦN III. KẾT LUẬN……………………………………………..………23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
lOMoARcPSD| 23136115
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của chuyên đề nghiên cứu
Thương nghiệp là một ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong việc đưa
đất nước phát triển đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
"Phỉ
thương bất phú, phỉ công bất hoạt, phỉ trí bất hưng và phỉ nông bất ồn" (tức
không buôn bán thì không giàu có được, không làm nghề thủ công công nghiệp
thì xã hội không năng động, không có kiến thức thì không hưng thịnh, không
có nông nghiệp thì không ổn đnh).
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại bán đảo Sơn
Trà- Đà Nằng. Đến năm 1884, sau hiệp ước Patơnốt, Việt Nam nằm dưới sự cai
trị của thực dân Pháp, đất nưc bị chia cắt thành ba miền vói ba chế độ chính
trị khác nhau. Trong thòi gian thực dân Pháp cai trị, kinh tế - xã hội Việt Nam
những biến chuyển to lớn, trong đó đặc biệt là kinh tế thương nghiệp.
Việc nghiên cứu kinh tế thương nghiệp Việt Nam thời kỳ 1858 - 1945 có ý
nghĩa khoa học to lớn. Trước hết là làm sáng tỏ nh chất của nền thương
nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc, thấy rõ được sbiến đổi của kinh tế thương
nghiệp Việt Nam thời kỳ này. Đồng thời, chỉ ra được những đặc điểm và tác
động của thương nghiệp đối với kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuc đa.
1.2 Mục tiêu của chuyên đề nghiên cứu
Nhằm làm rõ tình hình thương nghiệp Việt Nam thòi thuộc địa, tập trung
nghiên cứu về các chính sách thương nghiệp cũng như các hoạt động thương
nghiệp thời kỳ này để có cái nhìn khái quát hơn, khách quan hơn về một nền
thương nghiệp đã tồn tại ở Việt Nam.
Làm rõ bản chất của chính sách thương nghiệp, điểm tích cực và hạn chế
của một nền thương nghiệp mà thực dân Pháp đã xây dựng trên đất nước Việt
Nam
1.3 Đối tượng nghiên cứu chuyên đề
- Khóa luận tập trung nghiên cứu về hoạt động kinh tế thương nghiệp Việt
Nam trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
lOMoARcPSD| 23136115
1.4 Phương pháp nghiên cứu chuyên đề
Để thực hiện khóa luận em sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính
phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra còn sử dụng một số phương
pháp khác như so sánh, tổng hợp, thống kê, phân tích...
1.5 Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mục lục, tài liệu tham khảo kết cấu của chuyên đề bao gồm 03
phần chính:
Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội dung của chuyên đề
Kinh tế thương nghiệp Việt Nam thời kỳ 1858 - 1945 Phần
III: Kết luận
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1 KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1858 -1918
2.1.1. Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và chính sách thương
nghiệp của thực dân Pháp ở Việt Nam
Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1918)
- Sau khi dập tắt phong trào Cần Vương, thực dân Pháp về căn bản đã hoàn
thành công cuộc bình định Việt Nam về mặt quân sự. Trong bối cảnh đó đã có
thể bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng như Đông Dương
nói chung một cách quy mô. Ngày 22/3/1897, Toàn quyền Đông Dương Pôn
Đume (Paul Doumer) gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp dự án chương trình
hoạt động:
1. Tổ chức một chính phủ chung cho toàn Đông Dương và tổ chức bộ
máycai trị hành chính riêng cho từng “xứ” thuộc Liên bang.
2. Sửa đổi lại chế độ tài chính, thiết lập một hệ thống thuế khóa mới sao
cho phù hợp với yêu cầu của ngân sách, nhưng phải dựa trên cơ sở xã hội cụ thể,
và phải chú ý khai thác những phong tục, tập quáncủa dân Đông Dương.
3. Chú ý xây dựng thiết bị lớn cho Đông Dương, như xây dựng hệ thống
đường sắt, đường bộ, sông đào, bến cảng... rất càn thiết cho công cuộc khai thác.
4. Đẩy mạnh nền sản xuất thương mại bằng việc phát triển công cuộc
thực dân của người Pháp và lao động của người bản xứ.
5. Bảo đảm phòng thủ Đông Dương bằng việc thiết lập những căn cứ
hải quân và phải tổ chức quân đội và hạm đội cho thật vững mạnh.
lOMoARcPSD| 23136115
6. Hoàn thành công cuộc bình định xứ Bắc Kì, bảo đảm an ninh vùng
biêngiới Bắc Kì.
7. Khuếch trương ảnh hưởng của nước Pháp, mở rộng quyền lợi của
nước
Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân cận”
[13, tr.97-98]
Để phục vụ kịp thời và đắc lực cho công cuộc khai thác và bóc lột kinh tế,
Đume chú ý tới hai yếu tố chính trị “chia để trị” và “dùng người Việt trị người
Việt”. Theo sắc lệnh ngày 17/10/1887, thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông
Dương, năm đó mới bao gồm có Bắc Kì, Trung Kì, Nam Campuchia, trực
thuộc Bộ Hải quân Thuộc địa. Ngày 19/4/1899, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh
sáp nhập thêm Lào vào Liên bang Đông Dương. Việt Nam bchia cắt làm 3 kì:
Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì với ba chế độ cai trị khác nhau. Bắc Kì và Trung Kì
là hai xứ bảo hộ vẫn còn giữ lại chính quyền phong kiến về hình thức; Nam Kì là
đất thuộc địa hoàn toàn do Pháp nắm cùng với Lào và Campuchia ng đất bảo
hộ của Pháp, hợp thành Liên bang Đông Dương. Với thủ đoạn này, Pháp hằm xóa
bỏ tên Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới.
Trên lĩnh vực kinh tế, mục đích của thực dân Pháp là bóc lột nhân công, vơ
vét nguồn tài nguyên, biến Việt Nam Đông Dương thành thị trường của riêng
nước nước Pháp. Vào giai đoạn đầu của cuộc khai thác do chưa những chỗ dựa
vững chắc trong khu vực làng xã, nông thôn nên thực dân Pháp chỉ mới chú trong
vào hai lĩnh vực chủ yếu là nông nghiệp và khai m.
+ Nông nghiệp: nổi bật là chính sách ruộng đất của Pháp. Năm 1897, Pháp
ép triều Nguyễn điều ước “nhượng” quyền “khai khẩn đất hoang” cho Pháp.
Với tham vọng xây dựng Việt Nam thành thị trường cung cấp nguyên liệu cho
chính quốc Pháp, đội ngũ thực dân đã ngay lập tức tăng cường cướp đoạt đất đai,
thực hiện việc cướp đoạt bằng nhiều biện pháp khác nhau.
+ Công nghiệp: chú trọng khai thác mỏ than kim loại, ngoài ra ngành
công nghiệp phục vụ đời sống như điện, nước, bưu điện cũng lần lượt ra đời.
+ Giao thông vận tải: xây dựng hệ thống đường giao thông hiện đại, vừa
phục vụ làm ăn lâu dài, vừa nhằm mục đích quân sự.
Với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa từng bước du nhập vào Việt Nam. Khi tiến hành khai thác, Pháp vẫn
duy trì phương thức bóc lột phong kiến trong mọi lĩnh vực kinh tế và đời sống
xã hội.
Chỉnh sách thương nghiệp của thực dân Pháp ở Việt Nam:
Thực dân Pháp muốn độc chiếm thị trường Đông Dương nên đã thực hiện
những chính sách độc quyền về thương mại. Đồng thời, Pháp để những đặc
quyền như miễn thuế cập bến, thuế hải đăng cho tàu buôn Pháp, và đánh thuế
lOMoARcPSD| 23136115
nhẹ vào hàng hóa ca Pháp. Hàng ngoại quốc nhập cảng phải nộp thuế bằng 5%
giá hàng thì hàng Pháp chỉ phải nộp 2,5% giá hàng để Pháp có thể bán được
chạy hơn.
Trong "Dự án chưomg trình hành động" của toàn quyền Đông Dương do
Pôn Dume gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp ngày 22/3/1897, đã nói rõ
trong điểm thứ tư là: "Đẩy mạnh nền sản xuất và thương mại bằng việc phát
triển công cuộc thực dân của người Pháp và lao động của người bản xứ".
Ngoài ra, 1897, Pháp còn quy định độc quyền về muối. Các cơ sở sản xuất
muối của dân phải bán cho các công ty của Pháp, ai bán ra ngoài coi như phạm
pháp. Sau đó, các công ty Pháp bán ra với giá cao hơn gấp 10 lần. Việc buôn bán
các loại hàng hóa khác cũng chủ yếu ừong tay tư bản Pháp. Ngày 11/1/1892,
thực dân Pháp lại ra một đạo luật thuế quan mới, quy định hàng Pháp được hoàn
toàn miễn thuế, còn hàng hóa nước khác phải đóng thuế từ 25% đến 120% giá tri
hàng hóa. Như vậy hàng hóa Pháp được tự do tràn vào Việt Nam. Nhiều công ty
thưcmg mại Pháp được thành lập từ cuối thế kỷ XIX đã tăng cường hoạt động ở
khu vực này. “Với chính sách này, Pháp thực hiện mục đích độc quyền thương
mại, tạo điều kiện đưa hàng Pháp ồ ạt tràn vào thị trường Việt Nam, buộc nhân
dân Việt Nam phải mua hàng của Pháp với giá cắt cổ” [10, tr.32] .
2.1.2. Kinh tế thương nghiệp Việt Nam giai đoạn 1858 -1918
Nội thương:
- Do triều đình phong kiến hành chính sách ức thương: bế quan tỏa cảng,
đánh thuế nặng nề các nhà sản xuất thủ công và nhà buôn. Đây chính là nguyên
nhân chủ yếu kìm hãm sự phát triển của nội thương trong nước. Tuy nhiên, sự
tồn tại và phát triển của các nghề thủ công Việt Nam như tơ lụa,làm gốm, đúc
đồng... đã khiến cho thị trường mở rộng. Hàng hóa không chỉ cung cấp trong các
làng nghề mà còn buôn bán trong tỉnh và vượt ra ngoài các tỉnh khác nữa. Việc
mở rộng thị trường gắn liền với việc xuất hiện tầng lớp thương nhân Việt Nam.
Vai trò hoạt động của thương nhân Việt Nam ở thành thị và từ địa phương đến
thành thị cũng khá rõ rệt. Ở Bắc Kì có nhiều thương nhân chuyên buôn tơ lụa Hà
Đông, chum vại Thanh Hóa, bát ở Bát Tràng (Bắc Ninh). Ngược lại, cũng có
những thương nhân khác buôn hàng hóa từ Hà Nội tỏa về bán ở các địa phương
khác. Ở Nam Kì cũng có những thương nhân buôn tơ lụa ở các tỉnh miền Đông,
gạch ngói ở chung quanh Sài Gòn, Chợ Lớn... đem bán. Sự sàm uất ở một số đô
lOMoARcPSD| 23136115
thị Việt Nam đã làm cho nhiều người ngoại quốc phải ca tụng đến độ ngạc
nhiên. Người ta đứng trước cảnh hàng nghìn thuyền buôn chen chúc nhau ữên
sông Sài như một thành phố nổi trên mặt nước.Gòn đã phải sông Sài Gòn
năm 1859.
- Trong hàng ngũ thưcmg nhân có một số hoạt động ưên thị trường ở một
phạm vi khá rộng: buôn bán hàng hóa giữa Nam và Bắc, giữa xứ này với xứ
khác, giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài. Nhiều thương nhân
Việt Nam chuyên buôn nhiễu từ Bình Định rồi vận tải bằng đường bộ đem bán ở
các tỉnh lân cận. Sự mở rộng thị trường với những hoạt động của thương nhân
chứng tỏ sự phát triển ở một mức độ nhất định của nền nội thương Việt Nam giai
đoạn này. Tình hình hoạt động của thuyền buôn Việt Nam đi khắp Nam Kì và
vàinơi ở Trung Kì qua cửa biển Sài Gòn trong mấy năm đầu bị chiếm đóng đã
cho thấy rõ hoạt động của nhà buôn Việt Nam.
“Năm 1865, có 7 843 thuyền buôn Việt Nam ra vào cửa biển Sài Gòn;
năm 1867 có 9 492 thuyền. Những thuyền buôn này liên lạc thường xuyên giữa
những tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa; Cần Thơ, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bình Thuận, P
Yên, Quảng Nam, Bình Định. Khi nhập cửa biển Sài Gòn, những thuyền buôn
này chở muối, vôi, gạo, dầu dừa, đồ gốm, tơ lụa, đường, thóc gạo. Khi xuất,
những thuyền này chở đồ gốm, gạo, thóc,.v.v. Tỉ dụ năm 1867, 4 741 thuyền
Việt Nam đã mua từ các tỉnh và đưa vào Sài Gòn 102 334 kg gạo, 7 121 vò dầu
dừa, 529 240 kg đường, 2 280 kg tơ lụa, 359 700kg thóc, 93 111 chiếc đồ gốm,
.v.v. Tổng cộng trị giá 3 947 093 Fr. Cùng năm, 4 751 thuyền Việt Nam đã chở
từ Sài Gòn ra các tỉnh 2 866 100 chiếc đồ gốm, 417 tấm tơ lụa, v.v... trị giá
2.286.444 Fr” [4, tr.22].
- Những con số đó chứng tỏ hoạt động của thương nhân Việt Nam trên
đường thủy đã mạnh hơn. Ở thành thị lúc này đã dần trở thành những trung tâm
buôn bán. Nhiều người buôn bán Việt Nam đã từ nông thôn dần về kinh doanh
thành thị. Do yêu cầu về xuất cảng cũng như nhập cảng ngày càng tăng, lớp
thương nhân ở thành thị thu mua nông phẩm để bán cho các hãng xuất cảng, nên
tiền vốn của họ tăng lên rất nhanh. Tại các thị trấn khác ở Nam Kì, số người
buôn bán Việt Nam có ít hơn. Ví dụ năm 1870, ở Biên Hòa có 5 ngưòi, ở Mĩ
Tho có 2, ở Vĩnh Long có 4,...
