Tiểu luận đề tài tác động của nợ công và thực trạng | Môn Tài chính công

Trong quan điểm nhà nước hiện đại, các nhu cầu không ngừng tăng lên; do đó, nhà nước phải chi tiêu nhiều hơn để đáp ứng các nhu cầu này. Chi tiêu công thường được đáp ứng bằng các khoản thu công thông thường như thuế, nghĩa vụ, phí, thu ngân sách, thu tài sản và doanh nghiệp. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !

lOMoARcPSD| 47879361
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
KHOA
TÀI
CHÍNH CÔNG
lOMoARcPSD| 47879361
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN
Bộ môn: Tài Chính Công
Đề tài: TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG VÀ THỰC TRẠNG
Giảng viên: Trương Minh Tuấn
lớp học phần: 23D1PUF50400202
Danh sách thành viên:
Bùi Thảo My 31211021311
Võ Thuý Ngân 31211021890
Nguyễn Thị Thảo Uyên 31201021907
Bùi Tuấn Kiệt 31211024264
Nguyễn Minh Phú 31211022242
Trần Châu Thanh 31211022254
Lê Nguyễn Trúc Lâm 31191023459
lOMoARcPSD| 47879361
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
TÓM TẮT
Từ xưa đến nay nợ công là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài chính
mỗi quốc gia. Nợ công là khoản vay của nhà nước được dùng để chi tiêu công. Nhắc
đến nợ công, có hai quan điểm trái ngược nhau là:
TÊN
KHOÁ - LỚP
ĐÓNG GÓP
K47 - KNC02
100
%
Võ Thuý Ngân
K47 - KNC02
100
%
Nguyễn Thị Thảo Uyên
K46 - TX001
100
%
Bùi Tuấn Kiệt
K47 - PM001
100
%
Nguyễn Minh Phú
K47 - PM001
100
%
Trần Châu Thanh
K47 - PM001
100
%
Lê Nguyễn Trúc Lâm
K45 - PM001
100
%
lOMoARcPSD| 47879361
(1) Phản đối nợ công: Đại diện cho quan điểm này là Smith và Ricardo. Theo quan
điểm của họ, việc vay mượn có thể được chi tiêu một cách vô trách nhiệm vì
đây là một khoản thu nhập dễ dàng; do đó gây ra sự suy thoái trong hoạt động
của đời sống kinh tế từ đó tạo ra gánh nặng nợ cho thế hệ sau.
(2) Ủng hộ nợ công: Đại diện cho quan điểm này là nếu được duy trì ở một mức
hợp lý, nợ công sẽ giúp kích thích tăng trưởng nhờ làm gia tăng nguồn lực cho
chính phủ, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
Tuỳ theo đặc điểm của nợ công mà nó được phân ra thành nhiều loại khác nhau. Đối
với Việt Nam, nợ công được phân thành ba loại là: nợ chính phủ, nợ được chính phủ
bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương.
Xét về tác động của nợ công lên các khía cạnh của nền kinh tế thì nợ công làm tăng
mức giá chung và gây ra lạm phát và ngược lại lạm phát có thể làm giảm nợ công. Nợ
công có thể ảnh hưởng đến sự phân phối thu nhập, gây ra bất bình đẳng thu nhập giữa
các nhóm thu nhập và giữa các thế hệ; đồng thời làm tăng khoảng cách giàu nghèo của
một quốc gia. Nợ công khiến cho mức đầu tư của một quốc gia giảm đi và mức tiết
kiệm tăng lên. Tuy nhiên, khi xét đến ảnh hưởng của nợ công đến mức độ phát triển
kinh tế thì có ba ý kiến khác nhau là: Nợ công kính thích sự tăng trưởng kinh tế; Nợ
công kiềm hãm sự tăng trưởng kinh tế; Nợ công vừa kích thích vừa kiềm hãm sự tăng
trưởng kinh tế.
