Tiểu luận Cơ sở Văn hóa Việt Nam | Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tiểu luận Cơ sở Văn hóa Việt Nam | Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Cơ sở văn hóa Việt Nam(CSVHVN)
Trường: Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một vùng đất rộng lớn được bao quanh bởi sông và biển, có đất đai
trù phú. Với đặc điểm tự nhiên giàu tài nguyên “nước”, nghề nông là nghề chính và
quan hệ sản xuất gắn kết các thành viên trong cộng đồng sinh sống theo các làng, hình
thành nền văn hoá làng, rất đa dạng về lễ hội truyền thống - là cơ sở để cha ông ta sáng
tạo nên các loại hình nghệ thuật dân gian, mà độc đáo nhất là Múa rối nước, một di sản
văn hoá phi vật thể đặc sắc, hiện nay chỉ còn có ở Việt Nam. Với sân khấu là mặt
nước, diễn viên là các con rối, cộng với hiệu quả của ánh sáng và pháo hoa đã tạo ra
những màn biểu diễn hấp dẫn và vô cùng huyền ảo. Trong nền nghệ thuật sân khấu thế
giới, múa rối nước Việt Nam được biết đến là một loại hình nghệ thuật diễn xướng độc
nhất vô nhị. Rối nước là một đặc sản của văn hóa Việt, được sinh ra và lớn lên từ môi
trường nước và đôi bàn tay khéo léo cùng sự sáng tạo tài tình của những người nghệ sĩ
- nông dân. Những tiết mục rối nước phản ánh cuộc sống bình dị, dân dã cùng những
nghi lễ, phong tục tập quán nơi làng quê Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thông qua việc
nghiên cứu các trò rối nước cổ truyền, nhóm nhận thấy mối liên hệ sâu sắc và bền chặt
giữa múa rối nước và văn học dân gian. Có thể coi múa rối nước là một di sản văn hóa
phi vật thể tiêu biểu của Việt Nam. Và vì thế, có thể nói rằng biết và hiểu về múa rối
nước cũng chính là biết và hiểu về văn hóa và con người Việt Nam.
Tuy rằng đề tài tìm hiểu về những yếu tố văn học dân gian trong nghệ thuật
múa rối nước cổ truyền không phải là vấn đề mới mẻ nhưng hiện nay, sự phát triển
nhanh của xã hội đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự tồn tại, phát triển của múa rối nước thì
việc nghiên cứu này sẽ góp một phần nhỏ bé để giúp tìm ra những yếu tố cốt lõi trong
giá trị nghệ thuật múa rối nước. Để từ đó có những biện pháp hữu hiệu giúp bảo tồn,
giữ gìn một bộ môn nghệ thuật độc đáo của nước nhà.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1 Mục tiêu tổng quát
Bài nghiên cứu nhằm làm rõ cơ sở hình thành và giá trị văn hóa của nghệ
thuật múa rối nước Việt Nam, từ đó định hướng, đề xuất một số giải pháp
bảo tồn, phát huy nghệ thuật múa rối nước trong văn hóa.
2.2 Mục tiêu cụ thể
Từ mục tiêu tổng quát nêu trên thì mục tiêu cụ thể của bài nghiên cứu là:
Làm rõ các cơ sở lý luận về nghệ thuật múa rối nước.
Tìm hiểu về nguồn gốc và lịch sử hình thành của nghệ thuật múa rối nước ở Việt Nam.
Chỉ ra các đặc điểm và cách thức hoạt động múa rối nước.
Từ đó nêu ra giá trị văn hóa của nghệ thuật múa rối nước ở Việt Nam.
Đề xuất biện pháp bảo tồn và hướng phát triển của nghệ thuật múa
rối nước ở Việt Nam trong tương lai.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu: Múa rối nước
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: bài nghiên cứu tiến hành nghiên cứu trên phạm vi không
gian Việt Nam, đặc biệt .
Về thời gian: bài nghiên cứu Múa rối nước trong sự phát triển văn hóa của
thời kỳ phong kiến Đại Việt để khái quát về nguồn gốc, sự hình thành, phát
triển của Múa rối nước Việt Nam trong tiến trình lịch sử. Về cơ sở hình
thành và giá trị văn hóa của Múa rối nước, nghiên cứu tập trung vào Múa rối
nước ở thời kỳ từ cuối thế kỷ XVI cho đến nay.
Về phạm vi nội dung: bài nghiên cứu tập trung nghiên cứu một số trò rối
nước cổ truyền đã và đang được lưu truyền tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp thu thập dữ liệu
Dữ liệu thu thập trong bài nghiên cứu này bao gồm: Dữ liệu thứ cấp chính
được sử dụng trong bài nghiên cứu là số liệu thống kê của Bộ Văn hóa Thể
thao và Du lịch. Ngoài ra, bài nghiên cứu sử dụng thêm nguồn dữ liệu từ
báo cáo của các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước và thông tin
trên các trang web của Chính phủ, các địa phương trong khu vực, cụ thể như sau:
Tổng hợp các yếu tố tạo nên nghệ thuật múa rối nước ở Việt Nam
qua các bài báo cáo, luận án, luận văn, các nghiên cứu có liên quan.
Các Nghị định, Nghị quyết, Kế hoạch của UBND cấp tỉnh và thành
phố, của Chính phủ về khắc phục những khó khăn cũng như đề ra
hướng phát triển tương lai của nghệ thuật múa rối nước của Việt Nam.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu đã đề ra, bên cạnh những phương pháp nghiên cứu
chủ đạo bao gồm phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp nghiên cứu
liên ngành: Văn hóa học, Nghệ thuật học, Sử học; phương pháp so sánh, đối
chiếu, luận văn còn sử dụng một số phương pháp sau:
Phương pháp điền dã: Chú trọng việc thu thập tư liệu trong quá trình
khảo sát điền dã tại thực địa, phương pháp nghiên cứu chọn mẫu;
Phương pháp khảo tả, phương pháp phân tích - tổng hợp được dùng
để nhận thức và phân tích đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu chọn mẫu: nhóm chọn ra một số trò rối
nước mang nhiều tính đặc trưng của rối nước cổ truyền nhất để từ đó phân tích, so sánh.
5. Bố cục đề tài
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ MÚA RỐI NƯỚC VIỆT NAM
1. Cơ sở lý luận về múa rối nước 1.1 Múa rối
Bàn về nghệ thuật Rối, nhiều nước trên thế giới đều sử dụng khái niệm “Sân
khấu Rối” hoặc “Rối” mà phương tiện biểu đạt là những con rối. Từ khi ra đời, phát
triển, cho tới nay, con rối chỉ là phương tiện để biểu diễn những điển tích, câu chuyện
xưa,... rồi dần phát triển thành sân khấu Kịch Rối. Còn ở Việt Nam thì gọi loại hình
nghệ thuật này là Múa rối.
Ở Việt Nam thì hiện chưa có một khái niệm chính thức mang tính học thuật nào
về khái niệm Múa rối. Do đó, căn cứ vào một số đặc điểm về con rối, kỹ thuật tạo
hình, lắp ráp, sân khấu và cách biểu diễn, mà một số nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm về Múa rối.
Nhà nghiên cứu Tô Sanh là người đầu tiên đưa ra khái niệm về Múa rối như
sau: “Múa rối là một loại hình nghệ thuật sân khấu có khả năng truyền cảm một cách
cao độ, là sự phối hợp tài tình giữa kỹ thuật và nghệ thuật tạo hình với kỹ thuật và
nghệ thuật điều khiển, lấy con rối làm ph ơng ƣ
tiện chủ yếu để hoàn thành nhiệm vụ
thể hiện mọi mặt phong phú của trí tƣởng t ợng loài ng ƣ ời của hiện ƣ thực khách quan.