- Đối với người Việt, những điều kiện vào đầu thế kỉ XX cùng với thái độ
“cởi mở” của chính quyền thuộc địa đã là dịp khiến nhiều người tiến vào hoạt
lOMoARcPSD| 23136115
động trong lĩnh vực lâu nay là lãnh địa của Hoa Kiều, Ấn Kiều và Pháp Kiều với
một sự cạnh tranh quyết liệt. Sự giao lưu buôn bán giữa các vùng miền trở nên
sôi động, nhộn nhịp với những phương tiện tiện vận tải phong phú: tàu, thuyền,
xe cộ... Các loại nông hải sản được chuyển từ miền xuôi lên miền núi. Lâm thổ
sản từ miền núi được chở về miền xuôi. Miền Nam chở ra miền Bắc các loại
gạo,hạt tiêu, nước mắm... Ngược lại, xi măng, than đá... được chở từ miền Bắc
vào tiêu thụ ở miền Nam.
- Trung Kì là xứ năng động trong việc buôn bán trên thị trường nội địa hơn
Bắc Kì và Nam Kì. Giá trị hàng hóa lưu chuyển trung bình mỗi năm trong giai
đoạn 1897-1901 là 44.622.000 francs; từ 1902 - 1906 tăng lên 71.077.0 francs,
tức là tăng 59% so với giai đoạn trước, năm 1897 là 23.311.0 francs thì năm
1901 tăng lên 72.900.000 francs và 1905 tăng lên 73.925.0 francs. Cụ thể như
bảng 1
- Trong giá trị hàng hóa buôn bán trong nội địa của Trung Kì, một
nửađược thực hiện ở Trung Kì, phần còn lại vói Nam Kì và Bắc Kì. Hàng hóa
bán cho Nam chả cá, nước mắm, đường (trắng, đen, nâu), gcác loại, cau
khô... và hàng hóa mà Trung mua của Nam là gạo, đgốm, chè, sợi bông.
Đối với Bắc Kì, việc buôn bán ven bờ của xứ này mặc dù không lớn bằng Trung
Kì nhưng cũng tăng lên từng năm. Cụ thể như bảng 2
lOMoARcPSD| 23136115
- Nam Kì, việc buôn bán trong nội địa đứng sau Trung nhưng
đứngtrước Bắc về giá ttị hàng hóa trao đổi, với mức tăng khá nhanh, cụ thể
trong bảng 3
- Buôn bán trong nội địa tăng lên, số thương gia tăng lên và thuế môn
bàicũng tăng lên, trong đó thuế đánh vào buôn bán. Nội, năm 1901
trên 4000 ngưòi phải nộp thuế môn bài.
- Nội thương phát triến không những chỉ biểu hiện s mở rộng
thịtrường tiêu thụ hàng hóa còn sự thay đổi ừong cấu hàng hóa được
tiêu thụ trong nước. Lúc này trên thị trường không chỉ những mặt hàng quen
thuộc mà đã xuất hiện thêm nhiều loại hàng hóa mới như: dầu hỏa, các sản phẩm
chế tạo công nghiệp từ đồ may mặc đến đồ kim khí, cà phê, sữa, pho mát... thậm
chí còn xuất hiện những loại hàng hóa đặc biệt như: bất động sản, điện, nước.
Ngoài ra, còn nảy sinh các ngành buôn bán tương ứng đó là kinh doanh bất động
sản, điện, nước... Những mặt hàng này xuất hiện trên thị trường đã tác dụng
lOMoARcPSD| 23136115
kích thích sự phát triển của các ngành kinh tế trong nước, làm biến đổi cấu
dân đời sống kinh tế - hội của những vùng nền kinh tế nội thương phát
triển. Việc buôn bán phát đạt đã tạo điều kiện cho những thương nhân người Việt
tự thành lập ra các công ty thương mại của riêng mình đcạnh tranh thu lợi nhuận.
Sự thu hút của thương nhiệp đã khiến cho các sĩ phu đương thời cũng đứng ra hô
hào tự lập ra các hãng buôn, các tổ chức thương nghiệp,ví dụ như: Hồng Tân
Hưng, Đông Thành Xương Nội, Triều Dương thương quán Nghệ An...
Tiêu biểu là hãng buôn Quảng Hưng Long; hãng buôn Quảng Họp ích Bắc Kì,
công ty Phượng Lâu Trung Kì, công ty nước mắm Liên Thành Nam Kì... Trong
chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), nội thương cũng đã chiều hướng
phát triển. sản Việt Nam phần nào thoát khỏi sự kìm hãm nghiệt ngã của
bản Pháp và đã vươn lên, mở rộng thị trường nội địa.
Nội thương giai đoạn 1858 - 1918 phát triển là do các nguyên nhân chủ yếu
sau: Nghề thủ công nghiệp Việt Nam tồn tại khởi sắc như lụa, làm gốm...
làm cho thị trường mở rộng. Hàng hóa không chỉ cung cấp trong làng nghề
còn buôn bán ttong tỉnh và các tỉnh ngoài. Ngoài ra, vai trò của thương nhân Việt
Nam cũng rất quan trọng. Họ buôn bán hàng hóa từ Nội đến các địa phương
khác, buôn bán từ miền Nam ra Bắc, giữa các vùng ttong cả nước. Các buôn Việt
Nam hoạt động hiệu quả, thể hiện qua sự trao đổi mua bán ven bờ giữa Bắc Kì
- Trung Kì - Nam Kì.
Ngoại thương
- So vói nửa đầu thế kỉ XIX, quan hệ buôn bán của nước ta phần
mởrộng hơn.
“Các thương cảng Sài Gòn, Đà Nang, Hải Phòng mở rộng. Tàu buôn nước
ngoài nhập hàng hóa vào mua hàng hóa, nông phẩm trong nội địa Việt Nam
đem đi. Cửa biển Sài Gòn trong những năm 1860 - 1862 đã có khoảng 400 tàu
thuyền buôn ra vào của Pháp, Anh, Đức, Mỹ, Bỉ, Hà Lan, Trung Quốc. Các hàng
nhập cảng giấy, bát đĩa, quần áo, lụa, phòng, diêm, gạo... sổ xuất nhập
cảng ngày càng tăng. Tỉnh riêng khối lượng hàng hóa của các tàu buôn ngoại quốc
xuất cảng cửa bể Sài Gòn năm 1860 81.595 tẩn, năm 1877 đã tăng thành
361.411 tẩn ” [4, tr.21].
- Do những khó khăn trong nông nghiệp, nhất sau khi Nam rơi
vàotay Pháp nên Nhà Nguyễn phải bỏ dàn chủ trương “ức thương”. Năm 1866,
theo đề nghị của Đặng Huy Trứ, vua Tự Đức đã cho lập ty Bình Chuẩn thấy
việc buôn bán mang lại lợi ích thực sự cho đất nước.
“Tháng 6/1866, triều đình cho thành lập Ty Bình Chuẩn để chuyên trông
coi việc buôn bán. Đặng Huy Trứ được cứ giữ chức Bình Chuẩn Sử Ty. Tháng
lOMoARcPSD| 23136115
9/1867, Tự Đức bãi bỏ Ty Bình Chuẩn hoạt động gây nhiều phiền phức cho
dân, gần như ừanh lộc với dân, nên bảo bỏ đi” [18,tr.93].
- Tiếp đó, năm 1869, Tự Đức cho phép dân thường ra nước ngoài
buônbán. Nhận thức được lợi ích của việc mở rộng quan hệ thông thương với
nước ngoài, năm 1876, quần thần nhà Nguyễn vận động Tự Đức bỏ lệnh cấm buôn
bán đường biển với tinh thần ai vốn đi buôn nước ngoài thì thu thế 5%, từ nước
ngoài chở hàng về cũng thu 5%, nếu chở hàng cấm thì phạt. Tự Đức còn cùng
Viện mật bàn bạc phương thức thông thương, lập công ty đi Hương Cảng buôn
bán
- Tuy cho người Việt Nam được phép đi ra ngoài buôn bán, làm ăn.
TriềuNguyễn vẫn cự tuyệt các quan hệ thương mại với người nước ngoài, hạn chế
người nước ngoài lập thương điếm Việt Nam. Đến khi triều Nguyễn bắt đầu
thức tỉnh thì hiệp ước Harmand (1883) Patennootr (1884) đã hoàn thoàn thủ
tiêu cơ hội mở cửa thực hiện quan hệ thông thương với bên ngoài của Việt Nam.
Tháng 6/1867, thương nhân Trung Quốc xin được lập bến muối tại phủ Ba Xuyên
(tỉnh An Giang) xin lãnh trưng nộp thuế, mỗi năm 6000 quan, nng triều đình
Huế không cho phép.
- Vào tháng 4/1870, Tây Ban Nha đã cử sứ thần đến kinh đô Huế
xinđược gặp Tự Đưc để trình mật thư. Trong thư, Tây Ban Nha xin được thông
thương buôn bán, nhưng vua Tự Đức đã không chấp nhận. Sứ thần Tây Ban Nha
liền tự tiện ra Nam Định vùng công giáo. Hay tin, triều đình đã sai ngăn chặn
các cửa biển, vậy phải đoàn sứ thần đã phải rút về nước. Tháng giêng năm 1873,
tức năm Tự Đức thứ 25. Bất chấp sự ngăn cấm của triều đình Huế, Giăng Đuypuy
đã đua đoàn thuomg thuyền vào cửa cấm thuộc tỉnh Hải Dương, rồi từ đó đi Bắc
Ninh, Nội, đưa hàng sang Việt Nam bằng con đường sông Hồng. Trước tình
hình đó, triều đình Huế chỉ còn biết hạ lệnh cho các tỉnh thần phải châm chước
đối phó, không hướng dẫn, cũng không tiếp đón, khiến cho họ đến đâu cũng gặp
khó khăn rồi sẽ tự rút lui.
- Năm 1873, quân Pháp lấy cớ ra Bắc để xử hộ triều Nguyễn
vụJ.Dupuis nhưng thực chất để xâm lược. Để đổi lại việc quân Pháp rút khỏi
Bắc Kì, triều Nguyễn đã với Pháp bản Hiệp ước Giáp Tuất (1874) chấp nhận
tự do hóa các tuyến thương mại ở Bắc Kỳ. Phản ứng lại triều Nguyễn vẫn duy trì
chính sách cấm xuất khẩu gạo ở Bắc Kì, Hoa thương đã gửi thư tới Lãnh sự Pháp
Hải Phòng nhờ can thiệp. Trong những kiến nghị gửi năm 1879 - 1880, Hoa
thương dọa nếu tình trạng này vẫn tiếp tục thì sẽ rời bthành phố, họ muốn chính
quyền cho xuất khẩu gạo, vận chuyển tự do trên các con sông và bãi bỏ thuế nhập
khẩu nội địa.
- Trong khi triều Nguyễn tiếp tục chủ trương bảo thủ thì thực dân Pháp
lạihết sức năng động thực dụng tiên lĩnh vực thương mại. Để thực hiện mục
lOMoARcPSD| 23136115
đích lợi nhuận sau khi chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kì, thực dân Pháp vội
vàng tăng cường các hoạt động buôn bán, vét các nguồn nông sản xuất khẩu.
Năm 1859, Gia Định bị chiếm thì ngay sau năm 1860, Pháp đã xuất khẩu 58.000
tấn gạo từ cảng Sài Gòn. Đến năm 1867, Pháp đã xuất khẩu 197.889 tấn gạo
đến năm 1870 đã xuất khẩu đến 230.031 tấn. Chỉ trong vòng 10 năm số nông
phẩm xuất khẩu đã tăng gấp 4 lần. Nguồn lợi xuất khẩu lúa gạo, đã kích thích thực
dân Pháp cướp đoạt ruộng đất lôi cuốn cả giai cấp địa chủ phong kiến Việt
Nam vào guồng máy thương nghiệp, hình thành nên tầng lóp thương nhân tư sản
mại bản rất sớm và khá đông ở Sài Gòn - Gia Định đầu thế kỷ XX.
- Năm 1866, Pháp cho thuyền buôn vào cửa biển Thị Nại, tỉnh Bình
Định,đã vi phạm điều 5 của Hiệp ước 5/6/1862. Mấy năm sau đó, phương hướng
phát triển thương nghiệp của triều đình Huế phải thay đổi dần theo yêu cầu của
thực dân Pháp, thêm một số điều chỉnh. Năm 1876, bắt đầu khai trương cửa biển
Thị Nại.
- Giai đoạn 1884 - 1888, tư bản Pháp mới nhập cảng vào Đông
Dươngtrung bình mỗi năm 25,7 triệu phrang vàng, tới giai đoạn 1909 - 1913,
chúng đã nhập cảng trung bình mỗi năm được 98,6 triệu phơ-răng vàng. Trong
khoảng 25 năm ấy, hàng hóa Pháp bán sang Đông ơng, chủ yếu là Việt Nam,
đã tăng gấp 4 lần.
- Sự phát triển của ngoại thương thể thấy đó sự ra đời của
cáccông ty thương mại lớn kéo theo việc mở rộng vốn đầu như: Liên hiệp
thương mại Đông Dương và Phi châu, công ty thương mại Pháp ở Đông Dương,
công ty xuất khẩu Viễn Đông.
- Sự phát triển của ngoại thương còn có thể được nhận thấy ở sự tăng
lêncủa tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu trong thời gian 1897 - 1918. Ngài ra, sự
phát triển đó còn thể hiện tình trạng vượt trội của cán cân xuất - nhập khẩu. Kết
quả nghiên cứu trong 16 năm từ 1897 đến 1912 cho thấy, chỉ 7 năm (1900 -
1906) nhập khẩu vượt xuất khẩu, 9 năm còn lại, xuất khẩu luôn vượt so vói nhập
khẩu, thường là trên dưói 10 triệu đồng.