Ngoài ra, khi sử dụng nợ công, một đất nước vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức
như: Nền kinh tế rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên ngoài;
Có thể gây căng thẳng, bất ổn về chính trị, xã hội; Có thể bị hạ bậc xếp hạng tín nhiệm
của một đất nước; Phải tránh các “bẫy nợ” của các nước lớn,
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.....................................................................................................1
1. Nợ công là gì?...............................................................................................2
lOMoARcPSD| 47879361
2. Phân loại:......................................................................................................3
2.1 Theo đặc điểm nợ công..........................................................................3
2.1.1 Phân loại nợ công theo kỳ hạn:...........................................................3
2.1.2 Phân loại nợ công theo nguồn lực hình thành:...................................3
2.1.3 Phân loại nợ công dựa trên cơ sở tự nguyện:.....................................4
2.2 Phân loại nợ công theo luật Việt Nam..................................................4
2.2.1 Nợ Chính phủ......................................................................................4
2.2.2 Nợ được Chính phủ bảo lãnh..............................................................4
2.2.3 Nợ chính quyền địa phương................................................................5
2.3 Phân biệt các hình thức vay vốn...........................................................5
2.3.1 Tín dụng dự án và tín dụng chương trình............................................5
2.3.2 Khoản vay có ràng buộc và khoản vay ưu đãi (khoản vay mềm)........6
2.3.3 Các khoản tín dụng hoãn nợ và tái cấp vốn........................................6
3. Tác động của nợ công:.................................................................................7
3.1. Ảnh hưởng của nợ công lên mức giá chung:.......................................7
3.2. Ảnh hưởng của nợ công đến phân phối thu nhập:..............................8
3.2.1. c nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ giữa nợ công và sự phân phối
thu nhập…......................................................................................................8
3.2.2. Nợ công ảnh hưởng đến phân phối thu nhập như thế nào?................9
a. Nợ công ảnh hưởng đến phân phối thu nhập giữa những nhóm thu nhập
lOMoARcPSD| 47879361
khác nhau.......................................................................................................9
b. Nợ công ảnh hưởng đến phân phối thu nhập giữa các thế hệ:................9
3.2.3. Nợ công và phân phối thu nhập ở VN...............................................11
3.3. Ảnh hưởng của nợ công đến mức độ tiết kiệm và đầu tư:.................12
3.3.1. Ảnh hưởng của nợ công đến mức độ đầu tư:....................................12
3.3.2. Ảnh hưởng của nợ công đến mức độ tiết kiệm:.................................12
3.4. Ảnh hưởng của nợ công đến phát triển kinh tế:................................13
3.4.1. Nợ công thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:..............................................15
3.4.2. Nợ công kìm hãm tăng trưởng kinh tế:..............................................16
3.4.3. Nợ công vừa có tác động thúc đẩy lại vừa kìm hãm sự tăng trưởng
kinh tế:.........................................................................................................16
4. Thách thức:................................................................................................17
Mở rộng: Đâu là ngưỡng an toàn đối với nợ công?........................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................22
LỜI NÓI ĐẦU
Nợ công từ xưa đến nay là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài chính mỗi
quốc gia. Từ những nước nghèo nhất ở châu Phi đến những quốc gia đang phát triển
như Việt Nam, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình độ phát triển cao
như Mỹ, Nhật, EU thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử dụng
của chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. Như vậy, nợ công là gì và nợ công
ảnh hưởng như thế nào đến các khía cạnh của một quốc gia? Khi nhắc đến nợ công,
đặc biệt là “nợ”, đa số mọi người lúc nào cũng nghĩ đến những mặt tối, những mặt tiêu
cực của nợ công. Tuy nhiên, có phải lúc nào nợ công cũng chỉ mang lại tiêu cực? Đâu
lOMoARcPSD| 47879361
là mặt tích cực của nợ công? Do đó, bài tiểu luận này sẽ tập trung phân tích tác động
của nợ công cùng với những thách thức của nó lên các khía cạnh của một đất nước.