Nó có khả năng tập trung hoà hợp nhiều hình thức nghệ thuật, không gian và thời gian
kể cả các loại hình sân khấu khác. Nó phục vụ mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thiếu
nhi. Múa rối có rất nhiều loại. Nhân vật rối là trung tâm. Người diễn viên điều khiển th ờng ƣ
che dấu kín, sân khấu của nó và bản thân nó cần phù hợp với kích th ớc ƣ với tính chất của ng ời
ƣ và rối, chứ không phải cơ bản do hoá trang ng ời ƣ thật hoặc máy móc quyết định.” 1.2 Múa rối nước
Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống ra đời
từ nền văn minh lúa nước. Từ một nghệ thuật mang yếu tố dân gian, múa rối nước đã
trở thành một nghệ thuật truyền thống, và là một sáng tạo đặc trưng của người Việt
Nam. Đồng thời, múa rối nước cũng là một trong những thành tố của văn hóa. Nó phác
thảo lên diện mạo văn hóa, đặc trưng văn hóa vùng của cư dân vùng châu thổ sông Hồng.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Hồng từng quan niệm về múa rối nước: “Rối
nước là loại nhà hát ngoài trời, lấy ao hồ làm nơi dựng buồng trò che giấu nghệ thuật
điều khiển và mặt nước làm sàn diễn cho quân rối làm trò đóng kịch. Người xem ngồi
đứng trên bờ bãi phía trước và hai bên sân khấu. Quân rối nước là loại rối máy điều
khiển ngầm từ xa bằng hai kiểu máy dây và máy sào”
2. Cơ sở hình thành nghệ thuật Múa rối nước Việt Nam 2.1 Cơ sở tự nhiên
2.1.1 Nước và người Việt vùng châu thổ sông Hồng
Với điều kiện tự nhiên và đặc điểm của môi trường sinh thái chi phối, người
Việt ở khu vực sông Hồng thể hiện bốn cách tiếp cận khác nhau đối với nước: tận
dụng, đối phó, sùng bái và lưu luyến. Trong tâm thức người Việt, nước mang sức mạnh
siêu linh, thành một thế lực được tôn thờ và đáng kính trọng. Tập quán sinh sống tụ cư
quanh làng và xoay quanh sinh hoạt đời sống nông nghiệp gần ao làng đã tạo nên
nguồn cảm hứng chủ đạo cho sự sáng tạo của cư dân vùng châu thổ sông Hồng cho Múa rối nước.
Điều này thể hiện rõ mối liên kết rõ ràng giữa nước với đời sống, sản xuất của
người nông dân với hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình chinh phục thiên
nhiên. Không có nước, không có bản chất văn hóa đối với nước, không có nền sản xuất
nông nghiệp và văn minh lúa nước thì sẽ không có Múa rối nước. Để nói, cơ sở hình
thành Múa rối nước là nước và ứng xử của con người với nước (văn hóa nước) của
vùng châu thổ sông Hồng.
2.1.2 Đất và nền nông nghiệp lúa nước của người Việt ở Châu thổ sông Hồng
Châu thổ sông Hồng do sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp nên, trong đó
sông Hồng giữ vai trò chính. Cấu tạo nền tảng châu thổ không bằng phẳng, bề mặt
châu thổ bị chia cắt thành nhiều ô, từng vùng thoải dần và trũng dần về phía biển
Đông. Với đặc điểm khí hậu đặc trưng của vùng nhiệt đới gió mùa ẩm, nắng lắm, mưa
nhiều theo mùa tạo ra một nguồn nhiệt ẩm rất phong phú.
Đặc điểm đất tự nhiên với khí hậu quyết định phương thức sản xuất nông
nghiệp trồng lúa nước của cư dân người Việt ở châu thổ sông Hồng. Trồng lúa nước
chính là tiền đề hình thành tập quán quần cư của người Việt theo từng cộng đồng, làng,
xã. Đất tự nhiên và cư dân châu thổ sông Hồng tác động lẫn nhau, tạo thành mối quan
hệ qua lại hài hòa, thích ứng, điều chỉnh, trong sản xuất cây lúa đã tạo nên phương
thức ứng xử của người Việt với đất: Quý đất, nhờ đất, thờ đất... Do đó, phương thức
ứng xử với đất chính là cơ sở văn hóa của tư duy, tình cảm, khát vọng của Múa rối
nước. Không có cơ sở văn hóa đó thì không thể có nghệ thuật Múa rối nước. 2.2 Cơ sở xã hội
2.2.1. Văn hóa làng châu thổ sông Hồng
Để đối phó, chinh phục môi trường sinh thái tự nhiên, đáp ứng đòi hỏi của đời
sống nông nghiệp thuần nông trồng lúa nước, cư dân người Việt đã phải quần tụ lại
thành làng, với lệ tộc, lệ làng, tạo ra các mối quan hệ nội tại để thắt chặt con người với làng.
Văn hoá làng châu thổ sông Hồng là tổng thể văn hoá của cộng đồng mang tính
truyền thống và bền vững, tồn tại trong đời sống cư dân người Việt. Sinh hoạt văn hóa
dân gian, thông qua “thời điểm mạnh” của lễ hội, sức mạnh, tài năng sáng tạo, khát
vọng của mỗi cá thể và cộng đồng được bộc lộ cao nhất và là cơ sở, tiền đề cho sự ra
đời của các loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian, trong đó có Múa rối nước. Cùng với
sự tồn tại của lễ hội truyền thống, Múa rối nước có sức sống bền vững trong đời sống
văn hoá tinh thần của nhân dân, được nuôi dưỡng bằng cả tâm hồn và cốt cách Việt
Nam. Như vậy, văn hóa làng và Múa rối nước có mối quan hệ thống nhất biện chứng
không thể tách rời, văn hóa làng đã sinh ra Múa rối nước và Múa rối nước là sản phẩm
của văn hóa làng vùng châu thổ sông Hồng.Văn hóa làng là cơ sở hình thành Múa rối nước Việt Nam.
2.2.2. Con người - Nam giới ở châu thổ sông Hồng
Múa rối nước ra đời gắn liền với nghệ thuật tạo hình, điêu khắc, tạc tượng từ
đôi bàn tay thủ công, bằng tư duy và khối óc sáng tạo của người nam giới được rèn
luyện qua năm tháng với nghề nông nghiệp và thủ công trong không gian văn hóa làng
châu thổ sông Hồng. Các mảng chạm khắc, trang trí trên đình làng với tạo hình quân
rối nước đều được thể hiện trên nguyên tắc hội họa đồng nhất, qua cảm xúc thẩm mỹ
của người nam giới, bởi vậy, nó vừa phóng khoáng, mạnh mẽ, mộc mạc mà vô cùng sinh động, tinh tế.
Vấn đề quan trọng nhất ở nghệ thuật tạo hình quân rối, nghệ thuật biểu diễn của
quân rối lại chính nhờ hành động của người nam giới. Tính nam giới trong nghệ thuật
Múa rối nước được thể hiện rất rõ nét, ở đặc điểm “giữ bí mật” nghề nghiệp và tính
chất bí truyền là một trong những đặc điểm nổi bật ở nghệ thuật Múa rối nước.
Vai trò của người nam giới trong Múa rối nước Việt Nam không phải chỉ vì họ
có quyền - “nam quyền”, mà vì họ đã mang tính nam, tính đàn ông, và Múa rối nước
Việt Nam không thể thiếu cái thẩm mỹ ấy. Do đó, nhân vật trung tâm điều khiển, chỉ
huy chương trình Múa rối nước, đại diện cho nghệ sĩ Rối nước chính là: Chú Tễu chứ
không phải cô Tễu, chị Tễu, em Tễu. Vì vậy, cơ sở con người - nam giới vùng châu thổ
sông Hồng chính là cơ sở hình thành Múa rối nước Việt Nam.
