Tiểu luận Chủ nghĩa xã hội khoa học | Đại học Huế

Tiểu luận Chủ nghĩa xã hội khoa học | Đại học Huế. Tài liệu gồm 17 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

 

Trường:

Đại học Huế 272 tài liệu

Thông tin:
17 trang 8 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tiểu luận Chủ nghĩa xã hội khoa học | Đại học Huế

Tiểu luận Chủ nghĩa xã hội khoa học | Đại học Huế. Tài liệu gồm 17 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

 

123 62 lượt tải Tải xuống
1
Mở đầu
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn luôn coi trọng gắn kết phát triển kinh tế và công bằng xã hội, đây là
định hướng đúng đắn cho phát triển kinh tế bền vững của Đất nước.Tuy nhiên,
chính sách chú trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh có thể gây ra bất bình
đẳng (về thu nhập, cơ hội học tập, tiếp cận dịch vụ xã hội) và làm cho nghèo
đói gia tăng, thậm chí có thể làm phát sinh các mâu thuẫn xã hội. Ngược lại,
chính sách chú trọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội có thể làm triệt tiêu
các động lực tăng trưởng kinh tế.
Hiện nay, các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đang chịu sự tác
động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa, của cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 4. Trong bối cảnh đó, vấn đề giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội càng trở nên cấp thiết. Đây cũng
chính là lý do tác giả chọn đề tài “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay”.
2
Kết cấu
Mở đầu
Phần 1: Lý thuyết chung về chủ nghĩa xã hội và công bằng xã hội
1. Chủ nghĩa xã hội
1.1. Khái niệm, điều kiện ra đời của chủ nghĩa xã hội
1.2. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
2. Công bằng xã hội
2.1Khái niệm công bằng xã hội
2.2Nội dung
2.3Điều kiện để thực hiện công bằng xã hội
2.4Công bằng xã hội- mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Phần II: Vận dụng thực tiễn: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay
1. Lý thuyết chung
1.1. Tăng trưởng kinh tế
1.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và cân bằng xã hội
2. Thực trạng, nguyên nhân
3. Giải pháp
Phần III: Kết luận
Danh sách tài liệu tham khảo
3
PHẦN I: Lý luận chung về chủ nghĩa xã hội và công bằng xã hội
1.Chủ nghĩa xã hội
1.1.Khái niệm, điều kiện ra đời của Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội được hiểu theo bốn nghĩa: Là phong chào thực tiễn, phong
trào đấu tranh của nhân dân lao động chống lại áp bức, bất công, chống giai
cấp thống trị. Là trào lưu tư tưởng lý luận, phản ánh lý tưởng giải phóng nhân
dân lao động khỏi áp bức bóc lột bất công. Là một khoa học, chủ nghĩa xã hội
khoa học, lý luận khoa học về sự mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Là một
chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa
Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa: Theo quan điểm của Mác Angghen cho rằng hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp đến cao qua hai giai đoạn: Giai đoạn thấp
của xã hội cộng sản sau này Lênin và đảng Cộng sản gọi là Chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn cao của xã hội cộng sản sau này Lênin gọi là cộng sản chủ nghĩa.
Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là thời kỳ của quá
độ chính trị. Quan điểm của Lênin lại cho rằng hình thái kinh tế xã hội cộng
sản chủ nghĩa phát triển qua các nấc thang sau:
1-những cơn đau đẻ kéo dài, thời kỳ quá độ
2- giai đoạn đầu xã hội cộng sản
3- giai đoạn cao của xã hội cộng sản
Chủ nghĩa xã hội ra đời từ những nước tư bản phát triển cao,cơ bản của chủ
nghĩa tư bản là do sự ra đời của nền đại công nghiệp cơ khí, chủ nghĩa tư bản
tạo ra bước phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa
cao mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu.Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền
đại công nghiệp cơ khí đó là sự phát triển vượt bậc về số lượng và chất lượng
4
của giai cấp công nhân dẫn tới mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân
và giai cấp tư sản
1.2.Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
Khi nghiên cứu về hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, các nhà sáng
lập chủ nghĩa xã hội quan tâm dự báo những đặc trưng, đặc biệt là giai đoạn
đầu giai đoạn thấp của xã hội cộng sản nhằm định hướng phát triển trong
phong trào công nhân quốc tế. Những đặc trưng cơ bản của giai đoạn đầu,
phản ánh bản chất và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội được bộc lộ đầy đủ
cùng với quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa. Căn cứ vào những dự báo của
C. Mác và Ph.Angghen và những quan điểm của V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội
ở nước Nga xô - viết, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa
xã hội như sau:
Thứ nhất: Mục tiêu cao cả của xã hội xã hội chủ là nghĩa giải phóng giai
cấp,giải phóng xã hội, giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực
hiện công bằng bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con
người phát triển toàn diện. Đây là sự khác biệt về chất giữa hình thái kinh tế-
xã hội cộng sản chủ nghĩa so với các hình thái kinh tế- xã hội ra đời trước, thể
hiện bản chất nhân văn, nhân đạo của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
Thứ hai: Cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất công
nghiệp hiện đại, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, xóa bỏ chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa, từng bước thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất
chủ yếu. C. Mác và Ph.Angghen chỉ rõ: Xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản không
đồng nghĩa với xóa bỏ sở hữu do cá nhân làm ra. “ Điều chúng tôi muốn là xóa
bỏ tính chất bi thảm của cái phương thức chiếm hữu nó…”. Đó là cơ sở kinh tế
để xây dựng một xã hội công bằng , bình đẳng , tiến bộ , quan hệ tốt đẹp giữa
người và người . Tuy nhiên , đây là quá trình khó khăn , phức tạp , lâu dài ,
không thể thực hiện chóng vánh , ngay lập tức được
5
Thứ ba, tổ chức quản lý có hiệu quả, năng suất lao động cao, phân phối chủ
yếu theo lao động. Một mặt , các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ
ra những đặc trưng kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa , trong đó có đặc trưng
là xác lập từng bước chế độ công hữu về tư liệu sản xuất . Mặt khác , các ông
rất coi trọng việc đổi mới cách thức tổ chức quản lý , thiết lập một chế độ xã
hội cao hơn chủ nghĩa tư bản , là phải tăng năng suất lao động . V.I.Lênin chỉ
rõ : Sau khi giai cấp vô sản đã làm xong nhiệm vụ giành được chính quyền rồi
thì tất nhiên có một nhiệm vụ căn bản khác được đề lên hàng đầu , đó là : Thiết
lập một chế độ xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản , nghĩa là nâng cao năng suất
lao động và do đó ( và nhằm mục đích đó ) phải tổ chức lao động theo một
trình độ cao hơn.