1
lOMoARcPSD| 47879361
2
1. Nợ công là gì?
Trong quan điểm nhà nước hiện đại, các nhu cầu không ngừng tăng lên; do đó,
nhà nước phải chi tiêu nhiều hơn để đáp ứng các nhu cầu này. Chi tiêu công thường
được đáp ứng bằng các khoản thu công thông thường như thuế, nghĩa vụ, phí, thu ngân
sách, thu tài sản doanh nghiệp, thuế tiền phạt. Tuy nhiên, nhà nước phải đối mặt
với thâm hụt khu vực công do các nguyên nhân như đầu sở hạ tầng lớn, chiến
tranh, tài chính phát triển, thiên tai, khủng hoảng kinh tế, thâm hụt ngân sách, cũng như
chi tiêu công thông thường ngày càng tăng. Để khắc phục tình trạng này, họ tìm đến
việc vay mượn.
Vay mượn lấy tiền hoặc vật giá trị sau này phải hoàn trả lại sau một
khoảng thời gian nhất định. Nợ công bắt buộc nhà nước phải đúng hạn trả cả gốc lẫn lãi
cho bên nắm giữ quyền lợi được xác định trước. Tín dụng công hay nợ công còn được
gọi là nợ chính phủ nghĩa là nợ do chính phủ hay các tổ chức công vay.
Có thời gian các nhà kinh tế học phản đối việc vay nợ công (Smith và Ricardo).
Theo quan điểm của họ, việc vay mượn thđược chi tiêu một ch trách nhiệm
đây một khoản thu nhập dễ dàng; do đó gây ra sự suy thoái trong hoạt động của
đời sống kinh tế. Trong bối cảnh đó, các nhà kinh điển đã chủ trương rằng nếu vốn bị
lãng phí như vậy thì gánh nặng nợ nần được chuyển sang các thế hệ sau do chi tiêu công
kém hiệu quả .Hơn nữa, các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng nợ công là cần thiết trong
một số trường hợp như đầu tưsở hạ tầng lớn và chiến tranh nhưng nhấn mạnh rằng
nó nên được hạn chế và không được lạm dụng.
Các chính sách nợ công trên toàn thế giới đã trải qua các bước ngoặt đặc biệt như
Chiến tranh thế giới thnhất (1914–1918) Đại suy thoái (những năm 1930). Suốt
thời gian đó, John Maynard Keynes đã đề xuất sử dụng nợ công như một khoản tài trợ
chiến tranh cho nước Anh. Với đề xuất này, nợ công đã trở thành một nguồn tài chính
không thể thiếu đối với chính phủ. Điều đó không nghĩa tất cả các quốc gia đều
đồng tình với ý kiến của Keynes. Tuy ncông một nguồn tài chính không thể thiếu
nhưng nó cũng kéo theo chu kỳ lãi, nghèo đói và khủng hoảng. Kết quả vay nợ công để
lOMoARcPSD| 47879361
3
lại gánh nặng lớn trên các thế hệ tiếp theo. Điều này góp phần nâng cao ý kiến của các
nhà kinh tế học cổ điển.
Đặc biệt sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ncông cho thấy sự thay đổi trong
cấu trúc do một mặt c nước bị ảnh hưởng bởi chiến tranh phải tái thiết lập đất nước,
mặt khác, do nhu cầu tài chính của các nước đang phát triển. Sau này, quy trình vay
không còn trong nước nữa đã bắt đầu đạt được một chiều hướng mới bằng
cách thiết lập các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới
(WB), Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC), Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA), Ngân hàng
Đầu tư Châu Âu (EIB) và Ngân hàng Phát triển Hồi giáo (IDB).