3. Quá trình phát triển của nghệ thuật Múa rối nước Việt Nam
Múa rối nước ra đời khi nào hiện nay vẫn là câu hỏi chưa có lời giải đáp. Tuy
nhiên, các nhà nghiên cứu hàng đầu về múa rối nước như Nguyễn Huy Hồng hay Tô
Sanh đều cho rằng rối nước phát triển dưới thời Lý (1010 - 1225), đồng nghĩa rằng loại
hình nghệ thuật này xuất hiện từ trước thế kỷ X.
Dưới thời nhà Hậu Lê và Tây Sơn, tuy không được sử dụng trong cung đình,
Múa rối nước vẫn khẳng định vai trò và vị thế trong dân gian, trong các hội hè đình
đám ở nông thôn. Múa rối nước tiếp thu các nghệ thuật Chèo, Tuồng và phát triển
thêm nhiều lời ca, lời thoại.
Ở thời Nguyễn, do Tuồng được phát triển thành nghệ thuật cung đình, múa rối
nước tiếp tục chỉ phát triển trong dân gian, tuy nhiên, trật tự tổ chức đã được định hình
chắc chắn theo các phường, hội. Các phường, hội đẩy mạnh giao lưu, so tài với nhiều
kĩ thuật tinh tế và đề cao tính chất “bí truyền” để giữ ngón nghề.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, thời điểm thực dân Pháp xâm
lược, Múa rối nước bị xem thường và coi làm “trò vui, câu khách”. Tuy nhiên, Múa rối
nước vẫn tồn tại, duy trì trong lòng xã hội Việt Nam, trong tư tưởng của nho sĩ yêu nước đương thời.
Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến kháng chiến chống Pháp lần 2
(1954), múa rối nước bị kẻ thù xâm lực tàn phá. Các nghệ nhân bị bắt giết, hiện vật bị
phá hủy. Múa rối nước đứng rước tình trạng có nguy cơ bị mai một.
Đến năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Rối nước mới tiếp tục thực sự
có một bước ngoặt mới. Tháng 3/1956, nghệ thuật sân khấu Rối chuyên nghiệp Việt
Nam chính thức ra đời theo chỉ thị của Bác Hồ, khẳng định là một thể loại nghệ thuật
sân khấu truyền thống. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1965 - 1975), dù rất khó
khăn, múa rối vẫn không ngừng phát triển.
Năm 1979, trong Liên hoan Rối Quốc tế tổ chức ở Ba Lan, bộ môn nghệ thuật
này được giới thiệu với bạn bè năm châu và nhận được sự thán phục lớn. Đến năm
1984, Nhà hát Múa rối trung ương tiếp tục gây được tiếng vang lớn khi lưu diễn thành
công tại 3 quốc gia ở khu vực Tây Âu. Từ đó đến nay, múa rối nước liên tục nhận được
nhiều sự ủng hộ của khán giả trong và ngoài nước, trở thành một di sản nghệ thuật độc
đáo trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam. Rối nước giành liên tiếp những giải
thưởng cao quý của Liên hoan Múa rối và thường được chọn là tiết mục đinh của
nhiều Festival trên thế giới.
4. Đặc điểm của múa rối nước
Múa rối nước là “hồn quê” của người Việt vùng châu thổ sông Hồng. Thông
qua múa rối nước, ta thấy được những bức tranh phản ánh chân thực về cuộc sống của
người nông dân bình dị (cả trong sinh hoạt đời thường như chăn trâu, cắt cỏ, làm
đồng,.. lẫn trong những sự kiện lớn lao như chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước).
Theo thống kê, có khoảng 30 tiết mục cổ truyền, hàng trăm tiết mục hiện đại
được lưu lại trong kho tàng múa rối nước Việt Nam. Nội dung các tiết mục thường
xoay quanh tích dân gian, cuộc sống sinh hoạt đời thường của người nông dân như các
trò đi bừa, đi cấy, chăn vịt, đấu vật, đua thuyền, bơi chải, chèo tuồng Thị Màu lên
chùa… Hay ngày nay, các đề tài trong rối nước được khai thác phong phú hơn, mở
rộng hơn như nói về sản xuất, chiến đấu,.... đồng thời được đầu tư công phu, hoành
tráng khi có sự góp mặt của các kỹ xảo sân khấu hiện đại.
Múa rối nước thường được diễn vào dịp lễ, hội làng, ngày vui, ngày Tết… trên
mặt ao hồ hay trên một khúc sông trước cửa đình, cửa chùa. Lễ hội làng chính là
không gian văn hóa của múa rối nước. Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật sân
khấu nên nghệ thuật múa rối nước cũng mang tính tổng hợp, đa diện của nhiều thành phần.
Nếu lễ hội là không gian văn hóa của múa rối nước thì ao làng chính là không
gian thiên nhiên. Múa rối nước diễn ra, trên là trời, dưới là đất, giữa là mặt nước và
những quân rối ngộ nghĩnh, người xem ở 3 mặt chung quanh.
Một buổi biểu diễn rối nước hoàn chỉnh là sự kết hợp của nhiều nghệ nhân, nào
nghệ nhân sáng tác tích trò, nào nghệ nhân làm quân rối, nào nghệ nhân điều khiển con
rối, nào nghệ nhân hát xướng. Dù ở vị trí nào cũng đòi hỏi kỹ năng và sự nhiệt huyết,
đam mê, đồng lòng của mỗi cá nhân trong tập thể.
Bên cạnh đó, âm thanh trong múa rối nước cũng đóng vai trò quan trọng: lời ca,
tiếng trống, pháo thăng thiên, mõ, tù và, pháo mở cờ,... góp phần làm tiết mục múa rối
chân thực hơn, sống động hơn.
Ngoài ra, một đặc điểm rất độc đáo trong nghệ thuật múa rối nước của Việt
Nam là không được truyền cho người ngoài. Theo nghệ sĩ múa rối Đinh Văn Tiêu,
thuộc phường Đào Thục, xã Thùy Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội, trước kia nếu ai
muốn học nghề múa rối nước đều phải được ông Tổ nghề đích thân dạy bảo ngay từ
đầu và chỉ những ai xuất sắc mới được nhập phường. Người mới được ăn mặc chỉnh
tề, mang lễ vật gồm trầu cau, xôi và rượu trắng dâng lên ông Tổ nghề. Nghề múa tối
cứ tuần tự truyền từ đời cha sang đời con, tuy nhiên con gái và con rể không được
nhập phường. Sau đó, nếu phường đồng ý kết nạp thì phải uống máu ăn thề: “Suốt đời
suốt kiếp chúng tôi phải giữ bí mật của nghề, nếu không chúng tôi và ba đời con cháu sẽ phải chết.”
CHƯƠNG II. NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC VIỆT NAM
Để làm nên thành công của nghệ thuật múa rối nước, ắt hẳn khắc ghi đậm nét
trong lòng khán giả chính là hình ảnh từng con rối tạo hình tinh xảo, lung linh trên mặt
nước cùng thủy đình làm điểm nhấn. Mọi thứ dùng trong quá trình biểu diễn múa rối
nước đều được chế tác công phu.
2.1. Mặt nước là sân khấu biểu diễn
Múa rối nước có giá trị đặc sắc và khác với tất cả các loại hình sân khấu Việt
Nam như rối cạn, chèo, tuồng, cải lương… ở chỗ dùng mặt nước làm nơi cho quân rối
diễn trò, đóng kịch. Đây là hình thức sân khấu mặt nước duy nhất trong các dạng thức
của nghệ thuật múa rối của nhân loại, khác biệt với rối tay, rối que, rối máy, rối bóng… của sân khấu rối cạn.