Thứ tư: chủ nghĩa xã hội có nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới
là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính
dân tộc sâu sắc, đại biểu cho lơi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.
Thứ năm: Chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát
huy những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Tính ưu
việt, sự ổn định và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa không chỉ thể hiện ở
lĩnh vực kinh tế, chính trị mà còn ở lĩnh vực văn hóa, tinh thần xã hội.
Thứ sáu, chủ nghĩa xã hội đảm bảo công bằng bình đẳng, đoàn kết giữa các
dân tộc và có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
2.Công bằng xã hội
2.1. Khái niệm công bằng xã hội
Tự do, bình đẳng và bác ái là những giá trị mà cả nhân loại đang cố gắng để
đạt được. Công bằng xã hội cũng vậy, nó là giá trị mà loài người luôn mong
đạt được trong cuộc sống hàng ngày.
Trong chế độ xã hội công xã nguyên thủy, công bằng xã hội là mọi người
đều tuân theo trật tự đã được cộng đồng thừa nhận, ai vi phạm sẽ bị trừng phạt.
Khi xuất hiện sở hữu tư nhân thì nội dung của khái niệm công bằng xã hội
6
cũng thay đổi. Sự công bằng ở đây được xem xét trong mối quan hệ với địa vị
xã hội. Theo Aristotle, công bằng là sự bình đẳng giữa những người có cùng
địa vị xã hội. Còn sự bất bình đẳng giữa những người không có cùng địa vị xã
hội cũng được Arisotle coi là công bằng
Dưới chủ nghĩa tư bản, nội dung của khái niệm công bằng cũng thay đổi.
Quan hệ trao đổi hàng hóa được gọi là công bằng khi chúng thực hiện theo
nguyên tắc ngang giá. Trong xã hội, mọi người được tuyên bố là bình đẳng
trước pháp luật. Các nhà lý luận của chủ nghĩa tư bản không đề cao giá trị công
bằng mà đề cao giá trị "dân chủ" "tự do" (theo kiểu chủ nghĩa tư bản). Họ đồng
nhất bình đẳng (bình đẳng hình thức, bình đẳng một số phương diện nhất định)
với công bằng xã hội.
Với chủ nghĩa xã hội, công bằng xã hội được thể hiện trong nguyên tắc phân
phối theo lao động. Theo C.Mác, sau khi đã khấu trừ đi những khoản cần thiết
nhất để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì đời sống của cộng
đồng, toàn bộ số sản phẩm xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc:
mỗi người sản xuất sẽ nhận trở lại từ xã hội một số lượng vật phẩm tiêu dùng
trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội (sau khi
đã khấu trừ số lao động của anh ta cho các quỹ xã hội
2.2. Nội dung
Nội dung cơ bản nhất của công bằng xã hội là xử lý hợp lý nhất quan hệ
giữa quyền lợi và nghĩa vụ trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Để phản ánh
được nội dung cơ bản này, các nhà kinh tế học thường phân biệt hai khái niệm
khác nhau về công bằng xã hội đó là: công bằng xã hội theo chiều ngang
(horizontal justice) nghĩa là đối xử như nhau đối với những người có đóng góp
như nhau và công bằng xã hội theo chiều dọc (vertical justice) theo nghĩa là
đối xử khác nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh, trình độ, năng
lực hoặc có các điều kiện sống khác nhau.
7
Công bằng theo chiều ngang đòi hỏi phải đối xử bình đẳng giữa những
người có cùng năng lực và cống hiến, hưởng thụ như nhau. Công bằng theo
chiều dọc thể hiện ở việc nhà nước có chính sách đãi ngộ, tạo điều kiện, mở
rộng khả năng tiếp cận cho người nghèo, những nhóm người dễ bị tổn thương
đến với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, việc làm, nguồn vốn, mạng
lưới an sinh xã hội,...
Được xây dựng trên nguyên tắc phân phối công bằng vì ở đây tất cả những
người sản xuất đều có quyền ngang nhau tham dự quỹ tiêu dùng của xã hội khi
làm một công việc ngang nhau. Nguyên tắc phân phối theo lao động phản ánh,
chủ nghĩa xã hội là chế độ đầu tiên trong lịch sử được xây dựng trên nguyên
tắc công bằng xã hội. Chủ nghĩa xã hội hướng tới mục tiêu: xóa bỏ áp bức, bất
công và những cơ sở nảy sinh áp bức bất công, xây dựng các điều kiện để con
người phát triển tự do và toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Công bằng xã hội quan hệ mật thiết với dân chủ, đòi hỏi dân chủ vì dân chủ là
điều kiện tiên quyết để thực hiện công bằng xã hội.
2.3. Điều kiện để thực hiện công bằng xã hội
Công bằng xã hội là khái niệm mang tính lịch sử cụ thể. Việc đặt ra và
giải quyết vấn đề này phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể: trình độ
phát triển của phương thức sản xuất, trình độ nhận thức của con người, sự chi
phối lợi ích của các giai cấp, các nhóm chủ thể xã hội thời kỳ đó. Do vậy, việc
thực hiện công bằng xã hội cũng phụ thuộc những điều kiện lịch sử - cụ thể
của từng chế độ xã hội.
Chủ thể thực hiện: Đảng cầm quyền, nhà nước, các tổ chức khác trong
hệ thống chính trị và các lực lượng, tổ chức xã hội, người dân ở quốc gia đó.
Ngoài ra, còn các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức hoạt động nhân đạo, từ
thiện... hỗ trợ, tham gia thực hiện CBXH.
Phương thức thực hiện: Đảng chính trị cầm quyền ở quốc gia đó xác
định quan điểm, chiến lược, chủ trương, các mục tiêu về thực hiện CBXH và
8
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Nhà nước có trách nhiệm triển khai thực
hiện quan điểm, chiến lược, chủ trương, các mục tiêu về thực hiện CBXH
trong cả nước và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thực hiện CBXH.
Các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và các lực lượng xã hội ở nước
đó, tiến hành các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, vai trò của mình để
thực hiện các nội dung của CBXH.