Trong qtrình toàn cầu hóa, tính lưu động của vốn ngày càng tăng; cạnh
tranh về mặt tài chính đã nổi lên càng ngày càng gay gắt trên thị trường toàn cầu.Đặc
biệt, các nước đang phát triển đang tìm cách sử dụng nợ công để phát triển nguồn tài
chính bằng cách thu hút các dòng vốn ngắn hạn nước ngoài đến quốc gia mình thông
qua các biện pháp khuyến khích khác nhau (chẳng hạn như thuế thấp, lãi suất cao,
v.v.). Tuy nhiên, cả sự biến động đột ngột trong luân chuyển vốn và các cơ chế khuyến
khích đã kéo các nước đang phát triển vào vòng xoáy nợ nước ngoài.
2. Phân loại:
2.1 Tùy theo đặc điểm của chúng mà nợ công được phân thành nhiều loại khác
nhau
2.1.1 Phân loại nợ công theo kỳ hạn của khoản nợ:
- Nợ ngắn hạn (nợ thả nổi) là các khoản nợ có thời hạn dưới 1 năm. Khoản nợ
này chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu bù đắp thiếu hụt Ngân sách tạm thời.
- Nợ trung hạn là các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.
- Nợ dài hạn là các khoản nợ trên 5 năm. Công cụ dùng để vay dài hạn trái
phiếu chính phủ. Các khoản nợ này được lấy từ thị trường vốn và có lãi suất
cao hơn lãi suất vay ngắn hạn. Nợ dài hạn được phân loại thành nợ khả
năng thu hồi và nợ không thể thu hồi.
2.1.2 Phân loại nợ công theo nguồn lực hình thành:
lOMoARcPSD| 47879361
4
- Vay trong nước (Vay nội bộ) là việc một quốc gia vay mượn từ các nguồn tài
nguyên của chính quốc gia của mình. Khoản vay này không có tác dụng làm
tăng hay giảm thu nhập quốc dân.
- Vay bên ngoài (Vay nước ngoài) các khoản vay được cung cấp từ nước
ngoài phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi vào cuối một thời hạn nhất định. N
nước ngoài làm tăng thu nhập quốc gia khi đi vay ngược lại tác động
làm giảm đến thu nhập quốc gia khi trả nợ.
2.1.3 Phân loại nợ công dựa trên cơ sở tự nguyện: nợ tự nguyện và nợ bắt
buộc:
- Nợ tự nguyện khoản nợ mà chủ ncho nhà nước vay theo ý chí mong
muốn của mình.
- Nợ bắt buộc là các khoản nợ chính phủ vay được bằng cách buộc người dân
phải mua trái phiếu do chính phủ phát hành. Các khoản nợ này được áp dụng
trong thời kỳ chiến tranh, thiên tai hoặc khủng hoảng kinh tế. Bản thân nó,
nó được phân loại thành các khoản nợ do bị ép buộc hoàn toàn, các khoản nợ
do đe dọa ép buộc, các khoản ndo tạo ra các khoản tiết kiệm cần thiết
các khoản nợ phải trả do sự ép buộc về mặt đạo đức.
2.2 Đối với Việt Nam, theo Luật quản lý nợ công (2017) người ta phân loại nợ
công gồm:
2.2.1 Nợ Chính phủ trong cơ cấu nợ công chiếm 80%, bao gồm:
- Nợ do Chính phủ phát hành công cụ nợ, thường là trái phiếu chính phủ;
- Nợ do Chính phủ ký kết thỏa thuận vay trong nước, nước ngoài;
- Nợ của ngân sách trung ương vay từ quỹ dự trữ tài chính của Nhà nước, ngân
quỹ nhà nước, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách.
2.2.2 Nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 19% tổng nợ công, bao gồm:
- Nợ của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh;
- Điển hình như trường hợp Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Nợ do chính
phủ bảo lãnh cho Tập đoàn này đã chiếm hơn 1/3 tổng số nợ cam kết bảo lãnh
lOMoARcPSD| 47879361
5
của Chính phủ. Báo cáo tài chính của EVN cuối năm 2014 cho thấy nợ nước
ngoài của tập đoàn này đã vượt 162.000 tỉ đồng, tương đương 7,2 tỉ USD
- Nợ của ngân hàng chính sách của Nhà nước được Chính phủ bảo lãnh.