Việt Nam nói chung và vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng có diện tích mặt nước
lớn với nhiều ao, hồ... và chính điều này là cơ sở cho sự ra đời của rối nước. Sân khấu
mặt nước góp phần đắc lực tạo nên những bất ngờ, thú vị cho người xem. Khán giả
ngạc nhiên, ngỡ ngàng khi hàng cờ từ dưới nước bật lên mà vẫn khô nguyên, thích thú
khi những con rối đi xa hàng chục mét đến sát mép nước mời trầu, mời thuốc, tặng
hoa…Những con rối gỗ đơn điệu, dáng vẻ thô sơ… đã trở nên biến hóa linh hoạt, thoắt
ẩn thoắt hiện…chinh phục khán giả của mọi lứa tuổi trên khắp năm châu. Có thể nói
đây chính là đặc trưng nổi bật nhất góp phần nhận diện múa rối nước. Không có yếu tố
mặt nước thì không có sự kỳ diệu, lôi cuốn, hấp dẫn của loại hình nghệ thuật múa rối nước.
2.2. Thủy đình là hình tượng đặc trưng
Thủy đình hay còn gọi dân dã là buồng trò là đặc trưng tiếp theo của loại hình
này. Thủy đình là sự hiện diện của một vật chất chứa đựng nét thân thuộc đã nâng tầm
rối nước thành loại hình sáng giá, mang đậm yếu tố văn hóa Việt. Hình ảnh thủy đình
mang dáng dấp mái đình với kiến trúc chồng diêm hai tầng tám mái, nhẹ nhàng và
thanh thoát với đầu đao cong vút đã cho chúng ta hình ảnh cụ thể về một sân khấu rối nước.
Nếu như buồng trò của sân khấu rối cạn, rối bóng, rối Nhật Bản... đều dựng trên
mặt đất thì trong rối nước, buồng trò bắt buộc phải dựng trên mặt nước (có thể là ao,
hồ hay bể chứa nước).Thủy đình chính là nơi để các nghệ nhân hoạt động, với hai
kiểu: Thủy đình cố định bằng gạch ngói và thủy đình dùng để đi biểu diễn lưu động
làm bằng phên tre, khung ống nước.
Sự kết hợp giữa ao làng với thủy đình đã tạo nên một không gian diễn xướng rất
đặc trưng, độc đáo của rối nước. Không gian vừa thiên tạo vừa nhân tạo, lại mang đậm
dấu ấn của văn hóa Việt là cội nguồn cho vẻ đẹp nghệ thuật lan tỏa.
2.3. Quân rối là hình tượng nghệ thuật
Quân rối là công cụ nghệ thuật của nghệ sĩ múa rối, là cơ sở vật chất và kỹ thuật
của nghệ thuật múa rối nói chung và rối nước nói riêng. Con rối là loại “diễn viên đặc
biệt” do hai người tạo ra: người nghệ sĩ tạo hình và người điều khiển rối. Ở chèo,
tuồng, cải lương, kịch nói… ta mới chỉ sáng tạo ra trang trí, hóa trang, phục trang…
còn ở múa rối ta phải sáng tạo ra cả con rối để làm diễn viên. Chất liệu làm nên quân
rối cạn có thể là gỗ, vải, giấy, nan đan, chất dẻo… nhưng đối với rối nước, do các con
rối phải “sống” trong môi trường nước nên chất liệu phải là: gỗ vông, gỗ sung, gỗ dổi
– những loại gỗ nhẹ và ít chịu nước.... Các phường rối nước ưa dùng gỗ sung để tạc
quân vì vừa dễ kiếm lại dễ đục đẽo lúc còn tươi, rất nhẹ và dai lúc khô.
Công việc tạo hình quân rối nước của các nghệ nhân thường được chia ra thành
từng phần riêng như tạc gỗ, sơn thếp, làm máy và lắp máy. Quân rối được tạc theo lối
lắp ghép nhiều chi tiết trong một thân hình, thường cao 30 - 40cm (trừ quân rối Tễu,
rối Tiên cao khoảng 80cm) với những màu sắc, đường nét chung chung. Con rối nhỏ
bé nên không thể nào khắc họa sâu sắc được tính cách của từng nhân vật, không thể
chứa đựng đầy đủ mọi chi tiết của thân hình nhân vật nên những người nghệ nhân chỉ
giữ lại những nét lớn tượng trưng nhất để người xem nhận ra. Quân rối gỗ dù tạc liền
một khối gỗ hay chắp lại đều có hai phần liền nhau là phần thân và phần đế. Phần thân
nổi trên mặt nước lộ cho người xem thấy còn phần đế chìm dưới mặt nước giữ cho
quân rối nổi và là nơi lắp máy điều khiển.
Sự xuất hiện quân rối là một đặc trưng nổi bật của sân khấu rối, phân biệt nó
với các loại hình sân khấu cổ truyền khác của dân tộc. Không giống như diễn viên
người ở sân khấu cải lương, chèo, tuồng… quân rối là loại “diễn viên” không thay đổi
được tình cảm bằng nét mặt, không tự nói được, cử động chậm chạp, động tác thiếu tự
nhiên… nhưng đồng thời lại nhờ nó mới có thể tạo ra những điều kỳ lạ, kỳ ảo. Ở rối
nước, quân rối không “gần” tay người điều khiển như rối cạn nên sự truyền cảm từ
người điều khiển có phần hạn chế. Hơn nữa quân rối nước vốn chỉ được đục đẽo bằng
gỗ nhẹ, hình khối khô cứng, nét mặt chung chung, chịu sự tác động lớn của nước…
nên khả năng diễn đạt kém hơn rối cạn. Tuy nhiên với nhiều yếu tố hỗ trợ: nước, ánh
sáng, âm thanh… đã tạo cho những con rối nước vẻ lung linh, huyền ảo, sống động
giúp người xem dễ dàng lĩnh hội nội dung tư tưởng và tình cảm của tiết mục.
2.4. Tễu là nhân vật điển hình
Nhân vật trong múa rối nước xưa bao gồm người và động vật. Đặc biệt, trong
múa rối nước, nhiều con vật được tạo hình không có thực, đó là những con vật tưởng
tượng như rồng, lân, phượng.
Tễu là nhân vật quen thuộc của nhiều phường hội rối nước và cũng được xem
như biểu tượng của múa rối nước Việt Nam.. Tễu thường là quân rối lớn nhất với hình
dáng một anh trai cày trẻ tuổi, khỏe mạnh, hoạt bát, hài hước… bạn của các chú Hề
chèo, Hề tuồng… Gương mặt chú Tễu luôn vui tươi, mình lắc lư; hai tay vung vẩy, đi
tới đi lui, tay chỉ chỏ.
“Cởi trần đóng khố múa chơi
Hát rằng, giữa đất và trời có ta
Đất là mẹ, trời là cha
Chính danh gọi Tễu, tự là Thảo Dân” _Phạm Công Trứ_
“Chú Tễu là linh hồn của múa rối nước, là cầu nối giữa người diễn và người xem…”
Tễu giữ việc ra mở màn, giáo đầu, dẹp trật tự cho buổi biểu diễn, giới thiệu
chương trình… Ở một số phường rối, Tễu là người phất cờ hoặc châm pháo, ở phường
khác Tễu là mõ làng hay giúp đỡ các cụ già… Có thể nói, tất cả các phường rối là đều
dùng Tễu làm nhân vật mở màn tuy rằng nội dung lời giáo ở mỗi phường khác nhau.
Chú Tễu nhắn nhủ điều hay lẽ phải, phê phán cái xấu lên án cái ác… rồi ra về với câu hát quen thuộc: Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn
Tễu trong tiếng Nôm có nghĩa là “tiếng cười”. Chú Tễu chính là sản phẩm của
một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời và bất khuất trong công cuộc giữ nước
và dựng nước. Tiếng cười là một biểu hiện của sức mạnh chiến thắng. Trải qua nghìn
năm, người Việt ai cũng yêu mến Tễu và coi chú là quân rối quan trọng nhất. Chú đã
trở nên quen thuộc và nhận được sự yêu mến, quan tâm của những khán giả trong nước và ngoài nước.