- Cuối cùng, sự phát triển của ngoại thương còn nhận thấy sự tăng
lêncủa giá tri xuất nhập khẩu hàng hóa. Từ 140 triệu đồng giá trị xuất, nhập
khẩu trung bình hàng năm trong những năm 1899 - 1903, con số này tăng lên 197
triệu đồng trong những năm 1909 – 1913
- Vào thời trước trong chiến tranh thế giói thứ nhất, bạn hàng
củaViệt Nam chủ yếu các nước khu vực Viễn Đông. Trong đó, Trung Quốc
và Hồng Kông là hai nước tiêu thụ gạo chính của Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam
nhập từ Trung Quốc một số lượng lớn vải bông. Ngoài ra, Việt Nam còn buôn bán
với Nhật Bản, Philipin, Indonexia, cũng như với Mỹ và một số nước Châu Âu.
lOMoARcPSD| 23136115
- Về cấu hàng hóa xuất, nhập khẩu vẫn luôn cố định. Hàng xuất
khẩugồm thóc gạo, than, xi măng, quạng kẽm, quặng thiếc, vải lụa, kẽm thỏi, tơ
sống. Còn hàng nhập khẩu gồm vải bông, dầu mỏ, máy móc, đồ khí, rượu
vang, thuốc lá, lụa nhân tạo, giấy, sữa, sợi bông, đồ dùng bằng cao su, ô tô, hóa
chất, đường... Như vậy, người dân Việt Nam bị bóc lột triệt để khi bán rẻ cho Pháp
các nông sản, khoáng sản sơ chế và mua với giá đắt các chế phẩm công nghiệp từ
chính quốc đem sang.
- Trong điều kiện kinh tế Đông Dương chưa phát triển, các công
tythương mại Pháp đã chi phối toàn bộ thị trường hàng hóa của Đông Dương. Các
công ty đó đem hàng hóa vào bán tại Việt Nam đồng thời đứng ra thu mua các sản
phẩm của Việt Nam với giá cả độc quyền rồi mang đi xuất khẩu kiếm lời. Độc
quyền của thực dân Pháp về thương mại còn phương tiện để bần cùng hóa nhân
dân lao động Việt Nam. Pháp nhập hàng dệt để kìm hãm ngành dệt thủ công cổ
truyền của Việt Nam. Các hàng mỹ nghệ xuất khẩu giá trị như sơn mài, thêu,
ren, đãng ten, đan lát, do những bàn tay khéo léo của thợ thủ công Việt Nam sản
xuất cũng bị tư bản Pháp Hoa kiều giữ độc quyền thu mua với giá rẻ mạt để
xuất cảng kiếm lợi nhuận cao.
Như vậy, ngoại thương phát triển vào đầu thế kỉ XX đã phá thế “bế quan
tỏa cảng” của Việt Nam trước đó. Tuy nhiên, với xu hướng này, bằng hàng rào
thuế quan mang tính chất đồng hóa giữa thị trường chính quốc và thuộc địa, Pháp
đã làm cho Việt Nam phụ thuộc vào Pháp, nền kinh tế Việt Nam trở thành cái đuôi
của kinh tế chính quốc.
Tóm lại, trong giai đoạn 1858 - 1918, thương mại Việt Nam đã những
bước phát triển nhất định, được biểu hiệncả ngoại thương và nội thương cũng
như sự xuất hiện của những nhân tố của một nền thương mại hiện đại. Tuy nhiên,
một nền thương mại nằm trong tay người Pháp chỉ là hình thức tước đoạt nguồn
tài nguyên sản phẩm thuộc địa để làm lọi cho các nhà bản, các công ty
bản hoạt động trong lĩnh vực thương mại Pháp.
2.2. KINH TẾ THƯƠNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1919 -1945
2.2.1. Chương trình khai thác thuộc địa lần hai chính sách thương nghiệp của
thực dân Pháp ở Việt Nam
Chương trình khai thác thuộc địa lần hai (1919 -1929)
- nước thắng trận, nhưng Pháp ra khỏi cuộc chiến tranh thế giới
thứnhất với những tổn thất lớn trên nhiêu lĩnh vực. Để hàn gắn vết thương chiến
tranh khôi phục nền kinh tế, chính quyền Pháp một mặt ra sức tìm các biện
pháp thúc đẩy sản xuất ừong nước, mặt khác tăng cường đầu khai thác thuộc
lOMoARcPSD| 23136115
địa, chủ yếu là ở Đông Dương trong đó có Việt nam. Đợt khai thác thuộc địa lần
hai kéo dài từ 1919 đến 1929
“Cuộc khai thác đầy tham vọng về kinh tế, chính trị, hội lần này được
triển khai trên quy lớn, qua các kế hoạch của Albert Sarraut - Toàn quyền Đông
Dương, sau Bộ trưởng Bộ thuộc địa được các học giả gọi quá trình tích
lũy tư bản lần thứ hai để đổi lại với quá trình tích lũy tư bản lần thứ nhất, diễn ra
từ khi Pháp sơ chiếm Nam Kì cho đến hết thế chiến I” [22, tr.15].
- Trong đợt khai thác làn hai, thực dân Pháp tiến hành đầu tư ồ ạt vào
cácngành kinh tế Việt Nam với một tốc độ nhanh hơn quy mô rộng lớn hơn lần
trước. Chỉ tính riêng trong 6 năm (1924 - 1929), tổng số vốn đầu của bản
Pháp vào Đông Dương đã tăng gấp 6 lần so với 20 năm trước chiến tranh
- Về hướng đầu ương đợt khai thác thuộc địa làn hai cũng khác so
vớithời kì đầu thế kỉ XX. Nếu như trong khai thác thuộc địa lần một, khai khoáng
giao thông vận tải chiếm vị trí hàng đầu thì trong thời này bản Pháp lại
đổ vào kinh doanh nông nghiệp song song với việc đẩy mạnh khai thác khoáng
sản. Chỉ trong một thời gian ngắn, khoảng 10 năm cuộc khai thác đó đã tạo ra một
sự bứt phá quan trọng trong nền kinh tế thuộc địa, chấm dứt tình trạng nhỏ giọt
về đầu tư, chần chừ của tư bản Pháp trong việc kỉnh doanh, khai thác thuộc địa.
- ới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, cấu
trìnhđộ phát triển của nền kinh tế Việt Nam tiếp tục những bước chuyển biến
theo hướng hiện đại hóa.
Chính sách thương nghiệp của thực dân Pháp ở Việt Nam:
- Trên thương trường, thực dân Pháp vẫn tiếp tục giữ độc quyền mua
bánba loại hàng rượu, muối thuốc phiện. Nhìn chung, các hoạt động buôn
bán lớn ở trong nước đều nằm trong tay người Pháp hoặc Hoa Kiều.
- Tiếp sau các đạo luật thuế quan các 1887,1892,1910 1913,
năm1928, chính quyền thực dân ra một nghị định mới nhằm đánh thuế nặng vào
hàng hóa của người nước ngoài, nhất hàng của Trung Quốc Nhật Bản. Với
chính sách độc quyền ngoại thương, bản Pháp đã tạo điều kiện đưa hàng hóa
của Pháp tràn ngập thị trường Việt Nam. Vói những chính sách, đạo luật hạ thuế
đối với hàng Pháp, hầu hết các hoạt động xuất nhập khẩu đều nằm trong tay Pháp,
hoặc Hoa thương.
- Các nsản Việt Nam do không đủ sức cạnh tranh với bản
nướcngoài đã chuyển sang làm thầu khoán, hoặc đóng vai trò trung gian trong
việc buôn bán giữa thị trường Việt Nam và nước ngoài.
lOMoARcPSD| 23136115
2.2.2 Kinh tế thương nghiệp Việt Nam giai đoạn 1919 -1945
Trong những năm sau thế chiến thứ nhất, thương nghiệp Việt Nam đã phát
triển song song vói sự biến động của đồng tiền, của sự phát triển các ngành kinh
tế nói chung, sự mở rộng các hệ thống giao thông thủy, bộ và sự chuyển biến của
đời sống hội thuộc địa. Sự phát triển của ngành kinh tế này kết quả đầu
vốn vào các ngành kinh tế của thực dân Pháp. Đồng thời, thương nghiệp lại có tác
dụng thu hút vốn đầu tư, kích thích sự phát triển của các ngành kinh tế khác.
Nội thương:
- Sau đại chiến thứ nhất, nhiều tư sản Việt Nam bước ra thành lập
xínghiệp công nghiệp, do đó hình thành nên nhiều thương nhân Việt Nam buôn
bán những hàng hóa sản xuất trong các công trường thủ công tư bán công nghiệp
và những xí nghiệp chế biến khác. Nhưng chỉ sau đại chiến thứ nhất mấy năm,
sản Việt Nam bị bản Pháp chèn ép kịch liệt nên đã những hãng bị phá sản.
Sự biến đổi trong công nghiệp dân tộc ấy cũng đồng thời hạn chế bớt số nhà
sản thương mại buôn hàng nội hóa. Cũng từ đó, hàng ngoại hóa nhập cảng vào
ngày một nhiều. bản Pháp cần nhiều người làm môi giới tiêu thhàng hóa cho
Pháp, số sản thương mại mại bản ngày một đông thêm. Một số ít chung vốn
với bản Pháp trong những công ty buôn bán lớn như: Cao Văn Đạt, Trương
Văn Cam... Đa số tư sản Việt Nam là lớp trung thương. Theo thống kê năm 1938
Bắc Nam 124.976 môn bài Việt Nam buôn bán, trong đó 325
môn bài đóng thuế loại trên 100$, nghĩa cũng khoảng trên 300 nbuôn loại
trung thương, còn hầu hết là tiểu thương.
- Sự phát triển của nội thương được biểu hiện trong khối lượng của
cácnguồn hàng, sự ra đời của các sở dịch vụ thương mại, của những thương
nhân các loại, của việc vận chuyển hàng hóa sgiao lưu hàng a giữa các
miền, việc tiêu thụ những mặt hàng công nghiệp và những mặt hàng ngoại nhập,
trong giá trị kinh tế mà ngành này mang lại.
- Việc thông thương hàng hóa giữa các vùng diễn ra nhộn nhịp. Đó là
giữacác vùng trong nội địa và các bến cảng; giữa các tỉnh đồng bằng các tỉnh
miền núi; giữa các vùng sản xuất vói các vùng khác. Tất cả những điều này đều
đã được phản ánh hên hầu hết các báo cáo kinh tế của các xứ, các tỉnh
“Trong quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hóa với các tỉnh đồng bằng, hàng
hóa chiếm thị phần cao nhất là các sản phẩm nông nghiệp. Năm 1919, tỉnh Hưng
Yên chở tới Nội và Hải Phòng 12.348 tấn gạo, 10.555 tấn thóc 10.798 tấn
ngô. số gạo được chuyển đi tga Thị cầu năm 1930 là 350 tấn năm 1931
2100 tấn. Ngoài ra Nội còn tiếp nhận khá nhiều ngô, lạc, vừng, chè, dâu tằm
từ các địa phương khác. Sản phẩm từ chăn nuôi đánh bắt ngày càng chiếm tỷ
trọng cao trong cơ cấu hàng hóa trao đổi giữa Hà Nội với các địa phương”
lOMoARcPSD| 23136115
[12, tr.69]. -
Đặc biệt, trong giai đoạn 1939 - 1945, kinh tế thương nghiệp Việt Nam bị kiểm
soát chặt chẽ. Để có nhiều lương thực phục vụ chiến tranh, Nhật đã kí nhiều hiệp
định với chính quyền Pháp Đông Dương yêu cầu cung cấp hàng triệu tấn gạo
cho họ. Ngay từ năm 1941, chính phủ Pháp ở Đông Dương đã cho thành lập Ban
chỉ đạo mua bán xuất khẩu thóc, gạo phụ phẩm. quan này được gọi tắt
CODIRIZ, đứng đầu một quan chức chính quyền Đông Dương và ba đại biểu
của Hiệp hội các nhà xuất cảng Pháp Đông Dương, một đại biểu Hiệp hội các
nhà xuất khẩu của người Trung Hoa. Chức năng ca nó là quản lý, kiểm soát mọi
hoạt động về sản xuất, xay xát, vận chuyển xuất cảng lúa gạo trên thị trường
Nam Kỳ.
- Từ đầu năm 1941 đến năm 1945, chính quyền Pháp đã đra chủ
trươngmua thóc tạ và lập ra một bộ máy tỏa về tất cả các địa phương trong nước
Việt Nam, qua từng cánh đồng, khám từng nhà giàu, nhà nghèo để cưỡng bức bán
thóc gạo cho họ với giá theo quy định. Gmua thóc tạ theo họ đề ra thấp hơn
nhiều so với giá thị trường. Cao nhất là băng 8 - 9%, có khi chỉ bằng 2-3%.
- Tính đến tháng 12 năm 1941, quan này đã điều hành việc xuất
khẩutổng số 870.000 tấn gạo trắng, trong đó chuyển sang Nhật là 585.000 tấn.
Như vậy, với việc thành lập CODIRIZ và chủ trương quản lý chặt chẽ việc
xuất khẩu lúa gạo, thực dân Pháp đã đáp ứng các yêu sách kinh tế của phát xít
Nhật. Đây bước đầu tiên và quan ttọng nhất của toàn bộ cái gọi chính sách
“kinh tế chỉ huy” mà chính quyền thực dân Pháp đã áp dụng ở Đông Dương trong
suốt thời kỳ chiến tranh và lệ thuộc vào phát xít Nhật.
- hàng hóa khan hiếm nên chính phủ thực dân đã thực hiện kiểm
soátchặt chviệc phân phối hàng hóa giá cả. Đặt lệ “phát bông” thẻ gia đình
cho nhân dân các thành phố trong việc mua bán các hàng hóa cần thiết như gạo,
đường, vải và lập các quan phân phối nguyên liệu như bông, đay, chất hóa học.
Pháp còn lập ra Hội đồng hóa giá để định giá mua hoặc giá bán một số mặt hàng
thiết yếu, nhất là ở các đô thị.
