



















Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG
------------------------- TIỂU LUẬN
MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG
ĐỀ TÀI: Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí
Minh về chính trị, tư tưởng và sự vận dụng của Đảng trong đường
lối đổi mới
Sinh viên: NGUYỄN THÙY LINH
Mã số sinh viên: 2151100025
Lớp hành chính: QUẢNG CÁO K41 Lớp: XD01001_K41.2
Giảng viên hướng dẫn: Trương Thị Duyên
Hà nội, tháng 4 năm 2022 MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
MỞ ĐẦU. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .3
1. Lý do nghiên cứu đề tài. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .4
NỘI DUNG. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY
DỰNG CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG TRONG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .5
1. Một số khái niệm cơ bản. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chính trị. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .8
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng tư tưởng. . . . . . . . . . . . . . . . . . .14
CHƯƠNG 2: MỤC TIÊU, PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG ĐẢNG THEO
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH TRỊ VÀ TƯ TƯỞNG. . . . . . . 20
1. Thực trạng công tác xây dựng Đảng hiện nay. . . . . . . . . . . . . . . . . . .20
2. Mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị hiện
nay. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 22
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cơ bản xây dựng Đảng về tư tưởng 23
KẾT LUẬN. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .27 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .28 LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tập này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Các thầy cô tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã tạo điều kiện về cơ sở
vật chất với hệ thống thư viện hiện đại, đa dạng các loại sách, tài liệu thuận lợi
cho việc tìm kiếm, nghiên cứu thông tin.
Em cũng xin cảm ơn giảng viên bộ môn – cô Trương Thị Duyên và thầy Lê
Văn Hội đã giảng dạy tận tình, chi tiết để em có đủ kiến thức và vận dụng chúng vào bài tập này.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm làm để tài cũng như những hạn chế về kiến
thức, trong bài tiểu luận chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận được sự nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía cô để bài làm
của em được hoàn thiện hơn.
Lời cuối cùng, em xin kính chúc thầy cô nhiều sức khỏe, thành công và hạnh phúc! 2 MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn đặc biệt coi trọng công tác xây
dựng Đảng. Trong bối cảnh tình hình hiện nay, công tác xây dựng Đảng gặp
nhiều khó khăn, thách thức, diễn biến phức tạp, kinh tế thị trường, hội nhập quốc
tế và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ, các vấn đề an
ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, an ninh mạng, dịch
bệnh, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn
biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ và tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. .
còn diễn biến phức tạp.
Đặc biệt, đại dịch Covid-19 từ đầu năm 2020 xảy ra đã tác động mạnh đến
nước ta, gây thiệt hại về kinh tế - xã hội và sự phát triển của đất nước. Trước bối
cảnh đó, công tác xây dựng Đảng được cấp uỷ các cấp đặc biệt coi trọng, triển
khai thực hiện toàn diện, đồng bộ với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành
động quyết liệt và đạt được nhiều kết quả rõ rệt, góp phần quan trọng thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đất nước.
Chính vì vậy, em quyết định lựa chọn đề tài “Xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị, tư tưởng và sự vận dụng của Đảng
trong đường lối đổi mới” làm bài tiểu luận kết thúc học phần môn Xây dựng Đảng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Nắm được các khái niệm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng
Đảng về chính trị và tư tưởng
Nắm được nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và sự vận dụng của
Ðảng và Nhà nước Việt Nam, tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng đối 3
với sự nghiệp cách mạng của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu về công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh dựa trên hai
yếu tố là chính trị và tư tưởng.
Xác định quan điểm và đề ra một số phương pháp xây dựng Đảng phù hợp để
phát huy đồng thời sức mạnh nội lực và sức mạnh tổng hợp của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam theo tư
tưởng Hồ Chí Minh về chính trị, tư tưởng và sự vận dụng của Đảng trong đường lối đổi mới. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: Bài tiểu luận được nghiên cứu từ ngày 20/4/2022 đến ngày 10/5/2022.
Không gian: Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn hiện nay. Nội dung:
- Khái niệm xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng
- Nội dung và vai trò của xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng
- Thực trạng và giải pháp góp phần phát huy xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng. 4 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY
DỰNG CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG TRONG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm chính trị
Theo Từ điển Tiếng Việt, chính trị được hiểu là “làm cho hình thành một
chỉnh thể về xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa theo một phương hướng nhất định,
ví dụ: xây dựng cơ đồ, xây dựng đất nước”.
Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia trong vấn
đề giành, giữ, sử dụng quyền lực nhà nước; là những phương hướng, những mục
tiêu được quy định bởi lợi ích cơ bản của giai cấp, của đảng phái; là hoạt động
thực tiễn chính trị của các giai cấp, các đảng phái, các nhà nước để thực hiện
đường lối đã lựa chọn nhằm đi tới mục tiêu đã đặt ra.
Khi đề cập chính trị như là một loại hoạt động xã hội có liên quan tới vấn đề
nhà nước, chính trị bao hàm các nhân tố cơ bản sau đây: Mục tiêu hoạt động
chính trị (cương lĩnh, đường lối. chính trị); phương pháp, phương tiện hoạt động
chính trị; những hình thức tổ chức hoạt động chính trị; xây dựng và vận dụng các
thiết chế chính trị; tổ chức những lực lượng xã hội và vận dụng các hình thức tổ
chức đó nhằm đạt mục tiêu; phát hiện, đào tạo, sử dụng những nhà chính trị,
những chính khách; tổ chức hoạt động chính trị thực tiễn.
1.2. Khái niệm tư tưởng
Theo từ điển Tiếng Việt, “tư tưởng” là quan điểm và ý nghĩ chung của con
người đối với hiện thực khách quan và đối với xã hội, ví dụ: đổi mới tư tưởng, tư
tưởng tiến bộ, hệ tư tưởng Nho giáo.
Tư tưởng là sự phản ánh của hiện thực trong ý thức, biểu thị những lợi ích ít
nhiều có tính phổ biến của con người, của xã hội. Tư tưởng là hình thức phản 5
ánh thế giới bên ngoài, được thôi thúc bởi mục đích, bởi ý thức rõ ràng về những
ích lợi, triển vọng của việc nhận thức đó nhằm vào việc cải tạo thế giới bên
ngoài; là sự phản ánh thế giới khách quan, phản ánh cái bản chất sâu kín, bên
trong sự vật, hiện tượng. Thông qua những kinh nghiệm do thực tiễn mang lại,
thông qua những tri thức đã được tích lũy trong lịch sử, tư tưởng có khả năng
khái quát hóa, trừu tượng hóa để hiểu sâu hơn bản chất sự vật, thể hiện dưới
dạng các khái niệm, phạm trù, nguyên lý… Trong xã hội có giai cấp, tư tưởng
gắn liền với giai cấp, hay nói đúng hơn, gắn với lợi ích giai cấp. Theo C.Mác, tư
tưởng phải gắn với lợi ích, tư tưởng mà không gắn với lợi ích là điều hết sức vô
nghĩa. Như vậy, có thể quan niệm: tư tưởng là ý niệm, quan điểm phản ánh
tương đối khái quát hiện thực trong ý thức, biểu thị những lợi ích ít nhiều có tính
phổ biến của con người (nhóm người, cộng đồng người, giai cấp, xã hội. .)
1.3. Khái niệm xây dựng Đảng về chính trị
Xây dựng Đảng về chính trị là quá trình xác lập, củng cố hệ tư tưởng chính trị
trong Đảng và xuất phát từ thực tiễn để xây dựng đường lối chính trị đúng đắn,
lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối đó nhằm đảm bảo, nâng cao vai trò lãnh
đạo, uy tín chính trị của Đảng đối với toàn xã hội. Chủ thể xây dựng Đảng về
chính trị là toàn Đảng, tất cả các tổ chức đảng và đảng viên, trong đó chủ yếu và
trực tiếp là Bộ chính trị, Ban Bí thư; cấp ủy đảng các cấp; đảng đoàn, ban cán sự
đảng và các chi bộ. Đối tượng xây dựng Đảng về chính trị là các tổ chức đảng và
đội ngũ đảng viên. Nội dung xây dựng Đảng về chính trị bao gồm: kiên định nền
tảng tư tưởng chính trị, xác định chủ trương, đường lối của Đảng trên các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và tổ chức thực
hiện thành công chủ trương, đường lối đó đồng thời không ngừng củng cố và
nâng cao uy tín chính trị của Đảng.