2.2.3 Nợ chính quyền địa phương bao gồm:
- Nợ do phát hành trái phiếu chính quyền địa phương;
- Nợ do vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài;
Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) nguồn vốn của nhà tài trnước
ngoài cung cấp cho Nhà nước hoặc Chính phủ Cộng hòa hội chủ nghĩa
Việt Nam để hỗ trợ phát triển, bảo đảm phúc lợi an sinh hội. Cho vay
lại vốn ODA phương thức hỗ trợ vốn của Chính phủ cho các đối tượng
được vay lại (chính quyền địa phương cấp tỉnh, đơn vị sự nghiệp ng lập,
doanh nghiệp) để thực hiện các chương trình, dự án đầu tư.
- Nợ của ngân sách địa phương vay từ ngân hàng chính sách của Nhà nước,
quỹ dự trữ tài chính cấp tỉnh, ngân quỹ nhà nước vay khác theo quy định
của pháp luật về ngân sách nhà nước.
2.3 Phân biệt các hình thức vay vốn
2.3.1 Tín dụng dự án và tín dụng chương trình
- Tín dụng dự án khoản tín dụng được cung cấp nhằm mục đích thực hiện
các dự án đầu trong kế hoạch phát triển của quốc gia. Các quốc gia yêu
cầu tín dụng cung cấp thông tin chi tiết về các dự án cho các quốc gia hoặc
tổ chức scấp tín dụng. Tín dụng dán được công nhận/mở để tài trợ cho
các dự án đủ điều kiện. Do đó, các quốc gia kém phát triển đang phát triển
buộc phải sử dụng các khoản tín dụng trong một khu vực sản xuất, trong khi
các quốc gia hoặc tổ chức chủ nợ có cơ hội kiểm soát các khoản tín dụng của
họ. Hạn chế lớn nhất của các khoản tín dụng này là thời gian chuẩn bị, trình
duyệt và chủ nợ phê duyệt dự án kéo dài, dẫn đến hiệu quả việc sử dụng tín
dụng khó khăn hơn.
lOMoARcPSD| 47879361
6
- Tín dụng chương trình là khoản tín dụng nhận được với mục đích nhập khẩu
nguyên vật liệu, n thành phẩm, thành phẩm phụ tùng thay thế cần thiết
cho các mục tiêu phát triển nói chung. linh hoạt hơn để sử dụng
không được kết nối với bất kỳ dự án nào. Do đó, với sự trợ giúp của các
khoản tín dụng chương trình, các nút thắt nhập khẩu được loại bỏ nền kinh
tế được duy trì trong tình trạng hoạt động. Do đó, đây là khoản tín dụng được
các nước đang phát triển yêu cầu nhiều hơn.
2.3.2 Khoản vay có ràng buộc và khoản vay ưu đãi (khoản vay mềm)
- Khoản vay có ràng buộc chỉ các khoản tín dụng được sử dụng ở các quốc gia
cấp tín dụng. Trong trường hợp y, quốc gia đi vay nợ không có thẩm quyền
chi tiêu khoản tín dụng theo nhu cầu của chính mình. Ngày nay, đặc điểm này
của các khoản vay được tạo ra bởi các nước phát triển để thiết lập hệ thống
hoạt động theo cách lợi cho các nước cho vay. Như vậy, quốc gia chủ n
đã mang lại những lợi thế như thị trường nước ngoài mới, tăng trưởng xuất
khẩu, tăng việc làm, và chuyển giao công nghệ. Xét về quốc gia đi vay, tình
hình cũng không mấy sáng sủa. Quốc gia này phải đối mặt với các thông lệ
làm tăng chi phí thực của khoản vay, chẳng hạn như mua một sản phẩm từ
các chủ nợ với giá đắt hơn nhiều so với giá thị trường thông thường, vận
chuyển hàng hóa qua hthống giao thông của quốc gia chủ nợ và sự đảm bảo
hàng hóa bằng hệ thống bảo hiểm của quốc gia chủ nợ. Do đó, các quốc gia
nhận khoản vay vẫn chịu gánh nặng nợ nần chồng chất.