“Giai đoạn 1939 - 1945, nội thương của nước ta vẫn không có bước tiến
đáng kể. Bỏi thực dân Pháp đã thi hành nhiều biện pháp để biến thị trường nước
ta thảnh nơi cung cấp tài nguyên - nguyên liệu cho chính quốc. Những biện pháp
đó là: thực dân Pháp ra sức kiểm soát chặt chhàng hóa thiết yếu về giá cả
phân phối. Chúng đã thực hiện “tem phiếu”, “thẻ gia đình” ở các thành phố trong
việc mua những hàng hóa cần thiết như: gạo, đường, vải... Mặt khác chúng còn
lập các cơ quan phân phối nguyên liệu như bông, đay, vỏ dừa, chất hóa học, kim
khí,... Không những vậy, Pháp còn tăng cường đầu cơ tích trữ hàng hóa để thu lợi
nhuận. Chúng còn lập Hội đồng hóa giá để định giá mua và bán những hàng hóa
lOMoARcPSD| 23136115
càn thiết đối với đòi sống nhân dân. Trên thực tế đấy chỉ thủ đoạn mua rẻ, bán
đắt của thực dân Pháp mà thôi” [7,tr.38].
- Vào giai đoạn này, Pháp không còn độc quyền thị trường Đông
Dươngnữa, phải chia sẻ cho phát xít Nhật với một số thỏa thuận như: Pháp
vẫn được quyền xuất khẩu các sản phẩm nông công nghiệp của Đông Dương
như gạo, ngô, cao su và than (chiếm 85% giá tri xuất khẩu), còn Nhật độc quyền
các loại khoáng sản như đay, sơn nhựa thông, dầu thực vật... Do thị trường Đông
Dương bị phong tỏa, việc buôn bán, thông thương với nước ngoài (nhất với
Pháp) bị đình trệ, nguyên liệu và hàng nhập khẩu vào thị trường nội địa giảm đi
rõ rệt. Năm 1939 tổng số hàng nhập cảng là 587 nghìn tấn, đến năm 1945 chỉ còn
16 nghìn tấn. Khác với thời kì trước, thời kì này hàng ngoại hóa lại trở nên khan
hiếm trên thị trường nội địa, theo đó giá cả lương thực, hàng hóa tiêu dùng cũng
ng lên vùn vụt trên thị trường.
“Nhiều sản đã tích trữ nông phẩm, hàng ngoại hóa đrồi bán theo lối chợ
đen và phát tài rất nhanh chóng. Thí dụ gạo ở Hà Nội giá chính thức năm 1944 là
40$ một tạ, năm 1945 là 53$ một tạ, nhưng giả chợ đen là 700$ hay 800$, có khi
900$ một tạ. Vải ngoại hóa giá năm 1940 là 0$70 một thước, năm 1943 giá chính
thức đã lên thành 2$ một thước, nhưng giá chợ đen tới 10$ một thước” [4,tr.l43].
- Tóm lại, vói việc ấn định giá cả mua bán lúa gạo, thực dân Pháp đã
kiểmsoát chặt chẽ nền kinh tế Nam Kỳ. Đồng thời, dưới sức ép của phát xít Nhật,
thực dân Pháp đã bắt nhân dân Nam Kỳ cũng như nhân dân cả nước phải nhổ lúa,
hoa màu trồng đay, thầu dầu. Mục đích là tạo ra nguyên liệu phục vụ chiến tranh.
Qua đó, Pháp - Nhật đã chi phối luôn hoạt động sản xuất của nhân dân ta. Không
chỉ kiểm soát hoạt động sản xuất nông nghiệp, thị trường lúa gạo Nam Kỳ. Pháp
- Nhật còn chi phối cả nền kinh tế Nam Kỳ, qua việc kiểm soát loại hàng hóa của
vùng đất này.
- Trên thị trường nội địa Bắc Kì, các mặt hàng ừao đổi buôn bán rất
phongphú, đa dạng. Bao gồm sản phẩm của công nghiệp, lâm thổ sản... Đồng thời
cũng những mặt hàng được nhập khẩu từ các nước láng giềng như: Trung Quốc,
Lào, từ Pháp, châu Âu vào nội địa. Giao lưu buôn bán giữa thành thị nông thôn
một hoạt động thường xuyên để đảm bảo yêu cầu tiếp tế hàng hóa, nhu yếu
phẩm hàng ngày giữa các tỉnh với các thành phố, vậy luồng giao lưu, buôn
bán quan trọng nhất. Nông thôn cung cấp lương thực cho thành thị như thóc gạo,
ngô, khoai, sắn, thực phẩm tươi sống như cá, tôm, rau, quả. Thành thị tiếp tế cho
nông thôn hàng công nghệ phẩm như dầu hỏa, xà phòng, giấy, vải vóc...
Ngoại thương:
Từ đầu thế kỉ XX, đặc biệt từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, hoạt động
ngoại thương của Việt Nam không ngừng tăng lên. Do việc tăng cường đầu
lOMoARcPSD| 23136115
phát triển kinh tế, ngành ngooại thương vào thời này bước tiến bộ rệt so
với thời kì trước chiến tranh.
- Sự phát triển của ngoại thương được thể hiện ở sự vượt trội của cán
cânthương mại. Theo thống kê của Patrice Morlat thì từ 1918 đến 1926, thặng dư
trong cán cân thương mại của Đông Dương đã tăng lên 6,6 làn tổng số lợi
nhuận các công ty thương mại Đông Dương thu được trong 7 năm này 1868
triệu fr vàng, về cơ cấu xuất, nhập khẩu, theo những tài liệu thống kê của cơ quan
kinh tế Đông Dương thì việc xuất khẩu mặt hàng lương thực, thực phẩm tăng đáng
kể trong những năm 20. Cũng như vậy, đối với nguyên liệu dùng trong công
nghiệp, Đông Dương xuất khẩu nhiều cao su, quặng mỏ, da thô... nhập vào
bông, sắt... Đối với các chế phẩm, tốc độ nhập vào tăng nhanh hơn tốc độ xuất ra,
chứng tỏ Việt Nam chưa sản xuất được những chế phẩm như xe đạp, dầu hỏa,
quần áo may sẵn... Sự tiến triển của ngoại thương Đông Dương còn được khẳng
định nếu đem so sánh vói việc buôn bán của chính quốc - luôn trong tình trạng
thâm hụt trong giai đoạn này lên đến 18,5 tỉ fr vàng.
- Chỉ số ngoại thương tiên đầu người của Việt Nam vào năm 1937 đạt
180 Fr, tức là rất thấp so với Pháp, Philippin và Ân Độ thuộc Anh. Ngoài ra, tình
hình ngoại thương các vùng cũng không đều nhau. Năm 1928, chỉ số ngoại
thương bình quân đàu người Nam 600 Fr, còn Bắc 125Fr. Các
nguồn hàng trao đổi ở Nam Kì chủ yếu là nông sản (lúa, gạo, cao su...), còn Bắc
Kì lại là khoáng sản và các sản phẩm công nghiệp. Kinh tế Việt Nam lúc này còn
kém phát triển nên hàng xuất khẩu chủ yếu hàng thô hoặc mới chế, giá ttị
thấp. Ngược lại, hàng nhập khẩu là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại.
- Lúa gạo đứng đầu trong các mặt hàng xuẩt khẩu. Đến năm 1931, giá
trịgạo xuất khẩu đã chiếm tói 65% tổng giá trị hàng xuất khẩu. Mặc dù sản lượng
gạo xuất khẩu vẫn giữ ở mức độ caoứng thứ hai trên thế giới) nhưng từ 1930,
ngoài gạo còn một số mặt hàng khác, làm cho tỷ trọng gạo xuất khẩu giảm
xuống đáng kể. Năm 1939 Nam Kỳ vẫn tiếp tục chú trọng xuất cảng lúa gạo bởi
đây là nguồn lợi lớn cho chính quốc Pháp. Pháp tiến hành hoạt động xuất khẩu
gạo chỉ vì mục đích phát triển nền kinh tế chính quốc. Đặc biệt là năm 1939, khi
chính quốc Pháp tham gia chiến tranh thì nguồn lương thực lại cần thiết hơn nữa.
Vì vậy, Pháp đã tiến hành vơ vét lúa gạo của Nam Kỳ một cách gắt gao nhất.
- Sau lúa gạo đến ngô, đây mặt hàng xuất khẩu đứng hàng thứ
haicủa Đông Dương. Sau ngô mặt hàng cao su cũng ngày càng vị trí quan
trọng. Toàn bộ các sản phẩm hàng hóa lúa gạo, ngô và cao su đã chiếm 78%, tức
là trên 3/4 tổng giá ttị hàng hóa xuất khẩu của Đông Dương. Ngoài ra, còn có các
sản phẩm khác như sơn, dầu, chè, cà phê.
“Cùng với gạo, ngô là nguồn lương thực quan trọng bắt buộc cung cấp cho
Nhật. Cụ thể là: năm 1941, xuất cảng 124.923 tấn. Đến năm 1942, tiếp tục xuất
lOMoARcPSD| 23136115
cảng 98.700 70 tẩn, rồi 1944 sổ lượng xuất cảng tăng lên làl8.263 tẩn. Năm 1945,
xuất cảng IÒ12.134 tấn. Con sổ trên so với sản lượng ngô hàng năm, thì 1942 đã
xuất cảng 46%, năm 1943 là 45%, năm 1944 9%,... Thế là, gạo đã không đủ ăn,
nay đến ngô cũng bị phát xít Nhật vét, nên cuộc sổng người nông dân điêu
đứng lại càng điêu đứng hơn ” [7, tr.69-70].
- Bên cạnh các hàng nông sản, sản phẩm ngư nghiệp chiếm vtrí thứ
hai,đạt khoảng 5% tổng giá trị hàng xuất khẩu của Đông Dương vào năm 1937
(cá khô, cá hun khói, cá muối của ngư dân châu thổ sông Cửu Long và vùng Vịnh
Hạ Long). Các sản phẩm khai mỏ hầu như nằm trong tay 6 công ty Pháp. Năm
1937, mặt hàng khoáng sản chiếm 7% tổng gtrị hàng xuất khẩu. Trong đó đứng
đầu than đá; riêng thiếc, kém, vàng,... vị trí thứ hai. Mặt hàng xi măng xuất
khẩu đạt tói con số kỉ lục 125.000 tấn vào năm 1937.
- Hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam Đông Dương chủ yếu
hàngcông nghiệp như ô tô, vải, xăng, dầu hỏa. Tổng giá trị xăng dầu nhập khẩu
năm 1937 lên tới 236 triệu Fr. Các mặt hàng tiêu dùng như sợi bông, phân bón
hóa học, giấy, sách, bột mì... ngày càng tăng lên về số lượng. Trong khi đó, hàng
máy móc chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ. Nhìn chung, cán cân thương mại giai đoạn này
tương đối ổn định, thậm chí có xu hướng xuất siêu.
- Trong giai đoạn này, Việt Nam quan hbuôn bán chủ yếu vói
Pháp.Ngoài ra, tại Châu Á, Trung Quốc và Hồng Kông hai bạn hàng lớn nhất
của Việt Nam và Đông Dương. Hàng Việt Nam xuất khẩu sang hai nước này chủ
yếu là gạo.
“Sản lượng gạo Việt Nam bán sang Trung Quốc và Hồng Kông đạt
775.000 tẩn trong những năm 1922 1926 530.000 tẩn vào thời 1933 1937”
[10,tr.ll8].
Bên cạnh đó, họ còn nhập từ Việt Nam các mặt hàng như: khô, trứng,
chè. Đổi lại, Việt Nam mua của hai nước này một khối lượng lớn hàng vải sợi
(lụa, tơ, bông...).
- Hàng hóa của Việt Nam bán ra nước ngoài chủ yếu khoáng sản,
lúagạo, cao su, chè, phê, hạt tiêu. Trong những năm 1929 - 1932; giá trị xuất
khẩu gạo đã chiếm hơn 60% tổng giá trị các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Các mặt hàng xuất khẩu của Pháp sang Việt Nam chủ yếu các mặt hàng tiêu
dùng, phục vụ sinh hoạt. dụ như: Vải, bông, giày dép, thuốc lá... các loại
máy móc phục vụ phát triển công nghiệp thì không được nhập vào. Năm 1929,
chỉ riêng các mặt hàng bia rượu được đưa vào Đông Dương đã lên tới 63 triệu
Phrang, ừong khi đó chỉ nhập 2,4 triệu phrang các loại máy kéo và máy phục vụ
nông nghiệp. Thông qua các đạo luật thuế quan, thực dân Pháp ngày càng cột chặt
thị trường Việt Nam vào thị trường nước Pháp.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 23136115
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN KHOA: KINH TẾ BÀI TIỂU LUẬN
Bộ Môn: Lịch sử kinh tế
Đề Tài: Chính sách kinh tế của Pháp (1858-1945) và hệ
lụy đối với nền kinh tế nước ta
Giáo viên giảng dạy: Lương Thị Hải Yến
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Nhung Mã sinh viên: 10923138 Lớp: 109233 Hải Dương, 11/2023 LỜI CẢM ƠN lOMoAR cPSD| 23136115
Trong thời gian học tập tại trường em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ
và tạo điều kiện của các thầy, cô giáo trong khoa Kinh tế cùng với sự giúp đỡ
động viên khích lệ của các bạn sinh viên. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn đến cô Lương Thị Hải Yến , người đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ trong suốt thời gian học tập để em có thể hoàn thành bài tiểu luận này.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, do điều kiện hạn hẹp về thời gian
của bản thân và hạn chế về kiến thức nên không tránh khỏi những thiếu sót
khi hoàn thành bài luận. Vì vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của cô giáo ề đè tài của em được cả thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn. lOMoAR cPSD| 23136115 MỤC LỤC PHẦN I. MỞ ĐẦU 1.1.
Tính cấp thiết của chuyên đề nghiên cứu………………………………3 1.2.
Mục tiêu của chuyên đề nghiên cứu………………………….………….3 1.3.
Đối tượng nghiên cứu chuyên đề………………………………………..3 1.4.