Ở Trung ương, xây dựng Đảng về chính trị là hoạt động của Đảng về xây dựng
đường lối, chính sách và lãnh đạo tổ chức thực hiện đường lối, chính sách đó. 6
Các địa phương, cơ sở, xây dựng Đảng về chính trị là sự vận dụng sáng tạo
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước để xác định đúng đắn
nhiệm vụ chính trị và tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đó.
1.4. Khái niệm xây dựng Đảng về tư tưởng
Theo Từ điển Tiếng Việt, xây dựng (động từ): làm cho hình thành một chỉnh
thể về xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa theo một phương hướng nhất định, ví dụ:
xây dựng cơ đồ, xây dựng đất nước.
Tập bài giảng chương trình cao cấp lý luận chính trị - hành chính ở Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh viết: “Xây dựng Đảng về tư tưởng
là xây dựng nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo sự thống nhất trong Đảng về mục
tiêu lý tưởng, về đường lối, chính sách, về hành động; xây dựng nền tảng đạo
đức vững chắc của Đảng, thể hiện trong bộ mặt tinh thần của cán bộ, đảng viên;
làm cho lý tưởng, đạo đức của Đảng trở thành giá trị chung, trở thành động lực
phát triển của toàn xã hội”.
Như vậy, có thể quan niệm: Xây dựng Đảng về tư tưởng là xây dựng và bảo vệ
hệ tư tưởng của Đảng; truyền bá, giáo dục hệ tư tưởng đó, giáo dục đạo đức cách
mạng cho đảng viên, tạo sự thống nhất tư tưởng và hành động trong toàn Đảng;
đấu tranhchống các tư tưởng sai trái và thù địch góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Chủ thể xây dựng Đảng về tư tưởng được xác định là: toàn Đảng, từ Trung
ương Đảng đến từng đảng viên, trong đó chủ yếu và trực tiếp là Bộ Chính trị,
Ban Bí thư; cấp ủy đảng các cấp; đảng đoàn, ban cán sự đảng và các chi bộ. Đối
tượng xây dựng Đảng về tư tưởng là toàn thể đội ngũ đảng viên của Đảng.
Nội dung xây dựng Đảng về tư tưởng bao gồm: xây dựng nền tảng tư tưởng
của Đảng; giáo dục nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đảng viên; nghiên cứu,
bổ sung phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn; tạo sự thống nhất về tư tưởng, làm
cơ sở để xây dựng khối đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động trong 7
toàn Đảng và đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chính trị
2.1. Vai trò của xây dựng Đảng về chính trị
Xây dựng Đảng về chính trị góp phần nâng cao trình độ và năng lực lãnh đạo của Đảng
Bất cứ đảng phái nào cũng chỉ có thể lãnh đạo xã hội khi củng cố quyền lực
của mình về mặt chính trị. Trong thực tế, các đảng phái sau khi nắm được thực
quyền về chính trị mới có thể lãnh đạo xã hội theo định hướng của mình. Trong
điều kiện đã trở thành đảng cộng sản cầm quyền, xây dựng Đảng về chính trị
nhằm phát huy hiệu lực của Nhà nước; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước, làm cho Nhà nước thực sự của dân, bảo vệ và phục vụ lợi ích của nhân dân;
phát huy được vai trò của các thành viên trong hệ thống chính trị. Mức độ thực
hiện quyền dân chủ của nhân dân là thước đo đánh giá trình độ trưởng thành về
chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo để nhân dân làm chủ ngày càng tốt hơn, dân
chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng và sâu sắc hơn - đó là sứ mệnh chính
trị của đảng cộng sản cầm quyền.
Xây dựng Đảng về chính trị là nội dung quan trọng để xây dựng lực lượng,
tập hợp quần chúng nhân dân và mọi tầng lớp giai cấp, mọi thành phần kinh tế
Xây dựng Đảng về chính trị, trước hết thể hiện ở việc xác định đường lối,
chính sách đúng đắn của Đảng. Đường lối chính trị là ngọn cờ để tập hợp lực
lượng cách mạng. Có thống nhất về chính trị thì mới có khả năng tập hợp lực
lượng toàn xã hội. Xuất phát từ mục đích khác nhau của các giai cấp, các tầng lớp
nhân dân khác nhau, việc xây dựng được nền tảng chính trị thống nhất sẽ tránh
được sự chia rẽ, phân tán các nguồn lực xã hội. Thực hiện chủ trương hội nhập
quốc tế nhưng phải giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh 8 hoa văn hóa
nhân loại, kiên định một cách tuyệt đối về vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng
Cộng sản. Đó là nguyên tắc trong quá trình đổi mới. Vì vậy, tăng cường công tác
xây dựng Đảng về chính trị là vấn đề luôn được đặt lên hàng đầu, nhằm khẳng
định vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong mọi thời kỳ phát triển đất
nước, nhất là trong tình hình hiện nay, khi các thế lực thù địch bên ngoài, những
phần tử cơ hội luôn chống phá Đảng và Nhà nước ta.