2.4. Công bằng xã hội là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Trong điều kiện đổi mới, hội nhập quốc tế và đẩy mạnh xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công bằng là thúc đẩy sự phát triển,
xúc tiến quá trình phát triển lành mạnh hài hòa; tiến hành sắp xếp chế độ và
căn cứ dựa vào sáng tạo xã hội mới, là nguyên tắc cơ bản điều tiết quan hệ
giữa các tầng lớp trong xã hội, cũng là tăng cường sức nghi tụ xã hội, ngọn cờ
quan trọng để tụ hợp và hiệu triệu xã hội. Chỉ có thực hiện công bằng người
dân mới có thể phát triển, các quan hệ xã hội mới có thể được điều tiết, tính
tích cực, tính chủ động, tính sáng tạo của người dân được phát huy, xã hội mới
có thể hài hòa ổn định, toàn thể nhân dân mới có thể đồng tâm hiệp lực xây
dựng và phát triển đất nước
Phần 2: Vận dụng thực tiễn: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay
1. Lý thuyết chung
1.1. Tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một thời
gian nhất định ( thường là một năm). Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện
dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập của nền kinh tế biểu hiện dưới dạng
giá trị được phản ánh qua các chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước (GDP) hoặc
tổng thu nhập quốc gia(GNI). Tăng trưởng kinh tế được đo bằng hai chỉ tiêu .
Một là , chỉ tiêu quy mô tăng trưởng. Chỉ tiêu này phản ánh sự gia tăng thu
nhập của nền kinh tế nhiều hay ít. Hai là, chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng. Chỉ tiêu
9
này phản ánh sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế cao hay thấp , nhanh hay
chậm. Như vậy , bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về
lượng của nền kinh tế.
1.2.Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và cân bằng xã hội
Theo lý luận của C.Mác, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai mặt
của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội, có quan hệ tương hỗ lẫn nhau.
Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện vật chất để thực hiện công bằng xã hội.
Ngược lại, công bằng xã hội tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ví dụ,
khi việc tiếp cận các nguồn lực sản xuất của các chủ thể là công bằng thì tự nó
sẽ tạo ra động lực để thu hút và phát huy hiệu quả mọi nguồn lực thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Ngược lại, nếu việc tiếp cận các nguồn lực không công bằng thì
sẽ không thể có sự tăng trưởng kinh tế nào hết, và nếu việc tiếp cận nguồn lực
quá bất công thì sẽ dẫn đến phá hoại sản xuất. Thực chất việc giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là quá trình gắn kết kinh
tế với xã hội trong phát triển bền vững.
Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, từ nhận thức đúng đắn tính
thống nhất và mâu thuẫn trong quá trình tăng thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước đề ra những quan điểm, chủ
trương đúng đắn để xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tư tưởng đó dần được hoàn
thiện qua các kỳ đại hội của Đảng. Giai đoạn 2011-2016, Đảng khẳng định
rằng, tiến bộ xã hội và công bằng xã hội là hai mục tiêu song trùng của sự phát
triển xã hội; mục đích tối cao của tăng trưởng kinh tế là nhằm phát triển con
người; mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xét cho cùng, là để giải
phóng những giá trị văn hóa tích cực nhất cho loài người, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; mặt khác, tăng trưởng kinh tế đồng thời giúp con người có
nhiều cơ hội, khả năng tiếp nhận các giá trị văn hóa, đưa xã hội tiến lên những
nấc thang mới trong lịch sử nhân loại. Đại hội XII của Đảng đã khẳng định:
“Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và
10
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân” [9, tr.299].
Như vậy, trong thời kỳ đổi mới Đảng luôn chủ trương phát triển kinh tế phải
gắn kết chặt chẽ tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội; coi
hai mục tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó tăng trưởng kinh
tế là cơ sở, làm tiền đề và điều kiện cho nhau, ngược lại, thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội là điều kiện quan trọng thúc đẩy và bảo đảm tăng trưởng kinh
tế cao và bền vững.
2. Thực trạng vấn đề ở Việt Nam và nguyên nhân
Trong công cuộc Đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu quyết
tâm chính trị: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển”. Đây là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt và luôn
được quán triệt trong các kỳ Đại hội của Đảng. Đến nay, đã đạt được những
kết quả đáng khích lệ.
Nhờ đổi mới nền kinh tế, bên cạnh hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể, Đảng và Nhà nước còn khuyến khích phát triển các hình thức sở hữu
tư nhân (bao gồm: sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ và sở hữu tư bản tư nhân).
Mọi người đều có cơ hội như nhau trong tiếp cận các nguồn lực sản xuất, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân giai
đoạn 1975-1985 của cả nước dao động ở 1,9%-0,6%/ năm, thì giai đoạn 1986 -
2017 đạt 6,6%/năm, năm 2018 đạt 7,08%. Từ chỗ thuộc nhóm các nước nghèo
nhất thế giới, năm 2008, Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình
thấp, đạt mức 1.154 USD/ người. Năm 2018, quy mô nền kinh tế đạt 240,5 tỷ
USD gấp 34 lần sau 32 năm đổi mới, đưa Việt Nam lọt lên vị trí 49 trong bảng
xếp hạng các nước có nền kinh tế mạnh nhất thế giới
i
(16). Thu nhập bình quân
đầu người năm 2018 đạt 2.587 USD và nếu tính theo ngang giá sức mua (PPP)
thì đạt mức 7.640 USD/ người(17), cao gấp 26,7 lần so với năm 1989.
Tăng trưởng kinh tế được gắn kết với phân phối thu nhập công bằng. Đảng
và Nhà nước đã đổi mới căn bản chính sách phân phối thu nhập nhằm “thực
hiện công bằng xã hội ngày một tốt hơn”. Cụ thể là: “Thực hiện nhiều hình
11
thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết
quả sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội”(18)
Tăng trưởng kinh tế gắn kết với bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội. Việt
Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ l
nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp quốc
đã đề ra(19). Đến cuối năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm còn
5,35%. Bình quân tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm còn dưới 35%, ở các
xã đặc biệt khó khăn giảm 3-4% so với năm 2017(20). Đến nay, 70% người
dân Việt Nam đã được bảo đảm về mặt kinh tế, trong đó có 13% thuộc tầng
lớp trung lưu theo chuẩn thế giới. Tính từ năm 2014, trung bình mỗi năm cả
nước có 1,5 triệu người gia nhập vào tầng lớp trung lưu toàn cầu(21).