Trong sân khấu rối nước, bên cạnh chú Tễu còn có những người nông dân giản
dị, mộc mạc,các nhân vật lịch sử anh hùng: Hai bà Trưng, Lê Lợi, Trần Hưng
Đạo… ,những tên giặc cướp nước, bán nước như Liễu Thăng, Thoát Hoan, lính Tây,
lính ngụy… những nhân vật biểu tượng như: Long, Ly, Quy, Phượng… cùng vô số con
vật thật như con cá, con vịt, con cáo…
Trong mỗi tiết mục rối nước, nhân vật thường không nhiều, hành động đơn
giản.Tính cách nhân vật rối nước không đa dạng, khắc họa chủ yếu bằng hình dạng và
hành động ngoại hình. Nhân vật rối nước ngoại trừ nhân vật lịch sử, còn lại thường
không có lai lịch rõ ràng. Ở rối nước cổ truyền chưa có nhân vật điển hình toàn diện
như chèo, tuồng…. chỉ có Tễu là nhân vật tiêu biểu.
2.5. Sự hỗ trợ của kỹ thuật diễn rối, âm nhạc, ánh sáng và văn học
2.5.1. Kỹ thuật diễn rối
Sự thành công của rối nước không chỉ nhờ vào giá trị nghệ thuật bề ngoài của
quân rối mà chủ yếu thể hiện qua diễn xuất sân khấu - nhờ vào kỹ thuật chế tạo máy
điều khiển và kỹ xảo điều khiển. Máy điều khiển rối nước xếp thành hai loại: Máy sào
và máy dây. Cả hai loại máy đều có nhiệm vụ làm di chuyển con rối và tạo hành động cho nhân vật.
Máy sào thường là một cây tre hoặc gỗ dài khoảng 3 - 4 m, đầu có bộ phận
chuyển động quân rối và các bộ phận trong thân hình nó. Máy sào lại được chia làm
hai loại: máy sào đơn giản và máy sào phức hợp. Máy sào đơn giản chỉ giữ và làm di
chuyển toàn thân quân rối như đi lại, ra vào và xoay chuyển hướng đứng. Máy sào
phức hợp có thêm bộ phận làm cử động từng phần trên thân hình và toàn thân con rối:
giơ tay, đá chân, quay phải, quay trái, cúi đầu…. với sự điều khiển của nhiều người:
người giữ sào, người kéo dây làm giơ tay, quay thân… Với loại máy này, nhân vật có
khả năng làm được nhiều động tác di chuyển lại không bị bó buộc vào một đường dây căng sẵn như máy dây.
Máy dây phải đóng cọc, căng dây, gài máy trước biểu diễn. Hệ thống cọc đóng
ngầm dưới mặt nước sân khấu để kéo một bàn máy lớn, trên có lắp quân rối. Dây chão
được căng từ trong buồng trò hoặc dài thành vòng (để đầu thả ra, đầu kéo về) hoặc chỉ
là một dây thẳng để bàn máy trượt khi bị kéo ra hay co vào. Máy dây thường dùng cho
các trò tập thể như: Múa bát tiên, Múa sư tử… Những con rối theo bố trí của máy dây
có thể đi xa và trở về 20 - 30m. Ở loại máy này có thể điều khiển cùng một lúc nhiều
quân rối ( từ 2 đến 8 quân rối).
Rối nước là trò rối máy, kỹ thuật chế tạo nhằm đảm bảo giấu các bàn máy trong
lòng nước, lợi dụng sức nước, tạo sự điều khiển từ xa, đem đến cho người xem nhiều
điều kỳ lạ, bất ngờ… Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật việc sáng chế
và cải tiến quân rối càng trở nên dễ dàng, hứa hẹn sự phát triển và hấp dẫn hơn của
nghệ thuật múa rối nước.
2.5.2. Sự hỗ trợ của âm thanh, ánh sáng, văn học
Nghệ thuật rối nước lấy động tác làm ngôn ngữ diễn đạt nên âm nhạc có vai trò
quan trọng, giúp điều khiển tốc độ, giữ nhịp, dẫn dắt động tác, khuấy động không khí
biểu diễn.Múa rối truyền thống sử dụng những làn điệu dân tộc: chèo, dân ca, quan họ,
chầu văn… Nhạc cụ chính trong rối nước là: trống cái, não bạt, mõ… Pháo cũng là một
trợ thủ đắc lực. Tiếng hát, tiếng đế thường được dùng để giới thiệu, minh họa, làm nền…
Ánh sáng là yếu tố quan trọng làm tăng vẻ đẹp của phong cảnh trang trí, tăng
tính hiệu quả của các tiết mục. Nghệ thuật múa rối nước diễn với ánh sáng ban ngày đã
đẹp, diễn với các loại ánh sáng vào ban đêm càng lung linh, huyền ảo. Múa rối nước từ
xưa đến nay đã có nhiều buổi biểu diễn đêm với đủ loại ánh sáng: đuốc, đèn măng
xông, đèn điện, hệ thống đèn pha và máy điều khiển ánh sáng pha màu. Với ánh đèn
pha hắt từ dưới lên, từ trên xuống các con rối được khoang trong một vùng ánh sáng và
mặt nước là một tấm gương phản chiếu lung linh các loại màu sắc. Thủy khắc hỏa
nhưng trên sân khấu rối nước lại kết hợp vô cùng hài hòa, khéo léo đem đến những tiết
mục lôi cuốn người xem.
Bên cạnh âm thanh, ánh sáng, trò rối nước còn có sự hỗ trợ của yếu tố văn học
tuy rằng văn học mới chỉ tham gia trong giai đoạn phát triển sau này. Lời trong rối
nước giữ vai trò giới thiệu trò, minh họa trò, chưa tham gia nhiều vào hành động nhân
vật. Với các bài văn vần, biền ngẫu mang tính phóng khoáng không thành một hình
thức quy củ, mang tính khoa trương, biểu tượng là chính đã ít nhiều làm cho rối nước thêm phần hấp dẫn.
2.6. Chủ nhân của rối nước là những cư dân nông nghiệp vùng đồng bằng Bắc Bộ
Văn hóa Việt Nam mang cội nguồn và bản sắc của một nền sản xuất nông
nghiệp. Những cộng đồng định cư thành làng xã từ hàng nghìn năm trước đó đã trồng
lúa nước và tạo nên nền văn minh sông Hồng và rối nước chính là một sáng tạo độc
đáo của những người nông dân đó. Minh chứng cho điều này là hầu hết cơ sở rối nước
cổ truyền đều tập trung quanh vùng kinh đô Thăng Long xưa - trung tâm đồng bằng phì
nhiêu, nơi được đan xen bởi mạng lưới sông ngòi chằng chịt. Đó là các cơ sở múa rối
nước ở các tỉnh: Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Nam Định,
Thái Bình… Các di tích thủy đình cũng được tìm thấy ở đây.
Nếu như hát xẩm là “cuộc sống” của những con người “đầu đường xó chợ”, bần
cùng nghèo khổ dưới đáy xã hội; hát ả đào là sản phẩm của tầng lớp trí thức phong lưu
thì múa rối nước lại là sáng tạo của những người làm ruộng, quanh năm lăn lộn với
nắm đất cây lúa, sớm khuya cần mẫn ngoài đồng. Đó là những con người sống gắn bó
với nước, sẵn sàng ngâm bùn lội nước để làm nghệ thuật dù trời đông giá rét, dù cho
những con rối không nhẹ. Họ đóng tiền góp gạo để dựng phường lập hội, tạc quân chế
máy, đóng cọc căng dây, dựng buồng trò, luyện tập và biểu diễn. Người nông dân coi
đó là một thú vui chơi, làm nghệ thuật một cách bình dị và tự nguyện. Chủ nhân của
nền văn minh nông nghiệp qua bao thế hệ đã giữ gìn và bảo tồn nghệ thuật múa rối
nước đến ngày hôm nay. Múa rối nước chính là sản phẩm độc đáo của những con
người lao động. Nghệ thuật được ra đời từ những khoảng thời gian nông nhàn của
người nông dân, dùng yếu tố nước và rối để tạo nên những trò giải trí, vui chơi.