- Khoản vay mềm khoản tín dụng cho phép các nước đang phát triển sdụng
miễn phí. Do đó, các quốc gia đi vay nợ có thể cung cấp hàng hóa và dịch vụ
cần thiết để phát triển từ thị trường quốc tế theo cách rẻ nhất.
2.3.3 Các khoản tín dụng hoãn nợ và tái cấp vốn
- Hoãn nợ việc hoãn trả khoản một nợ đến thời gian đáo hạn sang ngày khác
để đổi lại lãi suất thấp hơn so với lãi suất ban đầu.
- Tái cấp vốn tín dụng: trả khoản nợ đến ngày đáo hạn bằng cách vay một
khoản nợ mới (từ quốc gia cho vay cũ) để trả khoản nợ cũ. do chính để
lOMoARcPSD| 47879361
7
các quốc gia chủ nợ chấp nhận các khoản tín dụng hoãn nợ và tái cấp vốn là
để họ có thể chấp nhận một số cam kết mới của các quốc gia cho vay. Do đó,
quốc gia chủ nợ có thể chỉ đạo các chính sách kinh tế của quốc gia đi vay sao
cho có lợi cho mình.
3. Tác động của nợ công:
3.1. Ảnh hưởng của nợ công lên mức giá chung:
các ớc đang phát triển, thâm hụt ngân sách thường được tài trợ bằng một giải
pháp hỗn hợp giữa vay trong nước vay nước ngoài. Kết cấu hỗn hợp này phụ thuộc
vào khả ng huy động nguồn vốn trong nước, lãi suất các điều kiện vay nước ngoài.
Trong trường hợp thâm hụt ngân sách được tài trợ bằng vốn vay trong nước (thông
qua việc chính phủ phát hành trái phiếu), khi đó một phần nguồn lực tài chính của nền
kinh tế sẽ được chuyển dịch từ khu vực tư nhân sang khu vực nhà nước. Việc huy động
này sẽ tác động đến thtrường vốn nói chung, làm tăng cầu tín dụng, đẩy lãi suất lên
cao. Lãi suất tăng kéo theo làm tăng chi phí đầu tư, giảm nhu cầu đầu của nền kinh
tế, thdẫn đến “hiệu ứng lấn át” (crowding-out effect) làm ảnh hưởng đáng kể đến
cung hoặc cầu của những yếu tố trong thị trường.
Lạm phát ngược lại ng thể làm giảm nợ công tính trên GDP là do tăng trưởng
GDP hàng năm thì thể khử lạm phát, nhưng con số GDP hay GDP đầu người thì
không. GDP danh nghĩa cả lạm phát thể tăng rất mạnh, dụ một nước có mức
tăng trưởng GDP chỉ 5% nhưng kèm theo lạm phát 10% sẽ chứng kiến GDP danh nghĩa
của mình tăng đến 15%. Trong khi đó con số nợ công sẽ giữ nguyên; nợ mới do lãi
suất còn thấp nên chưa tăng đáng kể. thế tỷ lệ ncông tính trên GDP sẽ giảm
nhanh; lạm phát càng cao, tỷ lệ này càng giảm.
Trong trường hợp thâm hụt được tài trợ bằng vay nước ngoài, tác động kéo lùi đầu
tư có thể được hạn chế, do chính phủ sử dụng các nguồn lực bổ sung từ bên ngoài thay
vì dùng các nguồn lực của khu vực tư nhân trong nước. Việc sử dụng một phần vốn vay
nước ngoài để tài trợ cho thâm hụt ngân sách thể làm giảm bớt căng thẳng trên thị
trường tín dụng trong nước, qua đó giảm bớt các yếu tố bất ổn trong nền kinh tế.
lOMoARcPSD| 47879361
8
Tuy nhiên, vay ớc ngoài lại những tác động khác nguy hại đến nền kinh tế.