Bên cạnh những điểm sáng trong mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội, ta cần nhìn nhận lại một số bất cập sau:
Mục tiêu công bằng giữa các chủ thể kinh tế, nhưng môi trường kinh doanh
thiếu công bằng. Nguồn vốn khó được tiếp cận, vốn ngân sách nhà nước thì
nhỏ giọt, đầu tư sai mục đích, thủ tục hành chính phức tạp. Ví dụ, năm 2018,
cả nước có 56.567 dự án đầu tư công được thực hiện, trong đó có 1.778 dự án
chậm tiến độ, 422 dự án thất thoát, lãng phí(24).
Bất công bằng về thu nhập giữa các đơn vị, các ngành vẫn là vấn đề đáng
quan tâm. Vẫn tồn tại tình trạng lương tối thiểu chưa đáp ứng được nhu cầu
sống tối thiểu của người lao động; chính sách lương tối thiểu chưa được các
doanh nghiệp tuân thủ chặt chẽ. Nghiên cứu của Oxfam chỉ ra rằng: thu nhập
hàng năm của 210 người giàu nhất Việt Nam có thể giúp 3,2 triệu người thoát
nghèo(27). Tham nhũng, buôn lậu, gian lận thương mại, lợi ích nhóm vẫn chưa
được xử lý dứt điểm làm giảm động lực cạnh tranh lành mạnh, gây tác động
tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
12
Quyết sách an sinh xã hội, nhưng chi ngân sách nhà nước lại thường bị
thâm hụt
3. Biện pháp
Thực tế chứng minh, sau đổi mới Việt Nam đã đạt được những thành tựu to
lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa phát triển kinh
tế với phát triển xã hội còn biểu hiện gay gắt. Để giải quyết tốt mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, thì cần phải có những
giải pháp thiết thực hơn nữa.
Thứ nhất, hoàn thiện mô hình tổng quát giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn
đến 2030. Mô hình phát triển kinh tế Việt Nam lựa chọn trong giai đoạn tới
tiếp tục phải là mô hình “gắn kết hài hòa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ,
cải thiện môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo đảm quốc phòng, an
ninh” [9, tr.281]..
Thứ hai, hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; chủ động hội nhập quốc tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường để phát triển
nhanh và bền vững; hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về an sinh xã hội; đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất là ở các vùng đặc biệt
khó khăn và có chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào
dân tộc thiểu số; hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề và đưa lao
động đi làm việc ở nước ngoài; thực hiện Chương trình nghị sự 2030 của Liên
Hợp Quốc, lồng ghép hiệu quả các mục tiêu phát triển bền vững vào kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng ngành, từng địa phương.
Thứ ba, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh. Nội
dung cụ thể của giải pháp này là: nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước để tạo môi trường, điều kiện thuận lợi, an toàn để nền kinh tế vận hành
thông suốt, hiệu quả và hội nhập quốc tế; phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ, tự
13
do sáng tạo của người dân trong phát triển kinh tế; thực thi chính sách phát
triển kinh tế đi đôi với phát triển y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, giải quyết
tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người, v.v..
Thứ tư, hoàn thiện chính sách phân phối. Chính sách phân phối và phân
phối lại phải bảo đảm lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp.
Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, giáo
dục. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh
tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua
phúc lợi xã hội.
Thứ năm, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, con người Việt Nam phát triển
toàn diện. Nội dung cụ thể của giải pháp này là: xây dựng môi trường văn hóa,
đạo đức lành mạnh; khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam;
ngăn chặn sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức; xây dựng các cơ chế, chính sách
để gắn kết chặt chẽ xây dựng văn hóa và phát triển con người; phát triển văn
hóa với phát triển kinh tế - xã hội,thu hẹp khoảng cách chênh lệch về hạ tầng
văn hóa giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng
xa; giảm sự chênh lệch về mức hưởng thụ văn hóa giữa các giai tầng, các
nhóm xã hội.
Thứ sáu, phát triển và quản lý phát triển xã hội bền vững trên nền tảng dân
chủ, khoa học, thượng tôn pháp luật. Cùng với phát triển kinh tế, bảo vệ môi
trường, quản lý phát triển xã hội hợp thành khâu trung tâm của chiến lược phát
triển đất nước, hướng tới mục tiêu dân chủ, công bằng, văn minh. Quản lý phát
triển xã hội phải tập trung vào việc xây dựng mô hình phát triển xã hội hợp lý,
đặt trọng tâm vào việc mở rộng giai tầng xã hội có thu nhập thấp trên cơ sở
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
14
Phần 3: Kết luận
Thực hiện công bằng xã hội là một nội dung quan trọng trong chiến lược
thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng phát triển toàn diện hiện nay. Lý luận
và thực tiễn đã chỉ ra, thực hiện CBXH là vấn đề lớn, phức tạp, đòi hỏi phải có
những giải pháp đồng bộ, toàn diện. Quá trình thực hiện CBXH ở nước ta hiện
nay bên cạnh những thành tựu còn tồn tại không ít những hạn chế cản trở việc
tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Để đạt được mục tiêu Đảng và Nhà nước ta
hướng tới, trước mắt chúng ta cần triển khai hàng loạt các giải pháp, trong đó
cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản như: tiếptục hoàn thiện và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; hoàn thiện và thực thi đầy đủ các
chính sách kinh tế, các chính sách xã hội, hoàn thiện chính sách phân phối, xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, con người Việt Nam phát triển toàn diện, phát triển
và quản lý phát triển xã hội bền vững trên nền tảng dân chủ, khoa học, thượng
tôn pháp luật. Các giải pháp có quan hệ mật thiết với nhau, làm tiền đề, bổ
sung hỗ trợ nhau. Để đạt hiểu quả tối đa, các giải pháp này cần dược phối hợp
thực hiện một cách đồng bộ hiệu quả, xuyên suốt.
15
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PSG, TS Bùi Thị Ngọc Lan,xuất bản 2016, Giáo trình cao cấp lý luận
chính trị, nhà xuất bản lý luận chính trị
2. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI , Nxb.Chính trị quốc gia . H.2011 .
3. Nguyễn Quốc Phẩm , Đỗ Thị Thạch ( Đồng Chủ biên ) : Những nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam . Nxb.Chính trị quốc gia . H.2012 .
4. Nguyễn Trọng Phúc : Đại hội XI với nhận thức mới về chủ nghĩa xã
hội , Tạp chí Lý luận chính trị , số 5-2011 .
5. Nguyễn Quốc Phẩm : Quan điểm của VILênin về chủ nghĩa xã hội và ý
nghĩa đối với Việt Nam hiện nay , Tạp chí Thông tin khoa học chính trị
- hành chính , số 2-2013 .