CHƯƠNG III. GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC VIỆT NAM
3.1 Giá trị nhân thức
Múa rối nước là những bức tranh phản ánh chân thực về cuộc sống của những
người nông dân trong sinh hoạt đời thường, từ đó, chúng ta nhận thức được mối quan
hệ giữa con người với con người, giữa con người với thế giới thiên nhiên, hiểu được
lao động, sinh hoạt, khát vọng và ước mơ về cuộc sống ấm no, hạnh phúc của người
nông dân vùng châu thổ Bắc Bộ. Múa rối nước mang giá trị cộng cảm, cộng mệnh của
văn hóa cộng đồng, được cộng đồng nuôi dưỡng, gìn giữ và phát triển. Múa rối nước
trong lễ hội cũng hướng tới mục đích phản ánh nội dung, ý nghĩa, giúp nhận thức rõ giá
trị văn hóa ẩn sâu trong đời sống tâm linh của mỗi cư dân nông nghiệp lúa nước. Mặc
dù quân rối nước là sáng tạo của người thợ thủ công làm chùa, tạc tượng...Tuy nhiên,
các trò diễn của Rối nước không bị ảnh hưởng trực tiếp từ tôn giáo, tư tưởng chính trị.
3.2 Giá trị giáo dục
Múa rối nước giáo dục cho con người về lòng yêu lao động, yêu thiên nhiên,
yêu quê hương, yêu đất nước và tinh thần tự hào dân tộc, cố kết cộng đồng trong sự
nghiệp “chống thiên tai địch họa, chống ngoại xâm” để hướng tới cái đẹp “tình làng
nghĩa xóm” trong văn hóa làng vùng châu thổ Bắc Bộ. Giống với Chèo, Múa rối
nước cũng là sự thể hiện một phần của văn hoá đạo đức Việt Nam. Tuy nhiên, những
nguyên tắc - tấm gương đạo đức mà Chèo thể hiện chịu ảnh hưởng khá nhiều của Nho
giáo,coi những “tam cương”, “ngũ thường” như nguyên lý bất khả xâm phạm, bắt con
người phải từ bỏ những ham muốn riêng tư. Ngược lại, tính khuyến giáo đạo đức trong
Múa rối nước tồn tại ở dạng giản dị, hồn nhiên, rõ ràng và nhân văn, gieo vào lòng
người tình yêu thương con người, đồng loại, khơi gợi những ước mơ, khát vọng cao cả,
nâng tâm hồn, giá trị tinh thần của con người, đưa con người vươn tới quyền dân chủ,
làm chủ cuộc sống, làm chủ thiên nhiên.
3.3 Giá trị giải trí
Rối nước Việt Nam thuở ban đầu ra đời thuần tuý chỉ vì mục đích giải trí, bằng
những nội dung mang nặng tình yêu thiết tha với cuộc sống, và thấm đẫm tinh thần lạc
quan của người nông dân vùng Châu thổ Bắc Bộ, đã góp phần đáng kể vào đời sống
văn hóa tinh thần vui tươi lành mạnh ở khắp mọi nơi. Giá trị giải trí của Múa rối nước
Việt Nam còn thể hiện ở sự sáng tạo thăng hoa của các nghệ nhân thủ công trong làng
đã sáng tạo ra những trò diễn mới, độc đáo cho chính cộng đồng mình. Giá trị giải trí
của nghệ thuật Múa rối nước không chỉ dừng lại ở việc thỏa mãn những thích thú cá
nhân thuần túy, mà thông qua giải trí, con người được khơi dậy, kích thích phát triển
những khả năng sáng tạo tiềm ẩn bên trong, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện
của con người ngay trong quá trình giải trí.
3.4 Giá trị thẩm mỹ
Khác với các loại hình nghệ thuật khác, sức hấp dẫn, lôi cuốn người xem thường
thông qua kịch bản, ngôn ngữ văn học, và thể hiện bằng nghệ thuật diễn xuất của người
diễn viên. Còn ở Múa rối nước, sức hấp dẫn chính ở hành động của con rối. Múa rối
nước Việt Nam là một văn phạm thị giác được viết ra bởi những nhận thức tinh nhạy
của con người, làm nên đặc trưng của Múa rối nước khác với các nghệ thuật khác.
Nghệ thuật của Múa rối nước thể hiện từ tính kỳ, nghịch thường và cười - vui. Đây
chính là biểu hiện cao nhất ở cái đẹp của nghệ thuật Múa rối nước, Giá trị thẩm mỹ của
Múa rối nước thể hiện rất rõ ở những dấu ấn địa phương, từ quân rối, kỹ thuật máy, kỹ
thuật điều khiển, hay cùng một trò diễn giống nhau, nhưng mỗi phường, mỗi địa
phương thể hiện có khác nhau... làm nên các tiểu vùng khác nhau trong văn hóa Châu thổ Bắc Bộ.
Múa rối nước là nghệ thuật diễn xướng dân gian độc đáo gắn với nền văn minh
lúa nước của cư dân vùng châu thổ Bắc Bộ, nó chứa đựng và kết tinh cao nhất những
giá trị văn hóa và nghệ thuật của nền văn minh lúa nước. Xem múa rối nước, chúng ta
được sống trong thế giới thật sự vui vẻ, thư giãn, bởi những tính kỳ - cười vui, bất ngờ,
không bị gò ép, khiên cưỡng theo những phép tắc, giáo huấn nào. Chính vì thế, nó
mang thông điệp về giá trị giáo dục con người, về tính nhân văn sâu sắc.
CHƯƠNG IV. BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC VIỆT NAM 4.1
Thực trạng nghệ thuật múa rối nước Việt Nam hiện nay
4.1.1 Thực trạng về chất lượng của múa rối nước Việt Nam
Phong trào biểu diễn múa rối nước dân gian, hoạt động của các đơn vị nghệ
thuật múa rối chuyên nghiệp, các phường rối dân gian ở các địa phương hiện nay đang
được duy trì. Thậm chí, những địa phương vốn không có múa rối nước như ở miền
Trung và Nam Bộ thì nay cũng đã có sự xuất hiện của các sân khấu rối nước thường
xuyên biểu diễn.Tuy nhiên, sự phát triển của rối nước mới chỉ là sự phát triển về số
lượng, về mặt chất lượng vẫn còn nhiều điểm đáng lưu ý.
Hiện nay, những tích trò rối nước được biểu diễn chủ yếu với mục đích thu hút
khách du lịch nên những người tổ chức chưa thật sự quan tâm đến câu chuyện mà rối
nước mang lại. Gần như các phường dân gian, các sân khấu rối nước khi tổ chức biểu
diễn chỉ lặp đi lặp lại những vở cũ, cụ thể là trò múa rối nước được rút ra từ phường
Nguyên Xá ở Thái Bình và phường Chấn Nam ở Nam Định. Có rất ít nơi sưu tập
những tích cổ để xây dựng nên nội dung mới. Hoặc nếu có, thì người biểu diễn cũng
chưa có đầy đủ kinh nghiệm, họ là những diễn viên mới vào nghề còn non trẻ.