Phương pháp nghiên cứu chuyên đề……………………………….……3 1.5. Kết cấu của chuyên
đề……………………………………………….…..4
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1.Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1858-1918
2.1.1Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và chính sách thương
nghiệp của thực dân Pháp ở Việt Nam……………………………….….4
2.1.2 . Kinh tế thương nghiệp Việt Nam giai đoạn 1858-1918………….…….6
2.2.Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1919-1945
2.2.1. Chương trình khai thác thuộc địa lần hai và chính sách thương nghiệp của
thực dân Pháp ở Việt Nam……………………………………...............13
2.2.2. Kinh tế thương nghiệp Việt Nam giai đoạn 1919 -1945………………..14
2.3.HỆ LỤY ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ 1858 -1945...21
2.4.Đánh giá chung về vấn đề nghiên
cứu…………………………………...22
PHẦN III. KẾT LUẬN……………………………………………..………23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO lOMoAR cPSD| 23136115 PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của chuyên đề nghiên cứu
Thương nghiệp là một ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong việc đưa
đất nước phát triển đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. "Phỉ
thương bất phú, phỉ công bất hoạt, phỉ trí bất hưng và phỉ nông bất ồn" (tức là
không buôn bán thì không giàu có được, không làm nghề thủ công công nghiệp
thì xã hội không năng động, không có kiến thức thì không hưng thịnh, không
có nông nghiệp thì không ổn định).
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại bán đảo Sơn
Trà- Đà Nằng. Đến năm 1884, sau hiệp ước Patơnốt, Việt Nam nằm dưới sự cai
trị của thực dân Pháp, đất nước bị chia cắt thành ba miền vói ba chế độ chính
trị khác nhau. Trong thòi gian thực dân Pháp cai trị, kinh tế - xã hội Việt Nam có
những biến chuyển to lớn, trong đó đặc biệt là kinh tế thương nghiệp.
Việc nghiên cứu kinh tế thương nghiệp Việt Nam thời kỳ 1858 - 1945 có ý
nghĩa khoa học to lớn. Trước hết là làm sáng tỏ tính chất của nền thương
nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc, thấy rõ được sự biến đổi của kinh tế thương
nghiệp Việt Nam thời kỳ này. Đồng thời, chỉ ra được những đặc điểm và tác
động của thương nghiệp đối với kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa.
1.2 Mục tiêu của chuyên đề nghiên cứu
Nhằm làm rõ tình hình thương nghiệp Việt Nam thòi thuộc địa, tập trung
nghiên cứu về các chính sách thương nghiệp cũng như các hoạt động thương
nghiệp thời kỳ này để có cái nhìn khái quát hơn, khách quan hơn về một nền
thương nghiệp đã tồn tại ở Việt Nam.
Làm rõ bản chất của chính sách thương nghiệp, điểm tích cực và hạn chế
của một nền thương nghiệp mà thực dân Pháp đã xây dựng trên đất nước Việt Nam
1.3 Đối tượng nghiên cứu chuyên đề
- Khóa luận tập trung nghiên cứu về hoạt động kinh tế thương nghiệp Việt
Nam trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. lOMoAR cPSD| 23136115
1.4 Phương pháp nghiên cứu chuyên đề
Để thực hiện khóa luận em sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính là
phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra còn sử dụng một số phương
pháp khác như so sánh, tổng hợp, thống kê, phân tích...
1.5 Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mục lục, tài liệu tham khảo kết cấu của chuyên đề bao gồm 03 phần chính: Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội dung của chuyên đề
Kinh tế thương nghiệp Việt Nam thời kỳ 1858 - 1945 Phần III: Kết luận
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1 KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1858 -1918
2.1.1. Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và chính sách thương
nghiệp của thực dân Pháp ở Việt Nam
Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1918)
- Sau khi dập tắt phong trào Cần Vương, thực dân Pháp về căn bản đã hoàn
thành công cuộc bình định Việt Nam về mặt quân sự. Trong bối cảnh đó đã có
thể bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng như Đông Dương
nói chung một cách quy mô. Ngày 22/3/1897, Toàn quyền Đông Dương Pôn
Đume (Paul Doumer) gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp dự án chương trình hoạt động: 1.
Tổ chức một chính phủ chung cho toàn Đông Dương và tổ chức bộ
máycai trị hành chính riêng cho từng “xứ” thuộc Liên bang. 2.
Sửa đổi lại chế độ tài chính, thiết lập một hệ thống thuế khóa mới sao
cho phù hợp với yêu cầu của ngân sách, nhưng phải dựa trên cơ sở xã hội cụ thể,
và phải chú ý khai thác những phong tục, tập quáncủa dân Đông Dương. 3.
Chú ý xây dựng thiết bị lớn cho Đông Dương, như xây dựng hệ thống
đường sắt, đường bộ, sông đào, bến cảng... rất càn thiết cho công cuộc khai thác. 4.
Đẩy mạnh nền sản xuất và thương mại bằng việc phát triển công cuộc
thực dân của người Pháp và lao động của người bản xứ. 5.
Bảo đảm phòng thủ Đông Dương bằng việc thiết lập những căn cứ
hải quân và phải tổ chức quân đội và hạm đội cho thật vững mạnh. lOMoAR cPSD| 23136115 6.
Hoàn thành công cuộc bình định xứ Bắc Kì, bảo đảm an ninh vùng biêngiới Bắc Kì. 7.
Khuếch trương ảnh hưởng của nước Pháp, mở rộng quyền lợi của nước
Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân cận” [13, tr.97-98]
Để phục vụ kịp thời và đắc lực cho công cuộc khai thác và bóc lột kinh tế,
Đume chú ý tới hai yếu tố chính trị “chia để trị” và “dùng người Việt trị người
Việt”. Theo sắc lệnh ngày 17/10/1887, thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông
Dương, năm đó mới bao gồm có Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì và Campuchia, trực
thuộc Bộ Hải quân và Thuộc địa. Ngày 19/4/1899, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh
sáp nhập thêm Lào vào Liên bang Đông Dương. Việt Nam bị chia cắt làm 3 kì:
Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì với ba chế độ cai trị khác nhau. Bắc Kì và Trung Kì
là hai xứ bảo hộ vẫn còn giữ lại chính quyền phong kiến về hình thức; Nam Kì là
đất thuộc địa hoàn toàn do Pháp nắm cùng với Lào và Campuchia cũng là đất bảo
hộ của Pháp, hợp thành Liên bang Đông Dương. Với thủ đoạn này, Pháp hằm xóa
bỏ tên Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới.
Trên lĩnh vực kinh tế, mục đích của thực dân Pháp là bóc lột nhân công, vơ
vét nguồn tài nguyên, biến Việt Nam và Đông Dương thành thị trường của riêng
nước nước Pháp. Vào giai đoạn đầu của cuộc khai thác do chưa có những chỗ dựa
vững chắc trong khu vực làng xã, nông thôn nên thực dân Pháp chỉ mới chú trong
vào hai lĩnh vực chủ yếu là nông nghiệp và khai mỏ.
+ Nông nghiệp: nổi bật là chính sách ruộng đất của Pháp. Năm 1897, Pháp
ép triều Nguyễn kí điều ước “nhượng” quyền “khai khẩn đất hoang” cho Pháp.
Với tham vọng xây dựng Việt Nam thành thị trường cung cấp nguyên liệu cho
chính quốc Pháp, đội ngũ thực dân đã ngay lập tức tăng cường cướp đoạt đất đai,
thực hiện việc cướp đoạt bằng nhiều biện pháp khác nhau.
+ Công nghiệp: chú trọng khai thác mỏ than và kim loại, ngoài ra ngành
công nghiệp phục vụ đời sống như điện, nước, bưu điện cũng lần lượt ra đời.
+ Giao thông vận tải: xây dựng hệ thống đường giao thông hiện đại, vừa
phục vụ làm ăn lâu dài, vừa nhằm mục đích quân sự.
Với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa từng bước du nhập vào Việt Nam. Khi tiến hành khai thác, Pháp vẫn
duy trì phương thức bóc lột phong kiến trong mọi lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội.
Chỉnh sách thương nghiệp của thực dân Pháp ở Việt Nam:
Thực dân Pháp muốn độc chiếm thị trường Đông Dương nên đã thực hiện
những chính sách độc quyền về thương mại. Đồng thời, Pháp để những đặc
quyền như miễn thuế cập bến, thuế hải đăng cho tàu buôn Pháp, và đánh thuế lOMoAR cPSD| 23136115
nhẹ vào hàng hóa của Pháp. Hàng ngoại quốc nhập cảng phải nộp thuế bằng 5%
giá hàng thì hàng Pháp chỉ phải nộp 2,5% giá hàng để Pháp có thể bán được chạy hơn.
Trong "Dự án chưomg trình hành động" của toàn quyền Đông Dương do
Pôn Dume gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp ngày 22/3/1897, đã nói rõ
trong điểm thứ tư là: "Đẩy mạnh nền sản xuất và thương mại bằng việc phát
triển công cuộc thực dân của người Pháp và lao động của người bản xứ".
Ngoài ra, 1897, Pháp còn quy định độc quyền về muối. Các cơ sở sản xuất
muối của dân phải bán cho các công ty của Pháp, ai bán ra ngoài coi như phạm
pháp. Sau đó, các công ty Pháp bán ra với giá cao hơn gấp 10 lần. Việc buôn bán
các loại hàng hóa khác cũng chủ yếu ừong tay tư bản Pháp. Ngày 11/1/1892,
thực dân Pháp lại ra một đạo luật thuế quan mới, quy định hàng Pháp được hoàn
toàn miễn thuế, còn hàng hóa nước khác phải đóng thuế từ 25% đến 120% giá tri
hàng hóa. Như vậy hàng hóa Pháp được tự do tràn vào Việt Nam. Nhiều công ty
thưcmg mại Pháp được thành lập từ cuối thế kỷ XIX đã tăng cường hoạt động ở
khu vực này. “Với chính sách này, Pháp thực hiện mục đích độc quyền thương
mại, tạo điều kiện đưa hàng Pháp ồ ạt tràn vào thị trường Việt Nam, buộc nhân
dân Việt Nam phải mua hàng của Pháp với giá cắt cổ” [10, tr.32] .
2.1.2. Kinh tế thương nghiệp Việt Nam giai đoạn 1858 -1918 Nội thương:
- Do triều đình phong kiến hành chính sách ức thương: bế quan tỏa cảng,
đánh thuế nặng nề các nhà sản xuất thủ công và nhà buôn. Đây chính là nguyên
nhân chủ yếu kìm hãm sự phát triển của nội thương trong nước. Tuy nhiên, sự
tồn tại và phát triển của các nghề thủ công Việt Nam như tơ lụa,làm gốm, đúc
đồng... đã khiến cho thị trường mở rộng. Hàng hóa không chỉ cung cấp trong các
làng nghề mà còn buôn bán trong tỉnh và vượt ra ngoài các tỉnh khác nữa. Việc
mở rộng thị trường gắn liền với việc xuất hiện tầng lớp thương nhân Việt Nam.
Vai trò hoạt động của thương nhân Việt Nam ở thành thị và từ địa phương đến
thành thị cũng khá rõ rệt. Ở Bắc Kì có nhiều thương nhân chuyên buôn tơ lụa Hà
Đông, chum vại Thanh Hóa, bát ở Bát Tràng (Bắc Ninh). Ngược lại, cũng có
những thương nhân khác buôn hàng hóa từ Hà Nội tỏa về bán ở các địa phương
khác. Ở Nam Kì cũng có những thương nhân buôn tơ lụa ở các tỉnh miền Đông,
gạch ngói ở chung quanh Sài Gòn, Chợ Lớn... đem bán. Sự sàm uất ở một số đô lOMoAR cPSD| 23136115
thị Việt Nam đã làm cho nhiều người ngoại quốc phải ca tụng đến độ ngạc
nhiên. Người ta đứng trước cảnh hàng nghìn thuyền buôn chen chúc nhau ữên
sông Sài như là một thành phố nổi trên mặt nước.Gòn đã phải ví sông Sài Gòn năm 1859.
- Trong hàng ngũ thưcmg nhân có một số hoạt động ưên thị trường ở một
phạm vi khá rộng: buôn bán hàng hóa giữa Nam và Bắc, giữa xứ này với xứ
khác, giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài. Nhiều thương nhân
Việt Nam chuyên buôn nhiễu từ Bình Định rồi vận tải bằng đường bộ đem bán ở
các tỉnh lân cận. Sự mở rộng thị trường với những hoạt động của thương nhân
chứng tỏ sự phát triển ở một mức độ nhất định của nền nội thương Việt Nam giai
đoạn này. Tình hình hoạt động của thuyền buôn Việt Nam đi khắp Nam Kì và
vàinơi ở Trung Kì qua cửa biển Sài Gòn trong mấy năm đầu bị chiếm đóng đã
cho thấy rõ hoạt động của nhà buôn Việt Nam.
“Năm 1865, có 7 843 thuyền buôn Việt Nam ra vào cửa biển Sài Gòn;
năm 1867 có 9 492 thuyền. Những thuyền buôn này liên lạc thường xuyên giữa
những tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa; Cần Thơ, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bình Thuận, Phú
Yên, Quảng Nam, Bình Định. Khi nhập cửa biển Sài Gòn, những thuyền buôn
này chở muối, vôi, gạo, dầu dừa, đồ gốm, tơ lụa, đường, thóc gạo. Khi xuất,
những thuyền này chở đồ gốm, gạo, thóc,.v.v. Tỉ dụ năm 1867, 4 741 thuyền
Việt Nam đã mua từ các tỉnh và đưa vào Sài Gòn 102 334 kg gạo, 7 121 vò dầu
dừa, 529 240 kg đường, 2 280 kg tơ lụa, 359 700kg thóc, 93 111 chiếc đồ gốm,
.v.v. Tổng cộng trị giá 3 947 093 Fr. Cùng năm, 4 751 thuyền Việt Nam đã chở
từ Sài Gòn ra các tỉnh 2 866 100 chiếc đồ gốm, 417 tấm tơ lụa, v.v... trị giá 2.286.444 Fr” [4, tr.22].