Xây dựng Đảng về chính trị là cơ sở để thống nhất tư tưởng và hành động.
Thống nhất chính trị là điều kiện để thống nhất tư tưởng và hành động. Chỉ
khi có định hướng chính trị được toàn xã hội chấp nhận, ủng hộ thì mới có thể
thống nhất tư tưởng và hành động.
Đối với Đảng ta, dân tộc ta hiện nay, mục tiêu chính trị chung nhất là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Thống nhất về tư tưởng là tiền đề của sự đoàn kết, thống nhất
trong Đảng - yếu tố quyết định sức mạnh và vị thế của Đảng. Song, thống nhất tư
tưởng không có nghĩa hoàn toàn loại trừ mọi khác biệt, trong Đảng hoàn toàn
không có ý kiến khác nhau. Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên hệ quan niệm đang
không ngừng được đổi mới là sự nghiệp chưa có tiền lệ trong lịch sử thế giới và
dân tộc ta. Chúng ta phải vừa làm vừa tổng kết rút kinh nghiệm để từng bước
hoàn thiện hệ quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
cho phù hợp xu thế thời đại và đất nước. Trong bối cảnh đó, việc có ý kiến khác
nhau là bình thường và tự nhiên. Qua trao đổi, tranh luận trên cơ sở thực tiễn,
chân lý được phát hiện và nhận thức đúng sẽ trở thành tư tưởng chủ đạo trong
Đảng, tạo thành sự đồng thuận trong nhân dân. 9
Xây dựng Đảng về chính trị là cơ sở xác định hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng là
cơ sở xác định hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng và Nhà nước, xác định chức
năng, nguyên tắc, hoạt động của các tổ chức và là cơ sở để lựa chọn bố trí cán bộ.
Xây dựng Đảng về chính trị còn cần thiết bởi trong điều kiện Đảng cầm
quyền, những quyết sách của Đảng không chỉ ảnh hưởng đến nội bộ Đảng mà còn
ảnh hưởng sâu rộng đến toàn xã hội.
2.2. Nội dung xây dựng Đảng về chính trị
Xây dựng Ðảng về chính trị thường được đặt lên hàng đầu khi bàn về bốn
mục tiêu xây dựng Ðảng: Chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức. Bốn mục tiêu có
mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau, thậm chí ở những mức độ và cách thể
hiện khác nhau, các mục tiêu thâm nhập vào nhau, tác động qua lại lẫn nhau.
Tuy nhiên, mỗi mục tiêu có nội hàm và những khía cạnh đặc trưng cần được làm rõ và nhấn mạnh.
Xây dựng Ðảng vững mạnh về chính trị có nhiều nội dung, tập trung ở
đường lối chính trị đúng, bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng và tác phong cư
xử chính trị chuẩn mực, có văn hóa của cán bộ, đảng viên.
Về đường lối chính trị đúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ một đường lối
chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được. Ðường lối chính trị đúng là
một đường lối có chất lượng khoa học, cách mạng và nhân văn. Ðường lối đó
được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
xuất phát, phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh, thực tiễn Việt Nam và xu thế phát
triển của thế giới; tôn trọng quy luật khách quan; phản ánh đầy đủ khát vọng, lợi
ích của quốc gia - dân tộc, vừa cơ bản trước mắt vừa có tính chiến lược, lâu dài.