Có thể thấy phong trào biểu diễn múa rối nước đang được duy trì tại tỉnh thành
trên miền Bắc. Nhiều nơi vốn không có múa rối nước như miền Trung và Nam Bộ thì
hiện nay cũng đã triển khai tổ chức các buổi biểu diễn múa rối nước. Đó là những biểu
hiện đáng mừng trong việc phát huy vốn văn nghệ cổ truyền của cha ông. Tuy vậy,
điều đáng lưu ý là mục đích của một số buổi tổ chức biểu diễn múa rối không hẳn để
nối tiếp truyền thống, bảo tồn nghệ thuật và phục vụ người dân mà chủ yếu là nhằm
phục vụ du khách nước ngoài, thu lợi nhuận, nhiều khi chỉ chạy theo mục đích thương
mại. Tất nhiên việc sử dụng nghệ thuật truyền thống vào quảng bá du lịch là nên
làm,song nếu đặt sai mục đích sẽ có tác dụng ngược.
Nghệ nhân Phan Văn Mẽ, trùm phường Rối nước làng Rạch, trưởng đoàn rối
nước Thành Nam cho biết: Hiện nay tại Nhà hát Múa rối nước Thăng Long, các ngày
trong tuần liên tục có suất diễn phục vụ khách nước ngoài với doanh thu rất cao. Bản
thân ông cũng có thời gian phục vụ tại đó. Vì những lý do khác nhau, trong đó quan
trọng nhất là sự nhàm chán của các tiết mục rối nước làm cho người nghệ sĩ mất đi sự
sáng tạo nên ông đã trở về quê hương để hoạt động theo cách riêng của mình. Cũng vì
mục đích thương mại mà vốn nghệ thuật dân gian tiềm ẩn trong nhân dân ngày càng bị
mai một. Điều dễ nhận thấy nhất là hầu hết các phường múa rối nước trên toàn miền
Bắc đều biểu diễn một chương trình giống nhau. Đó là 16 trò múa rối nước dân gian
được thu nhặt, tổng hợp từ phường Nguyên Xá (tỉnh Thái Bình) và phường Nam Chấn
(làng Rạch, xã Hồng Quang, Nam Định) từ cách đây gần 30 năm. Các trò có tên gọi rất
dân dã: Tễu, Rồng, Lân,Tứ Linh, Long, Ly,Đánh cá, Nông nghiệp, Câu ếch, Chọi trâu,
… Rất ít phường có những tiết mục mới (do sưu tầm từ vốn cổ, chứ không phải mới
sáng tác). Có nơi cũng đã phục hồi được một số trò những diễn chưa điêu luyện, vì hầu
hết là diễn viên trẻ mới đào tạo ngắn ngày, chưa vững tay nghề. Lại có nơi chạy theo
đề tài thời sự, viết kịch bản mới, dàn dựng mới nhưng không đủ hấp dẫn.
4.1.2 Thực trạng mai một của múa rối nước Việt Nam
Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, cuộc sống của mỗi con người cá nhân và
xã hội đang trở nên tất bật, sự giao lưu và tiếp biến các giá trị văn hóa đang diễn ra
mạnh mẽ. Văn hóa truyền thống của dân tộc có nguy cơ bị lãng quên hay bị coi nhẹ.
Nghệ thuật múa rối nước truyền thống cũng chịu chung số phận đó. Sự mai một nghệ
thuật múa rối diễn ra ở các làng quê là một thực tế có thể dễ dàng nhận thấy trong bối
cảnh bị xâm lấn bởi hàng loạt yếu tố văn hóa ngoại lai như phim ảnh và âm nhạc Hàn
Quốc, Nhật Bản và các nước phương Tây....
Tuy nhiên, sự mai một của nghệ thuật múa rối nước truyền thống không chỉ là
câu chuyện của riêng các làng quê, phường hội rối. Ngay cả ở những cơ quan, đơn vị
có chức năng bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa rối chuyên nghiệp như các nhà hát,
đoàn nghệ thuật... thì việc biểu diễn múa rối nước cũng đang bị chi phối bởi yêu cầu lôi
kéo khách, đặc biệt là khách nước ngoài. Do đó mà đặc trưng của rối nước truyền
thống cũng như những nhu cầu thưởng thức văn hóa nghệ thuật chính đáng của người
Việt Nam nhiều khi bị lãng quên. Nếu không có sự quan tâm đầu tư về chiều sâu, với
những chiến lược nghiên cứu và đào tạo.
Nguyên nhân của những hiện trạng này là do rối nước tồn tại ở một số địa
phương một cách tự do, chưa có sự quan tâm, quản lý của Nhà nước Thêm vào đó, thu
nhập của nghệ nhân rối nước không ổn định, hay thậm chí có người bỏ nghề, không
mặn mà với việc biểu diễn rối nước. Hơn nữa, việc sưu tầm, nghiên cứu, quảng bá,
tuyên truyền giáo dục thẩm mỹ truyền thống chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến
người dân chưa hòa mình được vào không gian nghệ thuật của loại hình này.
4.2 Giải pháp bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa rối nước Việt Nam
Từ những thực trạng và nguyên nhân kể trên, chúng ta nhận thấy rằng việc đưa
những giải pháp để giữ gìn, bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật dân gian này là
điều vô cùng cần thiết.
Sưu tầm sân khấu múa rối nước và con rối
Những năm gần đây, công tác sưu tầm sân khấu Múa rối nước đã được quan tâm
hơn, nhưng thực chất vẫn chưa đáp ứng được tầm quan trọng của nó. Sưu tầm còn
mang tính tự phát của một số cá nhân hay của một vài cơ quan chức năng mang tính
hình thức chủ nghĩa. Có một nghịch lý: Chúng ta bỏ không biết bao nhiêu công sức,
của cải, thời gian khai quật, tìm tòi những di vật cổ trong lòng đất, trong đáy đại dương
nhưng lại bỏ quên những di tích, những cổ vật quý hiếm nằm rải rác ngay xung quanh
chúng ta, trong đó có múa rối nước.
Rất nhiều con rối cổ bị đem bán ra nước ngoài, một số còn lại, có những con rối
mang tuổi vài trăm năm, vẫn còn nằm im trong các làng quê, trong các góc đình làng
ẩm thấp. Những con rối ở nhà mồ Tây Nguyên, ở bản làng Đăklăk, ở Cao Bằng, ở Hà
Tây cũng đang cần đến những người sưu tầm. Nếu kéo dài tình trạng này, việc phát
huy Múa rối nước sẽ gặp nhiều khó khăn ngay từ khâu sưu tầm.
Nâng cao chất lượng đào tạo
Từ trước tới nay, việc đào tạo trong lĩnh vực nghệ thuật sân khấu Múa rối nói
chung tồn tại hai hình thức.
Đào tạo theo lối truyền nghề, đó là cách đào tạo truyền thống. Tất cả các
phường Rối cạn cũng như Rối nước tồn tại như một hình thức văn nghệ dân gian. Nó
có nhiều ưu điểm là người học nghề có khả năng bắt chước nhanh, thuần thục những gì
được học, nhưng khả năng tư duy, sáng tạo độc lập lại hạn chế, bởi chỉ được truyền
những kinh nghiệm và thủ thuật diễn một cách máy móc và dập khuôn.
Hình thức đào tạo theo trường lớp, học theo khung chương trình, có giáo án,
giáo trình, ngoài môn chuyên ngành còn phải học nhiều môn kiến thức cơ bản và liên
ngành khác. Vì vậy, học viên khi tốt nghiệp có khả năng tư duy và sáng tạo độc lập
theo ý đồ của đạo diễn cũng như của tập thể. Hình thức theo kiểu trường lớp này có
tính khoa học nhưng thực chất không có hiệu quả bằng lối đào tạo truyền nghề như ở
mô hình đào tạo truyền thống ở một số địa phương; cũng như Tuồng, Chèo phương
pháp đào tạo tại chỗ, cha truyền con nối là có hiệu quả hơn. Múa rối nước là loại hình
nghệ thuật dân gian truyền thống, từ xưa tới nay vẫn là truyền nghề là chính, vì thế mà
vai trò của nghệ nhân rất quan trọng: Nghệ nhân tạo hình con rối, làm máy móc điều
khiển con rối và biểu diễn.