- Những con số đó chứng tỏ hoạt động của thương nhân Việt Nam trên
đường thủy đã mạnh hơn. Ở thành thị lúc này đã dần trở thành những trung tâm
buôn bán. Nhiều người buôn bán Việt Nam đã từ nông thôn dần về kinh doanh ở
thành thị. Do yêu cầu về xuất cảng cũng như nhập cảng ngày càng tăng, lớp
thương nhân ở thành thị thu mua nông phẩm để bán cho các hãng xuất cảng, nên
tiền vốn của họ tăng lên rất nhanh. Tại các thị trấn khác ở Nam Kì, số người
buôn bán Việt Nam có ít hơn. Ví dụ năm 1870, ở Biên Hòa có 5 ngưòi, ở Mĩ
Tho có 2, ở Vĩnh Long có 4,...
- Đối với người Việt, những điều kiện vào đầu thế kỉ XX cùng với thái độ
“cởi mở” của chính quyền thuộc địa đã là dịp khiến nhiều người tiến vào hoạt lOMoAR cPSD| 23136115
động trong lĩnh vực lâu nay là lãnh địa của Hoa Kiều, Ấn Kiều và Pháp Kiều với
một sự cạnh tranh quyết liệt. Sự giao lưu buôn bán giữa các vùng miền trở nên
sôi động, nhộn nhịp với những phương tiện tiện vận tải phong phú: tàu, thuyền,
xe cộ... Các loại nông hải sản được chuyển từ miền xuôi lên miền núi. Lâm thổ
sản từ miền núi được chở về miền xuôi. Miền Nam chở ra miền Bắc các loại
gạo,hạt tiêu, nước mắm... Ngược lại, xi măng, than đá... được chở từ miền Bắc
vào tiêu thụ ở miền Nam.
- Trung Kì là xứ năng động trong việc buôn bán trên thị trường nội địa hơn
Bắc Kì và Nam Kì. Giá trị hàng hóa lưu chuyển trung bình mỗi năm trong giai
đoạn 1897-1901 là 44.622.000 francs; từ 1902 - 1906 tăng lên 71.077.0 francs,
tức là tăng 59% so với giai đoạn trước, năm 1897 là 23.311.0 francs thì năm
1901 tăng lên 72.900.000 francs và 1905 tăng lên 73.925.0 francs. Cụ thể như ở bảng 1 -
Trong giá trị hàng hóa buôn bán trong nội địa của Trung Kì, một
nửađược thực hiện ở Trung Kì, phần còn lại là vói Nam Kì và Bắc Kì. Hàng hóa
bán cho Nam Kì là chả cá, nước mắm, đường (trắng, đen, nâu), gỗ các loại, cau
khô... và hàng hóa mà Trung Kì mua của Nam Kì là gạo, đồ gốm, chè, sợi bông.
Đối với Bắc Kì, việc buôn bán ven bờ của xứ này mặc dù không lớn bằng Trung
Kì nhưng cũng tăng lên từng năm. Cụ thể như bảng 2 lOMoAR cPSD| 23136115 -
Ở Nam Kì, việc buôn bán trong nội địa đứng sau Trung Kì nhưng
đứngtrước Bắc Kì về giá ttị hàng hóa trao đổi, với mức tăng khá nhanh, cụ thể trong bảng 3 -
Buôn bán trong nội địa tăng lên, số thương gia tăng lên và thuế môn
bàicũng tăng lên, trong đó có thuế đánh vào buôn bán. Ở Hà Nội, năm 1901 có
trên 4000 ngưòi phải nộp thuế môn bài. -
Nội thương phát triến không những chỉ biểu hiện ở sự mở rộng
thịtrường tiêu thụ hàng hóa mà còn có sự thay đổi ừong cơ cấu hàng hóa được
tiêu thụ trong nước. Lúc này trên thị trường không chỉ có những mặt hàng quen
thuộc mà đã xuất hiện thêm nhiều loại hàng hóa mới như: dầu hỏa, các sản phẩm
chế tạo công nghiệp từ đồ may mặc đến đồ kim khí, cà phê, sữa, pho mát... thậm
chí còn xuất hiện những loại hàng hóa đặc biệt như: bất động sản, điện, nước.
Ngoài ra, còn nảy sinh các ngành buôn bán tương ứng đó là kinh doanh bất động
sản, điện, nước... Những mặt hàng này xuất hiện trên thị trường đã có tác dụng lOMoAR cPSD| 23136115
kích thích sự phát triển của các ngành kinh tế ở trong nước, làm biến đổi cơ cấu
dân cư và đời sống kinh tế - xã hội của những vùng có nền kinh tế nội thương phát
triển. Việc buôn bán phát đạt đã tạo điều kiện cho những thương nhân người Việt
tự thành lập ra các công ty thương mại của riêng mình để cạnh tranh thu lợi nhuận.
Sự thu hút của thương nhiệp đã khiến cho các sĩ phu đương thời cũng đứng ra hô
hào và tự lập ra các hãng buôn, các tổ chức thương nghiệp,ví dụ như: Hồng Tân
Hưng, Đông Thành Xương ở Hà Nội, Triều Dương thương quán ở Nghệ An...
Tiêu biểu là hãng buôn Quảng Hưng Long; hãng buôn Quảng Họp ích ở Bắc Kì,
công ty Phượng Lâu ở Trung Kì, công ty nước mắm Liên Thành ở Nam Kì... Trong
chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), nội thương cũng đã có chiều hướng
phát triển. Tư sản Việt Nam phần nào thoát khỏi sự kìm hãm nghiệt ngã của tư
bản Pháp và đã vươn lên, mở rộng thị trường nội địa.
Nội thương giai đoạn 1858 - 1918 phát triển là do các nguyên nhân chủ yếu
sau: Nghề thủ công nghiệp Việt Nam tồn tại và khởi sắc như tơ lụa, làm gốm...
làm cho thị trường mở rộng. Hàng hóa không chỉ cung cấp trong làng nghề mà
còn buôn bán ttong tỉnh và các tỉnh ngoài. Ngoài ra, vai trò của thương nhân Việt
Nam cũng rất quan trọng. Họ buôn bán hàng hóa từ Hà Nội đến các địa phương
khác, buôn bán từ miền Nam ra Bắc, giữa các vùng ttong cả nước. Các buôn Việt
Nam hoạt động có hiệu quả, thể hiện qua sự trao đổi mua bán ven bờ giữa Bắc Kì - Trung Kì - Nam Kì. Ngoại thương -
So vói nửa đầu thế kỉ XIX, quan hệ buôn bán của nước ta có phần mởrộng hơn.
“Các thương cảng Sài Gòn, Đà Nang, Hải Phòng mở rộng. Tàu buôn nước
ngoài nhập hàng hóa vào và mua hàng hóa, nông phẩm trong nội địa Việt Nam
đem đi. Cửa biển Sài Gòn trong những năm 1860 - 1862 đã có khoảng 400 tàu và
thuyền buôn ra vào của Pháp, Anh, Đức, Mỹ, Bỉ, Hà Lan, Trung Quốc. Các hàng
nhập cảng có giấy, bát đĩa, quần áo, tơ lụa, xà phòng, diêm, gạo... sổ xuất nhập
cảng ngày càng tăng. Tỉnh riêng khối lượng hàng hóa của các tàu buôn ngoại quốc
xuất cảng ở cửa bể Sài Gòn năm 1860 là 81.595 tẩn, năm 1877 đã tăng thành 361.411 tẩn ” [4, tr.21]. -
Do những khó khăn trong nông nghiệp, nhất là sau khi Nam Kì rơi
vàotay Pháp nên Nhà Nguyễn phải bỏ dàn chủ trương “ức thương”. Năm 1866,
theo đề nghị của Đặng Huy Trứ, vua Tự Đức đã cho lập ty Bình Chuẩn vì thấy
việc buôn bán mang lại lợi ích thực sự cho đất nước.
“Tháng 6/1866, triều đình cho thành lập Ty Bình Chuẩn để chuyên trông
coi việc buôn bán. Đặng Huy Trứ được cứ giữ chức Bình Chuẩn Sử Ty. Tháng lOMoAR cPSD| 23136115
9/1867, Tự Đức bãi bỏ Ty Bình Chuẩn vì hoạt động gây nhiều phiền phức cho
dân, gần như ừanh lộc với dân, nên bảo bỏ đi” [18,tr.93]. -
Tiếp đó, năm 1869, Tự Đức cho phép dân thường ra nước ngoài
buônbán. Nhận thức được lợi ích của việc mở rộng quan hệ thông thương với
nước ngoài, năm 1876, quần thần nhà Nguyễn vận động Tự Đức bỏ lệnh cấm buôn
bán đường biển với tinh thần ai có vốn đi buôn nước ngoài thì thu thế 5%, từ nước
ngoài chở hàng về cũng thu 5%, nếu chở hàng cấm thì phạt. Tự Đức còn cùng
Viện Cơ mật bàn bạc phương thức thông thương, lập công ty đi Hương Cảng buôn bán -
Tuy cho người Việt Nam được phép đi ra ngoài buôn bán, làm ăn.
TriềuNguyễn vẫn cự tuyệt các quan hệ thương mại với người nước ngoài, hạn chế
người nước ngoài lập thương điếm ở Việt Nam. Đến khi triều Nguyễn bắt đầu
thức tỉnh thì hiệp ước Harmand (1883) và Patennootr (1884) đã hoàn thoàn thủ
tiêu cơ hội mở cửa thực hiện quan hệ thông thương với bên ngoài của Việt Nam.
Tháng 6/1867, thương nhân Trung Quốc xin được lập bến muối tại phủ Ba Xuyên
(tỉnh An Giang) và xin lãnh trưng nộp thuế, mỗi năm 6000 quan, nhưng triều đình Huế không cho phép. -
Vào tháng 4/1870, Tây Ban Nha đã cử sứ thần đến kinh đô Huế và
xinđược gặp Tự Đưc để trình mật thư. Trong thư, Tây Ban Nha xin được thông
thương buôn bán, nhưng vua Tự Đức đã không chấp nhận. Sứ thần Tây Ban Nha
liền tự tiện ra Nam Định là vùng công giáo. Hay tin, triều đình đã sai ngăn chặn
các cửa biển, vì vậy phải đoàn sứ thần đã phải rút về nước. Tháng giêng năm 1873,
tức năm Tự Đức thứ 25. Bất chấp sự ngăn cấm của triều đình Huế, Giăng Đuypuy
đã đua đoàn thuomg thuyền vào cửa cấm thuộc tỉnh Hải Dương, rồi từ đó đi Bắc
Ninh, Hà Nội, đưa hàng sang Việt Nam bằng con đường sông Hồng. Trước tình
hình đó, triều đình Huế chỉ còn biết hạ lệnh cho các tỉnh thần phải châm chước
đối phó, không hướng dẫn, cũng không tiếp đón, khiến cho họ đến đâu cũng gặp
khó khăn rồi sẽ tự rút lui. -
Năm 1873, quân Pháp lấy cớ ra Bắc Kì để xử lí hộ triều Nguyễn
vụJ.Dupuis nhưng thực chất là để xâm lược. Để đổi lại việc quân Pháp rút khỏi
Bắc Kì, triều Nguyễn đã kí với Pháp bản Hiệp ước Giáp Tuất (1874) chấp nhận
tự do hóa các tuyến thương mại ở Bắc Kỳ. Phản ứng lại triều Nguyễn vẫn duy trì
chính sách cấm xuất khẩu gạo ở Bắc Kì, Hoa thương đã gửi thư tới Lãnh sự Pháp
ở Hải Phòng nhờ can thiệp. Trong những kiến nghị gửi năm 1879 - 1880, Hoa
thương dọa nếu tình trạng này vẫn tiếp tục thì sẽ rời bỏ thành phố, họ muốn chính
quyền cho xuất khẩu gạo, vận chuyển tự do trên các con sông và bãi bỏ thuế nhập khẩu nội địa. -
Trong khi triều Nguyễn tiếp tục chủ trương bảo thủ thì thực dân Pháp
lạihết sức năng động và thực dụng tiên lĩnh vực thương mại. Để thực hiện mục lOMoAR cPSD| 23136115
đích lợi nhuận sau khi chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kì, thực dân Pháp vội
vàng tăng cường các hoạt động buôn bán, vơ vét các nguồn nông sản xuất khẩu.