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo
tổng kết lý luận (2015), Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực
tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Lê Thị Thanh Hà (2016), “Kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”, Tạp chí Khoa học xã
hội Việt Nam, số 2 (99).
9. Lương Thị Huyền Trang(2013), “Quan điểm của Đảng ta về mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa”, Tạp chí Triết học,
số 2.
10. Nguyễn Phú Trọng (2011), Về các mối quan hệ lớn cần được giải
quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16
i
| 1/17

Preview text:

1 Mở đầu
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn luôn coi trọng gắn kết phát triển kinh tế và công bằng xã hội, đây là
định hướng đúng đắn cho phát triển kinh tế bền vững của Đất nước.Tuy nhiên,
chính sách chú trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh có thể gây ra bất bình
đẳng (về thu nhập, cơ hội học tập, tiếp cận dịch vụ xã hội) và làm cho nghèo
đói gia tăng, thậm chí có thể làm phát sinh các mâu thuẫn xã hội. Ngược lại,
chính sách chú trọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội có thể làm triệt tiêu
các động lực tăng trưởng kinh tế.
Hiện nay, các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đang chịu sự tác
động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa, của cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 4. Trong bối cảnh đó, vấn đề giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội càng trở nên cấp thiết. Đây cũng
chính là lý do tác giả chọn đề tài “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay”. 2 Kết cấu Mở đầu
Phần 1: Lý thuyết chung về chủ nghĩa xã hội và công bằng xã hội
1. Chủ nghĩa xã hội
1.1. Khái niệm, điều kiện ra đời của chủ nghĩa xã hội
1.2. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
2. Công bằng xã hội
2.1Khái niệm công bằng xã hội 2.2Nội dung
2.3Điều kiện để thực hiện công bằng xã hội
2.4Công bằng xã hội- mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Phần II: Vận dụng thực tiễn: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay 1. Lý thuyết chung
1.1. Tăng trưởng kinh tế
1.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và cân bằng xã hội
2. Thực trạng, nguyên nhân 3. Giải pháp
Phần III: Kết luận
Danh sách tài liệu tham khảo 3
PHẦN I: Lý luận chung về chủ nghĩa xã hội và công bằng xã hội 1.Chủ nghĩa xã hội
1.1.Khái niệm, điều kiện ra đời của Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội được hiểu theo bốn nghĩa: Là phong chào thực tiễn, phong
trào đấu tranh của nhân dân lao động chống lại áp bức, bất công, chống giai
cấp thống trị. Là trào lưu tư tưởng lý luận, phản ánh lý tưởng giải phóng nhân
dân lao động khỏi áp bức bóc lột bất công. Là một khoa học, chủ nghĩa xã hội
khoa học, lý luận khoa học về sự mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Là một
chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa: Theo quan điểm của Mác Angghen cho rằng hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp đến cao qua hai giai đoạn: Giai đoạn thấp
của xã hội cộng sản sau này Lênin và đảng Cộng sản gọi là Chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn cao của xã hội cộng sản sau này Lênin gọi là cộng sản chủ nghĩa.
Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là thời kỳ của quá
độ chính trị. Quan điểm của Lênin lại cho rằng hình thái kinh tế xã hội cộng
sản chủ nghĩa phát triển qua các nấc thang sau:
1-những cơn đau đẻ kéo dài, thời kỳ quá độ
2- giai đoạn đầu xã hội cộng sản
3- giai đoạn cao của xã hội cộng sản
Chủ nghĩa xã hội ra đời từ những nước tư bản phát triển cao,cơ bản của chủ
nghĩa tư bản là do sự ra đời của nền đại công nghiệp cơ khí, chủ nghĩa tư bản
tạo ra bước phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa
cao mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu.Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền
đại công nghiệp cơ khí đó là sự phát triển vượt bậc về số lượng và chất lượng 4
của giai cấp công nhân dẫn tới mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản
1.2.Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
Khi nghiên cứu về hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, các nhà sáng
lập chủ nghĩa xã hội quan tâm dự báo những đặc trưng, đặc biệt là giai đoạn
đầu giai đoạn thấp của xã hội cộng sản nhằm định hướng phát triển trong
phong trào công nhân quốc tế. Những đặc trưng cơ bản của giai đoạn đầu,
phản ánh bản chất và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội được bộc lộ đầy đủ
cùng với quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa. Căn cứ vào những dự báo của
C. Mác và Ph.Angghen và những quan điểm của V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội
ở nước Nga xô - viết, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau:
Thứ nhất: Mục tiêu cao cả của xã hội xã hội chủ là nghĩa giải phóng giai
cấp,giải phóng xã hội, giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực
hiện công bằng bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con
người phát triển toàn diện. Đây là sự khác biệt về chất giữa hình thái kinh tế-
xã hội cộng sản chủ nghĩa so với các hình thái kinh tế- xã hội ra đời trước, thể
hiện bản chất nhân văn, nhân đạo của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
Thứ hai: Cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất công
nghiệp hiện đại, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, xóa bỏ chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa, từng bước thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất
chủ yếu. C. Mác và Ph.Angghen chỉ rõ: Xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản không
đồng nghĩa với xóa bỏ sở hữu do cá nhân làm ra. “ Điều chúng tôi muốn là xóa
bỏ tính chất bi thảm của cái phương thức chiếm hữu nó…”. Đó là cơ sở kinh tế
để xây dựng một xã hội công bằng , bình đẳng , tiến bộ , quan hệ tốt đẹp giữa
người và người . Tuy nhiên , đây là quá trình khó khăn , phức tạp , lâu dài ,
không thể thực hiện chóng vánh , ngay lập tức được 5
Thứ ba, tổ chức quản lý có hiệu quả, năng suất lao động cao, phân phối chủ
yếu theo lao động. Một mặt , các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ
ra những đặc trưng kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa , trong đó có đặc trưng
là xác lập từng bước chế độ công hữu về tư liệu sản xuất . Mặt khác , các ông
rất coi trọng việc đổi mới cách thức tổ chức quản lý , thiết lập một chế độ xã
hội cao hơn chủ nghĩa tư bản , là phải tăng năng suất lao động . V.I.Lênin chỉ
rõ : Sau khi giai cấp vô sản đã làm xong nhiệm vụ giành được chính quyền rồi
thì tất nhiên có một nhiệm vụ căn bản khác được đề lên hàng đầu , đó là : Thiết
lập một chế độ xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản , nghĩa là nâng cao năng suất
lao động và do đó ( và nhằm mục đích đó ) phải tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn.