Ðường lối chính trị đúng của Ðảng trước hết phản ánh ở đường lối chung,
kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa, triển khai đúng đắn, hiệu quả trên tất cả mọi lĩnh 10
vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, tính khoa học và
cách mạng của một đường lối chính trị đúng cho dù trong một nhiệm kỳ đại hội
cũng không bao giờ chỉ giới hạn trong nhiệm kỳ đó. Ðảng phải có những dự báo
tình hình thế giới và đất nước về tất cả các mặt trên hai phương diện thuận lợi -
thời cơ và khó khăn - thách thức, để chỉ ra được những nguy cơ lớn phải phòng
và chống. Từ năng lực dự báo của Ðảng để thấy những vấn đề mới đặt ra, những
yêu cầu mới, to lớn, phức tạp trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, bảo
vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà Ðảng, Nhà
nước và nhân dân phải kiên trì, kiên quyết, tín tâm, quyết tâm, đồng tâm nỗ lực,
phấn đấu nhiều hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa.
Giải quyết nhiệm vụ trước mắt cùng với bản lĩnh, năng lực dự báo thể hiện
Ðảng phải tập trung giành thắng lợi trong từng bước đi lên của sự nghiệp đổi
mới. Ðường lối chính trị của Ðảng cứng rắn về chiến lược, kiên định những vấn
đề có tính nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, linh hoạt về phương thức tiến hành,
tập hợp lực lượng của toàn dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của quốc tế, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thích ứng năng
động trước những chuyển biến của tình hình.
Về bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng: Chúng ta đang sống trong một
thế giới toàn cầu còn nhiều diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó lường;
một số lĩnh vực, khu vực cạnh tranh gay gắt, tiềm ẩn nhiều bất ổn, căng thẳng.
Trong nước, bốn nguy cơ mà Ðảng ta chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn,
chứa đựng những thách thức lớn. Bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng trước
hết thể hiện ở nhận thức thấu đáo của Ðảng về tình hình thế giới và đất nước.
Ðảng phải thấy rõ trong mọi giai đoạn cách mạng khác nhau, từng bước đi lên
của đất nước, bao giờ cũng xuất hiện những tình huống phức tạp, bước ngoặt 11
hiểm nghèo, những cản lực trên con đường phát triển. Càng gần thắng lợi càng
nhiều gian nan, đó là điều có tính tất yếu của cách mạng.
Nói kiên định, vững vàng bản lĩnh chính trị không có nghĩa chủ quan, duy ý
chí, rập khuôn, máy móc, bảo thủ, cứng nhắc, giáo điều, mà là sự kết hợp chặt
chẽ giữa nhìn nhận hiện tại, dự báo tương lai với tổng kết thực tiễn và kinh
nghiệm. Kinh nghiệm và thực tiễn từ trước và hiện nay được gom góp lại, phân
tích, kết luận thành lý luận. Sự phong phú của lý luận bằng chính những kết luận
mới rút ra từ trong thực tiễn.
Vì vậy, bản lĩnh chính trị vững vàng trong xây dựng Ðảng về chính trị hiện
nay là kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng
tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Ðây là nền tảng tư tưởng, lý
luận của cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua. Những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới 35 năm qua có nhiều nhân tố, nhưng phải
nhấn mạnh nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Ðảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ðây là cốt lõi trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam từ khi có
Ðảng. Chín mươi năm qua, nhờ kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội mà cách mạng Việt Nam đã tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là bài học hàng đầu được Ðảng ta tổng kết trong
toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt qua 35 năm đổi mới.
Kiên định đường lối đổi mới, để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Ðường lối đổi mới được hình thành và từng bước hoàn thiện, phát
triển 35 năm qua, đưa đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử, khẳng định đường lối lãnh đạo của Ðảng là đúng đắn, tạo tiềm lực to lớn để 12
bảo vệ Tổ quốc. Ðổi mới ngày càng sâu rộng phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam và xu thế phát triển của thế giới là con đường duy nhất đúng thể hiện bản
lĩnh, ý chí kiên cường và quyết tâm đi tới của cả dân tộc trên con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.
Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Ðảng.