Trong thời gian đầu, một dòng ngoại tệ lớn chảy vào trong nước sẽ làm giảm sức ép cân
đối ngoại tệ. Mặc dù sẽ có những tác động nhất định lên tỷ giá hối đoái theo hướng làm
tăng giá đồng nội tệ ảnh hưởng đến cán cân thương mại, song những tác động này
chỉ trong ngắn hạn. Trong trung và dài hạn, việc chính phủ phải cân đối nguồn ngoại tệ
trả nợ gốc lãi sẽ đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng cao, làm giảm giá đồng nội tệ, tăng chi
phí nhập khẩu máy c thiết bị và nguyên liệu (thường chiếm tỷ trọng lớn các nước
đang phát triển), tăng chi phí đầu vào của nền kinh tế, dẫn tới các nguy cơ lạm phát. Tỷ
giá tăng cao sẽ làm chi phí thanh toán nợ trở nên đắt đỏ hơn, càng làm tăng nguy cơ vỡ
nợ, nếu như quy mô nợ vượt quá sức chịu đựng của ngân sách nhà nước.
Xét về mặt này, vay trong ớc an toàn hơn vay nước ngoài, trong trường hợp
gánh nặng nợ trong nước vượt quá khả năng thu ngân sách, chính phủ vẫn n một
phương sách cuối cùng phát hành tiền để trang trải các khoản nợ chấp nhận các
rủi ro về tăng lạm phát, trong khi không thể làm như vậy đối với c khoản nợ nước
ngoài.
3.2. Ảnh hưởng của nợ công đến phân phối thu nhập:
3.2.1. Các nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ giữa nợ công và sự phân phối thu nhập
Đa số các nghiên cứu trong ngoài nước đều chỉ ra được rằng ncông tác
động đến sự bất bình đẳng trong thu nhập thông qua tăng trưởng kinh tế, lãi suất, giá tài
sản, chi tiêu công, thuế,… Một snghiên cứu còn chỉ ra nợ công chính một trong
những nguyên nhân khiến cho tình trạng bất bình đẳng thu nhập ngày càng trở n
nghiêm trọng hơn. Theo nghiên cứu của quan nghiên cứu quốc gia Mỹ (NBER,
2014) thực hiện nghiên cứu trên 44 quốc gia đưa ra kết quả rằng tăng trưởng kinh tế s
giảm trung bình 4% khi nợ công vượt ngưỡng 90% GDP; bên cạnh đó nợ công cũng
gây ra tình trạng thất nghiệp. Kết quả trên cho thấy được khi nợ công tăng lên làm tăng
trưởng của nền kinh tế giảm gây ra tình trạng thất nghiệp từ đó dẫn đến sự bất bình đẳng
trong thu nhập.
Bên cạnh đó cũng một số nghiên cứu chỉ ra được rằng sự bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập cũng có tác động ngược lại đến mức nợ công thông qua tăng trưởng
kinh tế. Nghiên cứu của Lê Quốc Hội (2008) chỉ ra rằng nguyên nhân của bất bình đằng
lOMoARcPSD| 47879361
9
trong phân phối thu nhập là cơ cấu kinh tế, tức là phân phối thu nhập không đều, tham
nhũng, nợ công quá nhiều, nền kinh tế không có hiệu quả, thiếu nguồn lực để trả nợ.
thể kết luận được rằng nợ công sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau nếu không kiểm soát một cách chặt chẽ sẽ dẫn tới gia tăng bất
bình đẳng trong xã hội
Vậy câu hỏi đặt ra bằng cách nào nợ công thể tác động đến sự bất bình đẳng
trong thu nhập?