Thứ tư: chủ nghĩa xã hội có nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới
là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính
dân tộc sâu sắc, đại biểu cho lơi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.
Thứ năm: Chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát
huy những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Tính ưu
việt, sự ổn định và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa không chỉ thể hiện ở
lĩnh vực kinh tế, chính trị mà còn ở lĩnh vực văn hóa, tinh thần xã hội.
Thứ sáu, chủ nghĩa xã hội đảm bảo công bằng bình đẳng, đoàn kết giữa các
dân tộc và có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. 2.Công bằng xã hội
2.1. Khái niệm công bằng xã hội
Tự do, bình đẳng và bác ái là những giá trị mà cả nhân loại đang cố gắng để
đạt được. Công bằng xã hội cũng vậy, nó là giá trị mà loài người luôn mong
đạt được trong cuộc sống hàng ngày.
Trong chế độ xã hội công xã nguyên thủy, công bằng xã hội là mọi người
đều tuân theo trật tự đã được cộng đồng thừa nhận, ai vi phạm sẽ bị trừng phạt.
Khi xuất hiện sở hữu tư nhân thì nội dung của khái niệm công bằng xã hội 6
cũng thay đổi. Sự công bằng ở đây được xem xét trong mối quan hệ với địa vị
xã hội. Theo Aristotle, công bằng là sự bình đẳng giữa những người có cùng
địa vị xã hội. Còn sự bất bình đẳng giữa những người không có cùng địa vị xã
hội cũng được Arisotle coi là công bằng
Dưới chủ nghĩa tư bản, nội dung của khái niệm công bằng cũng thay đổi.
Quan hệ trao đổi hàng hóa được gọi là công bằng khi chúng thực hiện theo
nguyên tắc ngang giá. Trong xã hội, mọi người được tuyên bố là bình đẳng
trước pháp luật. Các nhà lý luận của chủ nghĩa tư bản không đề cao giá trị công
bằng mà đề cao giá trị "dân chủ" "tự do" (theo kiểu chủ nghĩa tư bản). Họ đồng
nhất bình đẳng (bình đẳng hình thức, bình đẳng một số phương diện nhất định) với công bằng xã hội.
Với chủ nghĩa xã hội, công bằng xã hội được thể hiện trong nguyên tắc phân
phối theo lao động. Theo C.Mác, sau khi đã khấu trừ đi những khoản cần thiết
nhất để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì đời sống của cộng
đồng, toàn bộ số sản phẩm xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc:
mỗi người sản xuất sẽ nhận trở lại từ xã hội một số lượng vật phẩm tiêu dùng
trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội (sau khi
đã khấu trừ số lao động của anh ta cho các quỹ xã hội 2.2. Nội dung
Nội dung cơ bản nhất của công bằng xã hội là xử lý hợp lý nhất quan hệ
giữa quyền lợi và nghĩa vụ trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Để phản ánh
được nội dung cơ bản này, các nhà kinh tế học thường phân biệt hai khái niệm
khác nhau về công bằng xã hội đó là: công bằng xã hội theo chiều ngang
(horizontal justice) nghĩa là đối xử như nhau đối với những người có đóng góp
như nhau và công bằng xã hội theo chiều dọc (vertical justice) theo nghĩa là
đối xử khác nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh, trình độ, năng
lực hoặc có các điều kiện sống khác nhau. 7
Công bằng theo chiều ngang đòi hỏi phải đối xử bình đẳng giữa những
người có cùng năng lực và cống hiến, hưởng thụ như nhau. Công bằng theo
chiều dọc thể hiện ở việc nhà nước có chính sách đãi ngộ, tạo điều kiện, mở
rộng khả năng tiếp cận cho người nghèo, những nhóm người dễ bị tổn thương
đến với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, việc làm, nguồn vốn, mạng lưới an sinh xã hội,...
Được xây dựng trên nguyên tắc phân phối công bằng vì ở đây tất cả những
người sản xuất đều có quyền ngang nhau tham dự quỹ tiêu dùng của xã hội khi
làm một công việc ngang nhau. Nguyên tắc phân phối theo lao động phản ánh,
chủ nghĩa xã hội là chế độ đầu tiên trong lịch sử được xây dựng trên nguyên
tắc công bằng xã hội. Chủ nghĩa xã hội hướng tới mục tiêu: xóa bỏ áp bức, bất
công và những cơ sở nảy sinh áp bức bất công, xây dựng các điều kiện để con
người phát triển tự do và toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Công bằng xã hội quan hệ mật thiết với dân chủ, đòi hỏi dân chủ vì dân chủ là
điều kiện tiên quyết để thực hiện công bằng xã hội.
2.3. Điều kiện để thực hiện công bằng xã hội
Công bằng xã hội là khái niệm mang tính lịch sử cụ thể. Việc đặt ra và
giải quyết vấn đề này phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể: trình độ
phát triển của phương thức sản xuất, trình độ nhận thức của con người, sự chi
phối lợi ích của các giai cấp, các nhóm chủ thể xã hội thời kỳ đó. Do vậy, việc
thực hiện công bằng xã hội cũng phụ thuộc những điều kiện lịch sử - cụ thể
của từng chế độ xã hội.
Chủ thể thực hiện: Đảng cầm quyền, nhà nước, các tổ chức khác trong
hệ thống chính trị và các lực lượng, tổ chức xã hội, người dân ở quốc gia đó.
Ngoài ra, còn các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức hoạt động nhân đạo, từ
thiện... hỗ trợ, tham gia thực hiện CBXH.
Phương thức thực hiện: Đảng chính trị cầm quyền ở quốc gia đó xác
định quan điểm, chiến lược, chủ trương, các mục tiêu về thực hiện CBXH và 8
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Nhà nước có trách nhiệm triển khai thực
hiện quan điểm, chiến lược, chủ trương, các mục tiêu về thực hiện CBXH
trong cả nước và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thực hiện CBXH.
Các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và các lực lượng xã hội ở nước
đó, tiến hành các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, vai trò của mình để
thực hiện các nội dung của CBXH.