Ðó là lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh "làm cốt"; tập trung
dân chủ; gắn bó mật thiết với nhân dân; tự phê bình và phê bình; giữ gìn sự đoàn
kết, thống nhất trong Ðảng; kỷ luật nghiêm minh, tự giác; đoàn kết quốc tế trong
sáng, thủy chung… Chín mươi năm qua, nhất là qua 35 năm đổi mới, nhờ kiên
định những vấn đề có tính nguyên tắc, Ðảng ta trong sạch, vững mạnh, giữ vững
được vai trò lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Ðảng, lãnh đạo
nhân dân ta tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong bất kỳ tình huống nào, đường lối chính trị của Ðảng phải luôn luôn thể
hiện sự kiên định, vững vàng, không dao động, ngả nghiêng. Trong khi kiên định
những vấn đề nền tảng vững chắc của Ðảng ta thì phải luôn luôn đổi mới và sáng
tạo theo tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Cách mạng là sáng
tạo, là đổi mới. Không sáng tạo, không đổi mới là lạc hậu, xã hội không thể phát
triển. Xã hội, con người luôn luôn đổi mới. Ðổi mới là một cách thức để phát
triển, làm cho sự vật ngày càng tốt hơn, tiến bộ hơn. Phát triển phải gắn liền với
đổi mới. Ðổi mới phải nắm vững quy luật, xu hướng phát triển. Ðổi mới vô
nguyên tắc sẽ dẫn đến chệch hướng, "đổi màu". Kiên định mà không đổi mới,
sáng tạo thì không thể phát triển. Vì vậy, kiên định phải gắn liền với sáng tạo,
đổi mới; sáng tạo, đổi mới phải trên cơ sở kiên định những vấn đề có tính
nguyên tắc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới.
Về tác phong cư xử chính trị chuẩn mực, có văn hóa của cán bộ, đảng viên:
Chính trị có khía cạnh đấu tranh giai cấp, khẳng định địa vị, vai trò lãnh đạo của
giai cấp công nhân mà Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, người đại 13
diện. Ðảng là mỗi chúng ta. Mỗi đảng viên, cán bộ trong sạch, vững mạnh thì
Ðảng trong sạch, vững mạnh. Ðảng mạnh là do cái chất của người đảng viên.
Mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp,
cán bộ cấp chiến lược phải thường xuyên nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị,
nhân cách văn hóa, đạo đức cách mạng, trình độ trí tuệ, phong cách và phương pháp công tác.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Ðảng không chỉ thể hiện ở
đường lối và bản lĩnh chính trị của Ðảng, mà còn thông qua tính chiến đấu của tổ
chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là vai trò tiên phong, gương mẫu,
tinh thần trách nhiệm, tự phê bình và phê bình của người đứng đầu. Xây dựng
Ðảng vững mạnh về chính trị là thực hành dân chủ trong Ðảng, phát huy quyền
làm chủ thật sự của nhân dân trong tham gia xây dựng Ðảng gắn liền với kỷ luật, kỷ cương của Ðảng.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng tư tưởng
3.1. Vai trò xây dựng Đảng về tư tưởng
Góp phần nâng cao vai trò tiên phong của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và cả dân tộc. Để xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc,
Đảng phải làm tốt công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo
đức, trong đó xây dựng Đảng về tư tưởng là vấn đề đặt lên hàng đầu. Tiên phong
về tư tưởng, lý luận là biểu hiện tập trung nhất tính tiên phong của Đảng. Công
tác lý luận của Đảng trong những năm qua đã góp phần cung cấp cơ sở khoa học
cho việc tìm ra những lời giải đáp đúng đắn, kịp thời nhằm giải quyết có hiệu
quả những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Sau 30 năm đổi mới, nhiều vấn đề lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã được làm sáng tỏ hơn. 14
Đây là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân tiếp tục vững tin và củng cố quyết tâm
để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tiên phong về lý luận không chỉ là
yếu tố quyết định tư cách, tính chất của Đảng và vấn đề chất lượng đội ngũ đảng
viên mà còn tác động tới vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng đòi hỏi đảng viên và
cán bộ phải: Học, hiểu lý luận, chính sách, tình hình trong nước và trên thế giới
để giáo dục quần chúng. . Phải nắm vững chính sách của Đảng và của Chính phủ,
đi đúng đường lối quần chúng như thế mới xứng đáng là đảng viên và cán bộ của
Đảng, như thế mới lãnh đạo được quần chúng nhân dân. Trong xây dựng Đảng
về tư tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, phải học tập lý luận Mác-
Lênin. . Đảng cần phải giáo dục và yêu cầu đảng viên ra sức học tập lý luận, mở
rộng tự phê bình và phê bình, đấu tranh với những tư tưởng phi vô sản.