Năm 1859, Gia Định bị chiếm thì ngay sau năm 1860, Pháp đã xuất khẩu 58.000
tấn gạo từ cảng Sài Gòn. Đến năm 1867, Pháp đã xuất khẩu 197.889 tấn gạo và
đến năm 1870 đã xuất khẩu đến 230.031 tấn. Chỉ trong vòng 10 năm số nông
phẩm xuất khẩu đã tăng gấp 4 lần. Nguồn lợi xuất khẩu lúa gạo, đã kích thích thực
dân Pháp cướp đoạt ruộng đất và lôi cuốn cả giai cấp địa chủ phong kiến Việt
Nam vào guồng máy thương nghiệp, hình thành nên tầng lóp thương nhân tư sản
mại bản rất sớm và khá đông ở Sài Gòn - Gia Định đầu thế kỷ XX. -
Năm 1866, Pháp cho thuyền buôn vào cửa biển Thị Nại, tỉnh Bình
Định,đã vi phạm điều 5 của Hiệp ước 5/6/1862. Mấy năm sau đó, phương hướng
phát triển thương nghiệp của triều đình Huế phải thay đổi dần theo yêu cầu của
thực dân Pháp, thêm một số điều chỉnh. Năm 1876, bắt đầu khai trương cửa biển Thị Nại. -
Giai đoạn 1884 - 1888, tư bản Pháp mới nhập cảng vào Đông
Dươngtrung bình mỗi năm 25,7 triệu phrang vàng, tới giai đoạn 1909 - 1913,
chúng đã nhập cảng trung bình mỗi năm được 98,6 triệu phơ-răng vàng. Trong
khoảng 25 năm ấy, hàng hóa Pháp bán sang Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam, đã tăng gấp 4 lần. -
Sự phát triển của ngoại thương có thể thấy rõ đó là sự ra đời của
cáccông ty thương mại lớn và kéo theo việc mở rộng vốn đầu tư như: Liên hiệp
thương mại Đông Dương và Phi châu, công ty thương mại Pháp ở Đông Dương,
công ty xuất khẩu Viễn Đông. -
Sự phát triển của ngoại thương còn có thể được nhận thấy ở sự tăng
lêncủa tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu trong thời gian 1897 - 1918. Ngài ra, sự
phát triển đó còn thể hiện ở tình trạng vượt trội của cán cân xuất - nhập khẩu. Kết
quả nghiên cứu trong 16 năm từ 1897 đến 1912 cho thấy, chỉ có 7 năm (1900 -
1906) nhập khẩu vượt xuất khẩu, 9 năm còn lại, xuất khẩu luôn vượt so vói nhập
khẩu, thường là trên dưói 10 triệu đồng. -
Cuối cùng, sự phát triển của ngoại thương còn nhận thấy ở sự tăng
lêncủa giá tri xuất nhập khẩu hàng hóa. Từ 140 triệu đồng là giá trị xuất, nhập
khẩu trung bình hàng năm trong những năm 1899 - 1903, con số này tăng lên 197
triệu đồng trong những năm 1909 – 1913 -
Vào thời kì trước và trong chiến tranh thế giói thứ nhất, bạn hàng
củaViệt Nam chủ yếu là các nước ở khu vực Viễn Đông. Trong đó, Trung Quốc
và Hồng Kông là hai nước tiêu thụ gạo chính của Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam
nhập từ Trung Quốc một số lượng lớn vải bông. Ngoài ra, Việt Nam còn buôn bán
với Nhật Bản, Philipin, Indonexia, cũng như với Mỹ và một số nước Châu Âu. lOMoAR cPSD| 23136115 -
Về cơ cấu hàng hóa xuất, nhập khẩu vẫn luôn cố định. Hàng xuất
khẩugồm thóc gạo, than, xi măng, quạng kẽm, quặng thiếc, vải lụa, kẽm thỏi, tơ
sống. Còn hàng nhập khẩu gồm có vải bông, dầu mỏ, máy móc, đồ cơ khí, rượu
vang, thuốc lá, tơ lụa nhân tạo, giấy, sữa, sợi bông, đồ dùng bằng cao su, ô tô, hóa
chất, đường... Như vậy, người dân Việt Nam bị bóc lột triệt để khi bán rẻ cho Pháp
các nông sản, khoáng sản sơ chế và mua với giá đắt các chế phẩm công nghiệp từ chính quốc đem sang. -
Trong điều kiện kinh tế Đông Dương chưa phát triển, các công
tythương mại Pháp đã chi phối toàn bộ thị trường hàng hóa của Đông Dương. Các
công ty đó đem hàng hóa vào bán tại Việt Nam đồng thời đứng ra thu mua các sản
phẩm của Việt Nam với giá cả độc quyền rồi mang đi xuất khẩu kiếm lời. Độc
quyền của thực dân Pháp về thương mại còn là phương tiện để bần cùng hóa nhân
dân lao động Việt Nam. Pháp nhập hàng dệt để kìm hãm ngành dệt thủ công cổ
truyền của Việt Nam. Các hàng mỹ nghệ xuất khẩu có giá trị như sơn mài, thêu,
ren, đãng ten, đan lát, do những bàn tay khéo léo của thợ thủ công Việt Nam sản
xuất cũng bị tư bản Pháp và Hoa kiều giữ độc quyền thu mua với giá rẻ mạt để
xuất cảng kiếm lợi nhuận cao.
Như vậy, ngoại thương phát triển vào đầu thế kỉ XX đã phá thế “bế quan
tỏa cảng” của Việt Nam trước đó. Tuy nhiên, với xu hướng này, bằng hàng rào
thuế quan mang tính chất đồng hóa giữa thị trường chính quốc và thuộc địa, Pháp
đã làm cho Việt Nam phụ thuộc vào Pháp, nền kinh tế Việt Nam trở thành cái đuôi
của kinh tế chính quốc.
Tóm lại, trong giai đoạn 1858 - 1918, thương mại Việt Nam đã có những
bước phát triển nhất định, được biểu hiện ở cả ngoại thương và nội thương cũng
như ở sự xuất hiện của những nhân tố của một nền thương mại hiện đại. Tuy nhiên,
một nền thương mại nằm trong tay người Pháp chỉ là hình thức tước đoạt nguồn
tài nguyên và sản phẩm thuộc địa để làm lọi cho các nhà tư bản, các công ty tư
bản hoạt động trong lĩnh vực thương mại Pháp.
2.2. KINH TẾ THƯƠNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1919 -1945
2.2.1. Chương trình khai thác thuộc địa lần hai và chính sách thương nghiệp của
thực dân Pháp ở Việt Nam
Chương trình khai thác thuộc địa lần hai (1919 -1929) -
Là nước thắng trận, nhưng Pháp ra khỏi cuộc chiến tranh thế giới
thứnhất với những tổn thất lớn trên nhiêu lĩnh vực. Để hàn gắn vết thương chiến
tranh và khôi phục nền kinh tế, chính quyền Pháp một mặt ra sức tìm các biện
pháp thúc đẩy sản xuất ừong nước, mặt khác tăng cường đầu tư khai thác thuộc lOMoAR cPSD| 23136115
địa, chủ yếu là ở Đông Dương trong đó có Việt nam. Đợt khai thác thuộc địa lần
hai kéo dài từ 1919 đến 1929
“Cuộc khai thác đầy tham vọng về kinh tế, chính trị, xã hội lần này được
triển khai trên quy mô lớn, qua các kế hoạch của Albert Sarraut - Toàn quyền Đông
Dương, sau là Bộ trưởng Bộ thuộc địa và được các học giả gọi là quá trình tích
lũy tư bản lần thứ hai để đổi lại với quá trình tích lũy tư bản lần thứ nhất, diễn ra
từ khi Pháp sơ chiếm Nam Kì cho đến hết thế chiến I” [22, tr.15]. -
Trong đợt khai thác làn hai, thực dân Pháp tiến hành đầu tư ồ ạt vào
cácngành kinh tế Việt Nam với một tốc độ nhanh hơn và quy mô rộng lớn hơn lần
trước. Chỉ tính riêng trong 6 năm (1924 - 1929), tổng số vốn đầu tư của tư bản
Pháp vào Đông Dương đã tăng gấp 6 lần so với 20 năm trước chiến tranh -
Về hướng đầu tư ương đợt khai thác thuộc địa làn hai cũng khác so
vớithời kì đầu thế kỉ XX. Nếu như trong khai thác thuộc địa lần một, khai khoáng
và giao thông vận tải chiếm vị trí hàng đầu thì trong thời kì này tư bản Pháp lại
đổ xô vào kinh doanh nông nghiệp song song với việc đẩy mạnh khai thác khoáng
sản. Chỉ trong một thời gian ngắn, khoảng 10 năm cuộc khai thác đó đã tạo ra một
sự bứt phá quan trọng trong nền kinh tế thuộc địa, chấm dứt tình trạng nhỏ giọt
về đầu tư, chần chừ của tư bản Pháp trong việc kỉnh doanh, khai thác thuộc địa. -
Dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, cơ cấu và
trìnhđộ phát triển của nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có những bước chuyển biến
theo hướng hiện đại hóa.
Chính sách thương nghiệp của thực dân Pháp ở Việt Nam: -
Trên thương trường, thực dân Pháp vẫn tiếp tục giữ độc quyền mua
bánba loại hàng là rượu, muối và thuốc phiện. Nhìn chung, các hoạt động buôn
bán lớn ở trong nước đều nằm trong tay người Pháp hoặc Hoa Kiều. -
Tiếp sau các đạo luật thuế quan các 1887,1892,1910 và 1913,
năm1928, chính quyền thực dân ra một nghị định mới nhằm đánh thuế nặng vào
hàng hóa của người nước ngoài, nhất là hàng của Trung Quốc và Nhật Bản. Với
chính sách độc quyền ngoại thương, tư bản Pháp đã tạo điều kiện đưa hàng hóa
của Pháp tràn ngập thị trường Việt Nam. Vói những chính sách, đạo luật hạ thuế
đối với hàng Pháp, hầu hết các hoạt động xuất nhập khẩu đều nằm trong tay Pháp, hoặc Hoa thương. -
Các nhà tư sản Việt Nam do không đủ sức cạnh tranh với tư bản
nướcngoài đã chuyển sang làm thầu khoán, hoặc đóng vai trò trung gian trong
việc buôn bán giữa thị trường Việt Nam và nước ngoài. lOMoAR cPSD| 23136115
2.2.2 Kinh tế thương nghiệp Việt Nam giai đoạn 1919 -1945
Trong những năm sau thế chiến thứ nhất, thương nghiệp Việt Nam đã phát
triển song song vói sự biến động của đồng tiền, của sự phát triển các ngành kinh
tế nói chung, sự mở rộng các hệ thống giao thông thủy, bộ và sự chuyển biến của
đời sống xã hội thuộc địa. Sự phát triển của ngành kinh tế này là kết quả đầu tư
vốn vào các ngành kinh tế của thực dân Pháp. Đồng thời, thương nghiệp lại có tác
dụng thu hút vốn đầu tư, kích thích sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Nội thương: -
Sau đại chiến thứ nhất, có nhiều tư sản Việt Nam bước ra thành lập
xínghiệp công nghiệp, do đó hình thành nên nhiều thương nhân Việt Nam buôn
bán những hàng hóa sản xuất trong các công trường thủ công tư bán công nghiệp
và những xí nghiệp chế biến khác. Nhưng chỉ sau đại chiến thứ nhất mấy năm, tư
sản Việt Nam bị tư bản Pháp chèn ép kịch liệt nên đã có những hãng bị phá sản.
Sự biến đổi trong công nghiệp dân tộc ấy cũng đồng thời hạn chế bớt số nhà tư
sản thương mại buôn hàng nội hóa. Cũng từ đó, hàng ngoại hóa nhập cảng vào
ngày một nhiều. Tư bản Pháp cần nhiều người làm môi giới tiêu thụ hàng hóa cho
Pháp, số tư sản thương mại mại bản ngày một đông thêm. Một số ít chung vốn
với tư bản Pháp trong những công ty buôn bán lớn như: Cao Văn Đạt, Trương
Văn Cam... Đa số tư sản Việt Nam là lớp trung thương. Theo thống kê năm 1938
ở Bắc Kì và Nam Kì có 124.976 môn bài Việt Nam buôn bán, trong đó có 325
môn bài đóng thuế loại trên 100$, nghĩa là cũng có khoảng trên 300 nhà buôn loại
trung thương, còn hầu hết là tiểu thương. -
Sự phát triển của nội thương được biểu hiện trong khối lượng của
cácnguồn hàng, sự ra đời của các cơ sở dịch vụ thương mại, của những thương
nhân các loại, của việc vận chuyển hàng hóa và sự giao lưu hàng hóa giữa các
miền, việc tiêu thụ những mặt hàng công nghiệp và những mặt hàng ngoại nhập,
trong giá trị kinh tế mà ngành này mang lại. -
Việc thông thương hàng hóa giữa các vùng diễn ra nhộn nhịp. Đó là
giữacác vùng trong nội địa và các bến cảng; giữa các tỉnh đồng bằng và các tỉnh
miền núi; giữa các vùng sản xuất vói các vùng khác. Tất cả những điều này đều
đã được phản ánh hên hầu hết các báo cáo kinh tế của các xứ, các tỉnh
“Trong quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hóa với các tỉnh đồng bằng, hàng
hóa chiếm thị phần cao nhất là các sản phẩm nông nghiệp. Năm 1919, tỉnh Hưng
Yên chở tới Hà Nội và Hải Phòng 12.348 tấn gạo, 10.555 tấn thóc và 10.798 tấn
ngô. số gạo được chuyển đi từ ga Thị cầu năm 1930 là 350 tấn và năm 1931 là
2100 tấn. Ngoài ra Hà Nội còn tiếp nhận khá nhiều ngô, lạc, vừng, chè, dâu tằm
từ các địa phương khác. Sản phẩm từ chăn nuôi và đánh bắt ngày càng chiếm tỷ
trọng cao trong cơ cấu hàng hóa trao đổi giữa Hà Nội với các địa phương” lOMoAR cPSD| 23136115 [12, tr.69]. -
Đặc biệt, trong giai đoạn 1939 - 1945, kinh tế thương nghiệp Việt Nam bị kiểm
soát chặt chẽ. Để có nhiều lương thực phục vụ chiến tranh, Nhật đã kí nhiều hiệp
định với chính quyền Pháp ở Đông Dương yêu cầu cung cấp hàng triệu tấn gạo
cho họ. Ngay từ năm 1941, chính phủ Pháp ở Đông Dương đã cho thành lập Ban
chỉ đạo mua bán và xuất khẩu thóc, gạo và phụ phẩm. Cơ quan này được gọi tắt
là CODIRIZ, đứng đầu là một quan chức chính quyền Đông Dương và ba đại biểu
của Hiệp hội các nhà xuất cảng Pháp ở Đông Dương, một đại biểu Hiệp hội các
nhà xuất khẩu của người Trung Hoa. Chức năng của nó là quản lý, kiểm soát mọi
hoạt động về sản xuất, xay xát, vận chuyển và xuất cảng lúa gạo trên thị trường Nam Kỳ. -
Từ đầu năm 1941 đến năm 1945, chính quyền Pháp đã đề ra chủ
trươngmua thóc tạ và lập ra một bộ máy tỏa về tất cả các địa phương trong nước
Việt Nam, qua từng cánh đồng, khám từng nhà giàu, nhà nghèo để cưỡng bức bán
thóc gạo cho họ với giá theo quy định. Giá mua thóc tạ theo họ đề ra thấp hơn
nhiều so với giá thị trường. Cao nhất là băng 8 - 9%, có khi chỉ bằng 2-3%. -
Tính đến tháng 12 năm 1941, cơ quan này đã điều hành việc xuất
khẩutổng số 870.000 tấn gạo trắng, trong đó chuyển sang Nhật là 585.000 tấn.