2.4. Công bằng xã hội là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Trong điều kiện đổi mới, hội nhập quốc tế và đẩy mạnh xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công bằng là thúc đẩy sự phát triển,
xúc tiến quá trình phát triển lành mạnh hài hòa; tiến hành sắp xếp chế độ và
căn cứ dựa vào sáng tạo xã hội mới, là nguyên tắc cơ bản điều tiết quan hệ
giữa các tầng lớp trong xã hội, cũng là tăng cường sức nghi tụ xã hội, ngọn cờ
quan trọng để tụ hợp và hiệu triệu xã hội. Chỉ có thực hiện công bằng người
dân mới có thể phát triển, các quan hệ xã hội mới có thể được điều tiết, tính
tích cực, tính chủ động, tính sáng tạo của người dân được phát huy, xã hội mới
có thể hài hòa ổn định, toàn thể nhân dân mới có thể đồng tâm hiệp lực xây
dựng và phát triển đất nước
Phần 2: Vận dụng thực tiễn: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay 1. Lý thuyết chung
1.1. Tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một thời
gian nhất định ( thường là một năm). Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện
dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập của nền kinh tế biểu hiện dưới dạng
giá trị được phản ánh qua các chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước (GDP) hoặc
tổng thu nhập quốc gia(GNI). Tăng trưởng kinh tế được đo bằng hai chỉ tiêu .
Một là , chỉ tiêu quy mô tăng trưởng. Chỉ tiêu này phản ánh sự gia tăng thu
nhập của nền kinh tế nhiều hay ít. Hai là, chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng. Chỉ tiêu 9
này phản ánh sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế cao hay thấp , nhanh hay
chậm. Như vậy , bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về
lượng của nền kinh tế.
1.2.Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và cân bằng xã hội
Theo lý luận của C.Mác, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai mặt
của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội, có quan hệ tương hỗ lẫn nhau.
Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện vật chất để thực hiện công bằng xã hội.
Ngược lại, công bằng xã hội tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ví dụ,
khi việc tiếp cận các nguồn lực sản xuất của các chủ thể là công bằng thì tự nó
sẽ tạo ra động lực để thu hút và phát huy hiệu quả mọi nguồn lực thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Ngược lại, nếu việc tiếp cận các nguồn lực không công bằng thì
sẽ không thể có sự tăng trưởng kinh tế nào hết, và nếu việc tiếp cận nguồn lực
quá bất công thì sẽ dẫn đến phá hoại sản xuất. Thực chất việc giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là quá trình gắn kết kinh
tế với xã hội trong phát triển bền vững.
Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, từ nhận thức đúng đắn tính
thống nhất và mâu thuẫn trong quá trình tăng thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước đề ra những quan điểm, chủ
trương đúng đắn để xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tư tưởng đó dần được hoàn
thiện qua các kỳ đại hội của Đảng. Giai đoạn 2011-2016, Đảng khẳng định
rằng, tiến bộ xã hội và công bằng xã hội là hai mục tiêu song trùng của sự phát
triển xã hội; mục đích tối cao của tăng trưởng kinh tế là nhằm phát triển con
người; mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xét cho cùng, là để giải
phóng những giá trị văn hóa tích cực nhất cho loài người, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; mặt khác, tăng trưởng kinh tế đồng thời giúp con người có
nhiều cơ hội, khả năng tiếp nhận các giá trị văn hóa, đưa xã hội tiến lên những
nấc thang mới trong lịch sử nhân loại. Đại hội XII của Đảng đã khẳng định:
“Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và 10
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân” [9, tr.299].
Như vậy, trong thời kỳ đổi mới Đảng luôn chủ trương phát triển kinh tế phải
gắn kết chặt chẽ tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội; coi
hai mục tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó tăng trưởng kinh
tế là cơ sở, làm tiền đề và điều kiện cho nhau, ngược lại, thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội là điều kiện quan trọng thúc đẩy và bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.
2. Thực trạng vấn đề ở Việt Nam và nguyên nhân
Trong công cuộc Đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu quyết
tâm chính trị: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển”. Đây là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt và luôn
được quán triệt trong các kỳ Đại hội của Đảng. Đến nay, đã đạt được những
kết quả đáng khích lệ.
Nhờ đổi mới nền kinh tế, bên cạnh hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể, Đảng và Nhà nước còn khuyến khích phát triển các hình thức sở hữu
tư nhân (bao gồm: sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ và sở hữu tư bản tư nhân).
Mọi người đều có cơ hội như nhau trong tiếp cận các nguồn lực sản xuất, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân giai
đoạn 1975-1985 của cả nước dao động ở 1,9%-0,6%/ năm, thì giai đoạn 1986 -
2017 đạt 6,6%/năm, năm 2018 đạt 7,08%. Từ chỗ thuộc nhóm các nước nghèo
nhất thế giới, năm 2008, Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình
thấp, đạt mức 1.154 USD/ người. Năm 2018, quy mô nền kinh tế đạt 240,5 tỷ
USD gấp 34 lần sau 32 năm đổi mới, đưa Việt Nam lọt lên vị trí 49 trong bảng
xếp hạng các nước có nền kinh tế mạnh nhất thế giớii(16). Thu nhập bình quân
đầu người năm 2018 đạt 2.587 USD và nếu tính theo ngang giá sức mua (PPP)
thì đạt mức 7.640 USD/ người(17), cao gấp 26,7 lần so với năm 1989.
Tăng trưởng kinh tế được gắn kết với phân phối thu nhập công bằng. Đảng
và Nhà nước đã đổi mới căn bản chính sách phân phối thu nhập nhằm “thực
hiện công bằng xã hội ngày một tốt hơn”. Cụ thể là: “Thực hiện nhiều hình 11
thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết
quả sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội”(18)
Tăng trưởng kinh tế gắn kết với bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội. Việt
Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ
nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp quốc
đã đề ra(19). Đến cuối năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm còn
5,35%. Bình quân tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm còn dưới 35%, ở các
xã đặc biệt khó khăn giảm 3-4% so với năm 2017(20). Đến nay, 70% người
dân Việt Nam đã được bảo đảm về mặt kinh tế, trong đó có 13% thuộc tầng
lớp trung lưu theo chuẩn thế giới. Tính từ năm 2014, trung bình mỗi năm cả
nước có 1,5 triệu người gia nhập vào tầng lớp trung lưu toàn cầu(21).
Bên cạnh những điểm sáng trong mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội, ta cần nhìn nhận lại một số bất cập sau:
Mục tiêu công bằng giữa các chủ thể kinh tế, nhưng môi trường kinh doanh
thiếu công bằng. Nguồn vốn khó được tiếp cận, vốn ngân sách nhà nước thì
nhỏ giọt, đầu tư sai mục đích, thủ tục hành chính phức tạp. Ví dụ, năm 2018,
cả nước có 56.567 dự án đầu tư công được thực hiện, trong đó có 1.778 dự án
chậm tiến độ, 422 dự án thất thoát, lãng phí(24).