Góp phần thực hiện dân chủ, thống nhất ý chí và hành động trong Đảng
Làm tốt xây dựng Đảng về tư tưởng góp phần thực hiện dân chủ thống nhất ý
chí và hành động trong Đảng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi sự thống
nhất về tư tưởng, về hành động là nguồn sức mạnh to lớn của Đảng. Người
khẳng định: Nếu đảng viên tư tưởng và hành động không nhất trí, thì khác nào
một mớ cắt rời, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Như vậy, thì không thể lãnh
đạo quần chúng, không thể làm cách mạng.
Thực hành dân chủ trong Đảng là chìa khóa giải đáp mọi vướng mắc tư
tưởng của đảng viên nảy sinh, tồn tại trong thực tiễn. Thông qua sinh hoạt đảng,
mọi đảng viên thực hiện tự phê bình và phê bình, phản ánh tâm tư, tình cảm,
những vấn đề còn băn khoăn, vướng mắc. Qua trao đổi, tranh luận, thảo luận đi
đến thống nhất về tư tưởng trong tổ chức đảng, tạo ra sự gắn kết tình đồng chí,
bảo đảm Đảng là một khối thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động.
Góp phần bảo vệ, phát triển hệ tư tưởng của Đảng 15
Ph.Ăngghen cho rằng cuộc đấu tranh giữa các giai cấp với nhau không chỉ
diễn ra trên lĩnh vực kinh tế, chính trị mà trước hết và quan trọng nhất là cuộc
đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Đây là cuộc đấu tranh gay go nhất và
quyết liệt nhất, vì trong cuộc đấu tranh này không chấp nhận thỏa hiệp, hữu
khuynh hay nhân nhượng. Đấu tranh tư tưởng, lý luận mang tính phổ biến, bởi vì
không chỉ có các giai cấp, các chính đảng mà cả những tổ chức tôn giáo cũng
đấu tranh quyết liệt với nhau để khẳng định và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của
mình. Đấu tranh tư tưởng là một tất yếu khách quan của lịch sử để khẳng định sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cùng với hệ tư tưởng của nó. Diễn biến, tính
chất, quy mô các giai đoạn của thời đại… đều tùy thuộc vào diễn biến của cuộc đấu tranh này.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định là nền tảng tư
tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Do đó, đây là một trọng
điểm chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Phản bác lại những luận
điệu xuyên tạc, chống phá của kẻ thù trên mặt trận tư tưởng không có tiếng súng
nhưng lại là cuộc chiến cực kỳ gay go, phức tạp và quyết liệt, đòi hỏi phải có
trình độ lý luận, trình độ trí tuệ cao. Đấu tranh tư tưởng không chỉ nhằm củng cố
vững chắc trận địa tư tưởng hằng ngày, hằng giờ, mà còn có tầm chiến lược, góp
phần quyết định trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, của Nhà nước,
của chế độ; xây dựng và bảo vệ cơ sở lý luận, đường lối cách mạng, xác định
hướng đi và dẫn dắt quần chúng nhân dân; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng; làm thất bại chiến lược “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch.
Khẳng định tính đúng đắn, tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước sự
chống phá, xuyên tạc, bôi nhọ của các thế lực thù địch, phản động. Xây dựng
Đảng về tư tưởng phải làm cho hệ tư tưởng Mác-Lênin được thấm nhuần trong 16
tư tưởng, hành động của mọi cán bộ, đảng viên, phải không ngừng bổ sung, phát
triển lý luận ấy, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng với các thế lực thù
địch, phản động đang tìm cách chống phá Đảng ta trên mặt trận tư tưởng.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nhiệm vụ xây dựng Đảng về tư tưởng
hiện nay là đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với kẻ địch để bảo vệ học
thuyết Mác-Lênin, các nguyên lý khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin đã được
lịch sử thừa nhận, trong đó cần tập trung bảo vệ và phát triển ba học thuyết nền
tảng của chủ nghĩa Mác là học thuyết về giá trị thặng dư, học thuyết về hình thái
kinh tế - xã hội, học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Trong xây dựng Đảng, cần kiên quyết đấu tranh bảo vệ và phát triển các
nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của V.I.Lênin trong điều kiện Đảng cầm
quyền. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng Đảng về tư tưởng là phải
đấu tranh bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, làm
cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là nền tảng tư tưởng
trong Đảng. Xây dựng Đảng về tư tưởng có mặt ở các thời kỳ, các giai đoạn cách