Vì thế phải quan tâm nhiều hơn nữa trong việc sử dụng nghệ nhân, trong việc
đào tạo lực lượng diễn viên Múa rối nước trẻ. Đào tạo phải gắn với thực hành, nghĩa là
phải tổ chức hoạt động biểu diễn thường xuyên để diễn viên trẻ được thực hành, được
nâng cao kỹ năng, được tiếp cận thường xuyên với công chúng. Thực tế có một số
phường Múa rối nước đào tạo xong một lớp diễn viên rồi chỉ cho biểu diễn mấy buổi
báo cáo rồi nghỉ kéo dài vì không tổ chức biểu diễn được, trong khi sân khấu Múa rối
nước phải thường xuyên đến với quần chúng, vì đối tượng mà nó phục vụ cũng là
nguồn động viên cho nghệ thuật phát triển.
Làm mới nội dung biểu diễn
Những sân khấu rối, phường rối cũng cần chú trọng vào việc thay đổi nội dung,
tránh gây ra sự nhàm chán cho người xem. Biểu diễn rối nước là việc nhằm giới thiệu
những cái hay nét đẹp của văn hóa Việt, bảo tồn và phát huy, không nên vì mục đích
thương mại mà quên đi giá trị vốn có của nó. Xây dựng câu chuyện mới, nội dung mới
nhưng vẫn cần đảm bảo mang đặc trưng nghệ thuật và phong cách dân gian truyền
thống, bởi quá trình hội nhập quốc tế hiện nay dễ khiến cho truyền thống bị lãng quên.
Nhà nước cần quan tâm, đầu tư tài chính cho những nghệ nhân
Bởi vì tài chính bấp bênh nên buộc các nghệ nhân rối nước phải làm thêm nghề
mới, không chú trọng vào nghề cũ. Chúng ta cần thực hiện các chính sách xã hội hóa
để phục hồi những trò điển cố, nâng cao giá trị nghệ thuật dân gian. Việc thành lập Hội
chuyên ngành rối nước là một biện pháp chúng ta nên thực hiện. Khi ấy, nghề rối nước
được đề cao hơn, nghệ sĩ được tôn trọng hơn và thu nhập cũng ổn định hơn, nghệ sĩ sẽ
không bỏ nghề. Hội chuyên ngành cũng chính là chỗ dựa tinh thần để họ hành nghề và
truyền dạy kinh nghiệm, công tác đào tạo cũng được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa.
Quảng bá nghệ thuật
Quảng bá giúp loại hình nghệ thuật đến gần hơn với công chúng cả trong và
ngoài nước. Khi ấy, họ hiểu và được sống, được hòa mình vào không gian nghệ thuật
rối nước. Để thực hiện điều này, cần có sự phối hợp giữa các địa phương, đẩy mạnh sự
giao lưu học thuật với các trường nghệ thuật. KẾT LUẬN
Múa rối nước là nghệ thuật diễn xướng dân gian độc đáo gắn với nền văn minh
lúa nước của cư dân vùng châu thổ sông Hồng, nó chứa đựng và kết tinh cao nhất
những giá trị văn hóa và nghệ thuật của nền văn minh lúa nước. Múa rối nước là sản
phẩm sáng tạo của tập thể, vì vậy nó là sự hoà đồng của từng cá nhân trong cộng đồng
thành tập thể sáng tạo và thưởng thức, tạo nên thành tố của nghệ thuật Múa rối nước.
Hiện thực trong Múa rối nước là hiện thực về cái đẹp lý tưởng chủ quan của nhân dân
lao động hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thanh bình, dân chủ trong tình người
yên vui. Xem múa rối nước, chúng ta được sống trong thế giới thật sự vui vẻ, thư giãn,
bởi những tính kỳ - cười vui, bất ngờ, không bị gò ép, khiên cưỡng theo những phép
tắc, giáo huấn của tôn giáo nào. Chính vì thế, nó mang thông điệp về giá trị giáo dục
con người, về tính nhân văn sâu sắc. Vì thế, Múa rối nước đã mang tính nhân loại, làm
cho Múa rối nước Việt Nam vượt ra ngoài lãnh thổ, để đến với bạn bè thế giới. Cùng
với những yếu tố đặc biệt vui - cười, kỳ lạ, nghịch thường trong trò diễn, những giá trị
thẩm mỹ về kiến trúc, tạo hình, hội họa, âm nhạc…được vận dụng khéo léo, cùng tài
nghệ của nghệ nhân sử dụng mặt nước làm sân khấu để quân rối diễn trò.
Ngoài ra, nghệ thuật múa rối nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn
các giá trị văn hóa của dân tộc cũng như là nguồn tài nguyên để phát triển du lịch. Múa
rối nước là loại hình đặc biệt chỉ có tại Việt Nam bởi vậy đây cũng là điểm thu hút sự
chú ý đặc biệt của du khách tới bộ môn nghệ thuật này. Rối nước với những hình ảnh
gần gũi mà giản dị, những câu chuyện về hoạt động nông nghiệp đã mang đến một màu
sắc mới lạ, kéo con người thoát ra khỏi cuộc sống bộn bề, trải nghiệm, cảm nhận những
chuyển động linh hoạt của con rối qua từng tiết mục khác nhau. Việc khai thác các giá
trị văn hóa đặc sắc của nghệ thuật múa rối để tạo thành những sản phẩm du lịch độc
đáo sẽ thu hút ngày càng đông đảo du khách, góp phần phát triển du lịch thủ đô. Những
giá trị văn hóa của Múa rối nước thật phong phú, đa dạng và vô giá. Nhờ đó mà Múa
rối nước đã trường tồn cùng văn hóa Việt Nam.
Để bảo tồn và phát triển Múa rối nước trong điều kiện cơ chế thị trường và hội
nhập quốc tế hôm nay, cần chú trọng công tác bảo tồn, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực (nhà quản lý - nghệ sĩ - khán giả), đổi mới cơ chế quản lý,... Bài nghiên cứu
đã lý giải sự hình thành, tồn tại, phát triển của Múa rối nước trong tiến trình lịch sử
xuất phát từ cơ sở văn hóa Việt Nam. Đồng thời, thông qua sự tồn tại và diễn trình phát
triển của nó trong không gian và thời gian, luận án hệ thống những giá trị văn hóa Việt
Nam của Múa rối nước để khẳng định vai trò, vị trí của nó trong đời sống văn hóa Việt
Nam, đề xuất quan điểm và giải pháp, khuyến nghị để bảo tồn và phát triển Múa rối
nước phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay. Hoàn cảnh hiện nay, khi điều kiện tự
nhiên - môi trường sinh thái - lịch sử - xã hội cho sự ra đời nghệ thuật Múa rối nước
của người Việt đã thay đổi, sinh hoạt văn hóa văn nghệ của đất nước cũng có nhiều
mới mẻ trong điều kiện cơ chế thị trường, định hướng Xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc
tế sâu rộng và toàn diện. Vì vậy, hiện tượng văn hóa này cần nhận được sự quan tâm
nghiên cứu nhiều hơn nữa, để khẳng định vai trò của Múa rối nước trong đời sống văn
hóa nghệ thuật, nhằm thích ứng với cuộc sống hiện đại, mà bài nghiên cứu này chỉ như
một bước khởi đầu trong cả tiến trình phát triển của loại hình nghệ thuật này. TÀI LIỆU THAM KHẢO