Bất công bằng về thu nhập giữa các đơn vị, các ngành vẫn là vấn đề đáng
quan tâm. Vẫn tồn tại tình trạng lương tối thiểu chưa đáp ứng được nhu cầu
sống tối thiểu của người lao động; chính sách lương tối thiểu chưa được các
doanh nghiệp tuân thủ chặt chẽ. Nghiên cứu của Oxfam chỉ ra rằng: thu nhập
hàng năm của 210 người giàu nhất Việt Nam có thể giúp 3,2 triệu người thoát
nghèo(27). Tham nhũng, buôn lậu, gian lận thương mại, lợi ích nhóm vẫn chưa
được xử lý dứt điểm làm giảm động lực cạnh tranh lành mạnh, gây tác động
tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. 12
Quyết sách an sinh xã hội, nhưng chi ngân sách nhà nước lại thường bị thâm hụt 3. Biện pháp
Thực tế chứng minh, sau đổi mới Việt Nam đã đạt được những thành tựu to
lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa phát triển kinh
tế với phát triển xã hội còn biểu hiện gay gắt. Để giải quyết tốt mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, thì cần phải có những
giải pháp thiết thực hơn nữa.
Thứ nhất, hoàn thiện mô hình tổng quát giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn
đến 2030. Mô hình phát triển kinh tế Việt Nam lựa chọn trong giai đoạn tới
tiếp tục phải là mô hình “gắn kết hài hòa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ,
cải thiện môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo đảm quốc phòng, an ninh” [9, tr.281]..
Thứ hai, hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; chủ động hội nhập quốc tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường để phát triển
nhanh và bền vững; hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về an sinh xã hội; đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất là ở các vùng đặc biệt
khó khăn và có chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào
dân tộc thiểu số; hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề và đưa lao
động đi làm việc ở nước ngoài; thực hiện Chương trình nghị sự 2030 của Liên
Hợp Quốc, lồng ghép hiệu quả các mục tiêu phát triển bền vững vào kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng ngành, từng địa phương.
Thứ ba, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh. Nội
dung cụ thể của giải pháp này là: nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước để tạo môi trường, điều kiện thuận lợi, an toàn để nền kinh tế vận hành
thông suốt, hiệu quả và hội nhập quốc tế; phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ, tự 13
do sáng tạo của người dân trong phát triển kinh tế; thực thi chính sách phát
triển kinh tế đi đôi với phát triển y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, giải quyết
tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người, v.v..
Thứ tư, hoàn thiện chính sách phân phối. Chính sách phân phối và phân
phối lại phải bảo đảm lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp.
Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, giáo
dục. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh
tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
Thứ năm, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, con người Việt Nam phát triển
toàn diện. Nội dung cụ thể của giải pháp này là: xây dựng môi trường văn hóa,
đạo đức lành mạnh; khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam;
ngăn chặn sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức; xây dựng các cơ chế, chính sách
để gắn kết chặt chẽ xây dựng văn hóa và phát triển con người; phát triển văn
hóa với phát triển kinh tế - xã hội,thu hẹp khoảng cách chênh lệch về hạ tầng
văn hóa giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng
xa; giảm sự chênh lệch về mức hưởng thụ văn hóa giữa các giai tầng, các nhóm xã hội.
Thứ sáu, phát triển và quản lý phát triển xã hội bền vững trên nền tảng dân
chủ, khoa học, thượng tôn pháp luật. Cùng với phát triển kinh tế, bảo vệ môi
trường, quản lý phát triển xã hội hợp thành khâu trung tâm của chiến lược phát
triển đất nước, hướng tới mục tiêu dân chủ, công bằng, văn minh. Quản lý phát
triển xã hội phải tập trung vào việc xây dựng mô hình phát triển xã hội hợp lý,
đặt trọng tâm vào việc mở rộng giai tầng xã hội có thu nhập thấp trên cơ sở
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân. 14 Phần 3: Kết luận
Thực hiện công bằng xã hội là một nội dung quan trọng trong chiến lược
thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng phát triển toàn diện hiện nay. Lý luận
và thực tiễn đã chỉ ra, thực hiện CBXH là vấn đề lớn, phức tạp, đòi hỏi phải có
những giải pháp đồng bộ, toàn diện. Quá trình thực hiện CBXH ở nước ta hiện
nay bên cạnh những thành tựu còn tồn tại không ít những hạn chế cản trở việc
tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Để đạt được mục tiêu Đảng và Nhà nước ta
hướng tới, trước mắt chúng ta cần triển khai hàng loạt các giải pháp, trong đó
cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản như: tiếptục hoàn thiện và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; hoàn thiện và thực thi đầy đủ các
chính sách kinh tế, các chính sách xã hội, hoàn thiện chính sách phân phối, xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, con người Việt Nam phát triển toàn diện, phát triển
và quản lý phát triển xã hội bền vững trên nền tảng dân chủ, khoa học, thượng
tôn pháp luật. Các giải pháp có quan hệ mật thiết với nhau, làm tiền đề, bổ
sung hỗ trợ nhau. Để đạt hiểu quả tối đa, các giải pháp này cần dược phối hợp
thực hiện một cách đồng bộ hiệu quả, xuyên suốt. 15
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PSG, TS Bùi Thị Ngọc Lan,xuất bản 2016, Giáo trình cao cấp lý luận
chính trị, nhà xuất bản lý luận chính trị
2. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI , Nxb.Chính trị quốc gia . H.2011 .
3. Nguyễn Quốc Phẩm , Đỗ Thị Thạch ( Đồng Chủ biên ) : Những nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam . Nxb.Chính trị quốc gia . H.2012 .
4. Nguyễn Trọng Phúc : Đại hội XI với nhận thức mới về chủ nghĩa xã
hội , Tạp chí Lý luận chính trị , số 5-2011 .
5. Nguyễn Quốc Phẩm : Quan điểm của VILênin về chủ nghĩa xã hội và ý
nghĩa đối với Việt Nam hiện nay , Tạp chí Thông tin khoa học chính trị
- hành chính , số 2-2013 .
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo
tổng kết lý luận (2015), Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực
tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Lê Thị Thanh Hà (2016), “Kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”, Tạp chí Khoa học xã
hội Việt Nam, số 2 (99).
9. Lương Thị Huyền Trang(2013), “Quan điểm của Đảng ta về mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa”, Tạp chí Triết học, số 2.
10. Nguyễn Phú Trọng (2011), Về các mối quan hệ lớn cần được giải
quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16 i