Như vậy, với việc thành lập CODIRIZ và chủ trương quản lý chặt chẽ việc
xuất khẩu lúa gạo, thực dân Pháp đã đáp ứng các yêu sách kinh tế của phát xít
Nhật. Đây là bước đầu tiên và quan ttọng nhất của toàn bộ cái gọi là chính sách
“kinh tế chỉ huy” mà chính quyền thực dân Pháp đã áp dụng ở Đông Dương trong
suốt thời kỳ chiến tranh và lệ thuộc vào phát xít Nhật. -
Vì hàng hóa khan hiếm nên chính phủ thực dân đã thực hiện kiểm
soátchặt chẽ việc phân phối hàng hóa và giá cả. Đặt lệ “phát bông” và thẻ gia đình
cho nhân dân các thành phố trong việc mua bán các hàng hóa cần thiết như gạo,
đường, vải và lập các cơ quan phân phối nguyên liệu như bông, đay, chất hóa học.
Pháp còn lập ra Hội đồng hóa giá để định giá mua hoặc giá bán một số mặt hàng
thiết yếu, nhất là ở các đô thị.
“Giai đoạn 1939 - 1945, nội thương của nước ta vẫn không có bước tiến gì
đáng kể. Bỏi thực dân Pháp đã thi hành nhiều biện pháp để biến thị trường nước
ta thảnh nơi cung cấp tài nguyên - nguyên liệu cho chính quốc. Những biện pháp
đó là: thực dân Pháp ra sức kiểm soát chặt chẽ hàng hóa thiết yếu về giá cả và
phân phối. Chúng đã thực hiện “tem phiếu”, “thẻ gia đình” ở các thành phố trong
việc mua những hàng hóa cần thiết như: gạo, đường, vải... Mặt khác chúng còn
lập các cơ quan phân phối nguyên liệu như bông, đay, vỏ dừa, chất hóa học, kim
khí,... Không những vậy, Pháp còn tăng cường đầu cơ tích trữ hàng hóa để thu lợi
nhuận. Chúng còn lập Hội đồng hóa giá để định giá mua và bán những hàng hóa lOMoAR cPSD| 23136115
càn thiết đối với đòi sống nhân dân. Trên thực tế đấy chỉ là thủ đoạn mua rẻ, bán
đắt của thực dân Pháp mà thôi” [7,tr.38]. -
Vào giai đoạn này, Pháp không còn độc quyền thị trường Đông
Dươngnữa, mà phải chia sẻ cho phát xít Nhật với một số thỏa thuận như: Pháp
vẫn được quyền xuất khẩu các sản phẩm nông và công nghiệp của Đông Dương
như gạo, ngô, cao su và than (chiếm 85% giá tri xuất khẩu), còn Nhật độc quyền
các loại khoáng sản như đay, sơn nhựa thông, dầu thực vật... Do thị trường Đông
Dương bị phong tỏa, việc buôn bán, thông thương với nước ngoài (nhất là với
Pháp) bị đình trệ, nguyên liệu và hàng nhập khẩu vào thị trường nội địa giảm đi
rõ rệt. Năm 1939 tổng số hàng nhập cảng là 587 nghìn tấn, đến năm 1945 chỉ còn
16 nghìn tấn. Khác với thời kì trước, thời kì này hàng ngoại hóa lại trở nên khan
hiếm trên thị trường nội địa, theo đó giá cả lương thực, hàng hóa tiêu dùng cũng
tăng lên vùn vụt trên thị trường.
“Nhiều tư sản đã tích trữ nông phẩm, hàng ngoại hóa để rồi bán theo lối chợ
đen và phát tài rất nhanh chóng. Thí dụ gạo ở Hà Nội giá chính thức năm 1944 là
40$ một tạ, năm 1945 là 53$ một tạ, nhưng giả chợ đen là 700$ hay 800$, có khi
900$ một tạ. Vải ngoại hóa giá năm 1940 là 0$70 một thước, năm 1943 giá chính
thức đã lên thành 2$ một thước, nhưng giá chợ đen tới 10$ một thước” [4,tr.l43]. -
Tóm lại, vói việc ấn định giá cả mua bán lúa gạo, thực dân Pháp đã
kiểmsoát chặt chẽ nền kinh tế Nam Kỳ. Đồng thời, dưới sức ép của phát xít Nhật,
thực dân Pháp đã bắt nhân dân Nam Kỳ cũng như nhân dân cả nước phải nhổ lúa,
hoa màu trồng đay, thầu dầu. Mục đích là tạo ra nguyên liệu phục vụ chiến tranh.
Qua đó, Pháp - Nhật đã chi phối luôn hoạt động sản xuất của nhân dân ta. Không
chỉ kiểm soát hoạt động sản xuất nông nghiệp, thị trường lúa gạo Nam Kỳ. Pháp
- Nhật còn chi phối cả nền kinh tế Nam Kỳ, qua việc kiểm soát loại hàng hóa của vùng đất này. -
Trên thị trường nội địa Bắc Kì, các mặt hàng ừao đổi buôn bán rất
phongphú, đa dạng. Bao gồm sản phẩm của công nghiệp, lâm thổ sản... Đồng thời
cũng có những mặt hàng được nhập khẩu từ các nước láng giềng như: Trung Quốc,
Lào, từ Pháp, châu Âu vào nội địa. Giao lưu buôn bán giữa thành thị và nông thôn
là một hoạt động thường xuyên để đảm bảo yêu cầu tiếp tế hàng hóa, nhu yếu
phẩm hàng ngày giữa các tỉnh với các thành phố, vì vậy nó là luồng giao lưu, buôn
bán quan trọng nhất. Nông thôn cung cấp lương thực cho thành thị như thóc gạo,
ngô, khoai, sắn, thực phẩm tươi sống như cá, tôm, rau, quả. Thành thị tiếp tế cho
nông thôn hàng công nghệ phẩm như dầu hỏa, xà phòng, giấy, vải vóc... Ngoại thương:
Từ đầu thế kỉ XX, đặc biệt từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, hoạt động
ngoại thương của Việt Nam không ngừng tăng lên. Do việc tăng cường đầu tư lOMoAR cPSD| 23136115
phát triển kinh tế, ngành ngooại thương vào thời kì này có bước tiến bộ rõ rệt so
với thời kì trước chiến tranh. -
Sự phát triển của ngoại thương được thể hiện ở sự vượt trội của cán
cânthương mại. Theo thống kê của Patrice Morlat thì từ 1918 đến 1926, thặng dư
trong cán cân thương mại của Đông Dương đã tăng lên 6,6 làn và tổng số lợi
nhuận mà các công ty thương mại Đông Dương thu được trong 7 năm này là 1868
triệu fr vàng, về cơ cấu xuất, nhập khẩu, theo những tài liệu thống kê của cơ quan
kinh tế Đông Dương thì việc xuất khẩu mặt hàng lương thực, thực phẩm tăng đáng
kể trong những năm 20. Cũng như vậy, đối với nguyên liệu dùng trong công
nghiệp, Đông Dương xuất khẩu nhiều cao su, quặng mỏ, da thô... và nhập vào
bông, sắt... Đối với các chế phẩm, tốc độ nhập vào tăng nhanh hơn tốc độ xuất ra,
chứng tỏ Việt Nam chưa sản xuất được những chế phẩm như xe đạp, dầu hỏa,
quần áo may sẵn... Sự tiến triển của ngoại thương Đông Dương còn được khẳng
định nếu đem so sánh vói việc buôn bán của chính quốc - luôn trong tình trạng
thâm hụt trong giai đoạn này lên đến 18,5 tỉ fr vàng. -
Chỉ số ngoại thương tiên đầu người của Việt Nam vào năm 1937 đạt
180 Fr, tức là rất thấp so với Pháp, Philippin và Ân Độ thuộc Anh. Ngoài ra, tình
hình ngoại thương ở các vùng cũng không đều nhau. Năm 1928, chỉ số ngoại
thương bình quân đàu người ở Nam Kì là 600 Fr, còn ở Bắc Kì là 125Fr. Các
nguồn hàng trao đổi ở Nam Kì chủ yếu là nông sản (lúa, gạo, cao su...), còn ở Bắc
Kì lại là khoáng sản và các sản phẩm công nghiệp. Kinh tế Việt Nam lúc này còn
kém phát triển nên hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng thô hoặc mới sơ chế, giá ttị
thấp. Ngược lại, hàng nhập khẩu là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại. -
Lúa gạo đứng đầu trong các mặt hàng xuẩt khẩu. Đến năm 1931, giá
trịgạo xuất khẩu đã chiếm tói 65% tổng giá trị hàng xuất khẩu. Mặc dù sản lượng
gạo xuất khẩu vẫn giữ ở mức độ cao (đứng thứ hai trên thế giới) nhưng từ 1930,
ngoài gạo còn có một số mặt hàng khác, làm cho tỷ trọng gạo xuất khẩu giảm
xuống đáng kể. Năm 1939 Nam Kỳ vẫn tiếp tục chú trọng xuất cảng lúa gạo bởi
đây là nguồn lợi lớn cho chính quốc Pháp. Pháp tiến hành hoạt động xuất khẩu
gạo chỉ vì mục đích phát triển nền kinh tế chính quốc. Đặc biệt là năm 1939, khi
chính quốc Pháp tham gia chiến tranh thì nguồn lương thực lại cần thiết hơn nữa.
Vì vậy, Pháp đã tiến hành vơ vét lúa gạo của Nam Kỳ một cách gắt gao nhất. -
Sau lúa gạo là đến ngô, đây là mặt hàng xuất khẩu đứng hàng thứ
haicủa Đông Dương. Sau ngô là mặt hàng cao su cũng ngày càng có vị trí quan
trọng. Toàn bộ các sản phẩm hàng hóa lúa gạo, ngô và cao su đã chiếm 78%, tức
là trên 3/4 tổng giá ttị hàng hóa xuất khẩu của Đông Dương. Ngoài ra, còn có các
sản phẩm khác như sơn, dầu, chè, cà phê.
“Cùng với gạo, ngô là nguồn lương thực quan trọng bắt buộc cung cấp cho
Nhật. Cụ thể là: năm 1941, xuất cảng 124.923 tấn. Đến năm 1942, tiếp tục xuất lOMoAR cPSD| 23136115
cảng 98.700 70 tẩn, rồi 1944 sổ lượng xuất cảng tăng lên làl8.263 tẩn. Năm 1945,
xuất cảng IÒ12.134 tấn. Con sổ trên so với sản lượng ngô hàng năm, thì 1942 đã
xuất cảng 46%, năm 1943 là 45%, năm 1944 là 9%,... Thế là, gạo đã không đủ ăn,
nay đến ngô cũng bị phát xít Nhật vơ vét, nên cuộc sổng người nông dân điêu
đứng lại càng điêu đứng hơn ” [7, tr.69-70]. -
Bên cạnh các hàng nông sản, sản phẩm ngư nghiệp chiếm vị trí thứ
hai,đạt khoảng 5% tổng giá trị hàng xuất khẩu của Đông Dương vào năm 1937
(cá khô, cá hun khói, cá muối của ngư dân châu thổ sông Cửu Long và vùng Vịnh
Hạ Long). Các sản phẩm khai mỏ hầu như nằm trong tay 6 công ty Pháp. Năm
1937, mặt hàng khoáng sản chiếm 7% tổng giá trị hàng xuất khẩu. Trong đó đứng
đầu là than đá; riêng thiếc, kém, vàng,... ở vị trí thứ hai. Mặt hàng xi măng xuất
khẩu đạt tói con số kỉ lục 125.000 tấn vào năm 1937. -
Hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và Đông Dương chủ yếu là
hàngcông nghiệp như ô tô, vải, xăng, dầu hỏa. Tổng giá trị xăng dầu nhập khẩu
năm 1937 lên tới 236 triệu Fr. Các mặt hàng tiêu dùng như sợi bông, phân bón
hóa học, giấy, sách, bột mì... ngày càng tăng lên về số lượng. Trong khi đó, hàng
máy móc chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ. Nhìn chung, cán cân thương mại giai đoạn này
tương đối ổn định, thậm chí có xu hướng xuất siêu. -
Trong giai đoạn này, Việt Nam có quan hệ buôn bán chủ yếu vói
Pháp.Ngoài ra, tại Châu Á, Trung Quốc và Hồng Kông là hai bạn hàng lớn nhất
của Việt Nam và Đông Dương. Hàng Việt Nam xuất khẩu sang hai nước này chủ yếu là gạo.
“Sản lượng gạo Việt Nam bán sang Trung Quốc và Hồng Kông đạt
775.000 tẩn trong những năm 1922 — 1926 và 530.000 tẩn vào thời kì 1933 1937” [10,tr.ll8].
Bên cạnh đó, họ còn nhập từ Việt Nam các mặt hàng như: cá khô, trứng,
chè. Đổi lại, Việt Nam mua của hai nước này một khối lượng lớn hàng vải sợi (lụa, tơ, bông...). -
Hàng hóa của Việt Nam bán ra nước ngoài chủ yếu là khoáng sản,
lúagạo, cao su, chè, cà phê, hạt tiêu. Trong những năm 1929 - 1932; giá trị xuất
khẩu gạo đã chiếm hơn 60% tổng giá trị các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Các mặt hàng xuất khẩu của Pháp sang Việt Nam chủ yếu là các mặt hàng tiêu
dùng, và phục vụ sinh hoạt. Ví dụ như: Vải, bông, giày dép, thuốc lá... các loại
máy móc phục vụ phát triển công nghiệp thì không được nhập vào. Năm 1929,
chỉ riêng các mặt hàng bia rượu được đưa vào Đông Dương đã lên tới 63 triệu
Phrang, ừong khi đó chỉ nhập 2,4 triệu phrang các loại máy kéo và máy phục vụ
nông nghiệp. Thông qua các đạo luật thuế quan, thực dân Pháp ngày càng cột chặt
thị trường Việt Nam vào thị trường nước Pháp.