mạng - ngay cả khi chưa nắm chính quyền lẫn khi Đảng cầm quyền. Xây dựng
Đảng về tư tưởng luôn đi trước, đi cùng và đi sau mọi sự kiện, với vai trò đặc
biệt quan trọng trong xây dựng, tổ chức lực lượng và hiện thực hóa cương lĩnh,
đường lối, nghị quyết của Đảng. Xây dựng Đảng về tư tưởng góp phần quyết
định nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm cho Đảng
đủ sức gánh vác trọng trách mà nhân dân giao phó, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
Góp phần dự báo và định hướng tư tưởng trong Đảng
Xây dựng Đảng về tư tưởng là một mặt hoạt động quan trọng trong công tác
xây dựng nội bộ Đảng. Muốn đánh thắng kẻ thù giai cấp thì trước hết và quan
trọng nhất là phải thắng trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Trên lĩnh vực này, hệ tư 17
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định là học thuyết Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh - hệ tư tưởng cách mạng và khoa học – nhân tố đầu tiên đảm
bảo sự thắng lợi của cách mạng. Tuy nhiên, trên thực tế, có chiến thắng được kẻ
thù hay không còn phụ thuộc vào hình thức, phương pháp xây dựng Đảng về tư
tưởng, có làm cho hệ tư tưởng đó giữ vai trò thống trị đời sống tinh thần xã hội
hay không. Điều quan trọng là phải dự báo được những diễn biến tư tưởng trong
Đảng, những âm mưu, thủ đoạn của kẻ địch để có khả năng định hướng tư tưởng trong Đảng.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại,
bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đã kéo theo toàn cầu hóa trên các lĩnh vực khác
của đời sống xã hội, trong đó có thông tin truyền thông. Khi thông tin ngày càng
nhiều, hướng tiếp cận ngày càng đa dạng, tính chất thông tin ngày càng phức
tạp. . sẽ tác động đến đội ngũ cán bộ, đảng viên cả chiều hướng tích cực và tiêu
cực. Trong Đảng có thể hình thành nên những luồng tư tưởng khác nhau, không
thống nhất, thậm chí trái chiều. Vì vậy, cần nắm vững và dự báo diễn biến tư
tưởng trong Đảng một cách chủ động, chính xác, kịp thời để xác định nội dung,
hình thức, phương pháp xây dựng và đấu tranh tư tưởng có hiệu quả.
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã
rút ra những bài học quý giá về công tác dự báo, định hướng tư tưởng: Kinh
nghiệm lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, ở những bước ngoặt của cách
mạng, hoặc khi tình hình thực tiễn diễn biến phức tạp, cần sớm có định hướng
chính trị, tư tưởng. Lúc nào chậm chạp, chập chờn thì tư tưởng một bộ phận
không nhỏ sẽ chao đảo. Trái lại, hễ chớm nở những biểu hiện dao động mà uốn
nắn ngay, nhất là khi bộ chỉ huy của toàn Đảng nhất trí cao, cách xử lý kịp thời
thì toàn Đảng, toàn xã hội sẽ nhanh chóng ổn định tư tưởng.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, do đó mà tư tưởng
của Đảng cũng chính là tư tưởng được phổ biến trong toàn xã hội. Khi tư tưởng 18
trong Đảng được thống nhất, tư tưởng trong xã hội cũng thông suốt, là cơ sở bảo
đảm cho Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng thành công với sự ủng hộ, góp sức của nhân dân.
3.2. Nội dung xây dựng Đảng về tư tưởng
Xây dựng nền tảng tư tưởng của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Xây dựng Đảng về tư
tưởng, trước hết là xây dựng nền tảng tư tưởng của Đảng chính là chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Những vấn đề lý luận về xây dựng Đảng đã được các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đưa ra, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế
thừa, bổ sung, vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh
quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, từ sau sự sụp đổ của mô hình
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch sử dụng chiến lược
“diễn biến hòa bình” tấn công vào Đảng, Nhà nước và chế độ ta, do đó, cần có
sự nghiên cứu, phát triển về mặt lý luận, đồng thời phải kiên định chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục xây dựng vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.
Giáo dục nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên của Đảng
Công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên là một trong những
nội dung quan trọng trong xây dựng Đảng về tư tưởng. Trong Diễn văn khai mạc
lớp học lý luận khóa I Trường Nguyễn Ai Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
“Trong Đảng ta trình độ lý luận còn thấp kém, không ai có thể tự xưng mình là 19