3.2.2. Nợ công ảnh hưởng đến phân phối thu nhập như thế nào?
a. Nợ công ảnh hưởng đến phân phối thu nhập giữa những nhóm thu nhập khác
nhau
Giả sử chính phtăng nợ công bằng cách phát hành trái phiếu. Vậy đối tượng
nào đối tượng mua trái phiếu chính phủ? Đương nhiên những người thu nhập
từ trung bình đến cao. Vậy câu hỏi thứ hai là chính phải trả nợ bằng cách nào? Nếu
chính phủ trả nợ bằng cách thu thuế thì ở đây sẽ có hai trường hợp nhỏ xảy ra:
- Nếu nguồn trả nợ thuế thu từ nhóm thu nhập trung bình đến cao thì lúc này
sẽ không sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập bởi dòng tiền lúc
này đi ra trở lại cùng một nhóm người (nhóm thu nhập từ trung bình
đến cao)
- Tuy nhiên ngược lại, nếu nợ công được trả bằng thuế thu được từ nhóm thu
nhập thấp, thì có sự chuyển dịch nguồn lực từ nhóm thu nhập thấp sang nhóm
thu nhập cao. Tình trạng này ảnh hưởng đến sự phân phối thu nhập, gây bất
lợi của nhóm thu nhập thấp và càng ngày càng trở nên tệ đi.
b. Nợ công ảnh hưởng đến phân phối thu nhập giữa các thế hệ:
- Mô hình Lerner:
Trong mô hình liên thế hệ của Lerner cũng đã từng đề cập đến vấn đề này như sau:
lOMoARcPSD| 47879361
10
Giả sử dân số gồm ba nhóm người: trẻ, trung niên, già với mức thu nhập cố định như
nhau là 12.000 đô la. Mỗi thế hệ cách nhau 20 tuổi.
Bây gihãy giả sử chính phủ quyết định vay 12.000 đô la để tài trợ cho chi tiêu công.
Số tiền này sẽ được hoàn trả vào cuối năm 2024. Chỉ có nhóm người trẻ và nhóm trung
niên sẵn sàng cho chình phủ vay còn người già thì không, họ không sống đến 20 năm
nữa để nhận lại tiền. Giả sử mỗi nhóm cho vay ½ số tiền. Do đó, chi tiêu của họ sẽ giảm
đi 6.000 đô la trong suốt thời kì từ 2004-2024.
Tuy nhiên, với số tiền thu được từ khoản nợ vay, chính phủ chia đều tổng chi tiêu cho
cả ba nhóm, mỗi nhóm nhận được 4.000 đô la. Đến thời đáo hạn của trái phiếu, thế
hệ già của năm 2004 đã qua đời, còn nhóm trung niên trước đây bây giờ đã già, nhóm
thanh niên trở thành nhóm trung niên và nhóm thế hệ mới ra đời
Lúc này, chính phủ phải chi 12.000 đô la để trả nợ bằng cách thu thuế 4.000 đô la mỗi
người. Và kết quả là nhóm người trẻ và trung niên cũ ( 2004-2024) không tốt hơn cũng
không thiệt hơn. Thế hệ người già cũ chi tiêu nhiều hơn 4.000 đô la còn nhóm người tr
mới. chi tiêu thấp hơn 4.000 đô la. Hay nói cách khác, 4.000 thu nhập của nhóm người
trẻ mới bị chuyển cho nhóm người già điều này gây ra gánh nặng nợ cho thế hệ
sau và gây ra bất bình đẳng trong thu nhập.
Thời gian: 2004 => 2024
Người trẻ
Trung niên
Người già
Thu nhập
đô la
12.000
đô la
12.000
12.000
đô la
-6.000
Chính phủ vay
-6.000
-
Chi tiêu được
chính phủ tài trợ
4.000
4.000
4.000
Thời gian: 2024
Người trẻ (mới)
Trung niên
(
Người trẻ cũ
)
Người già
(
Trung niên cũ
)
Chính phủ tăng
thuế để trả nợ
đô la
-4.000
đô la
-4.000
-4.000
đô la
Chính phủ trả nợ
-
+6.000
+6.000
lOMoARcPSD| 47879361
11
Tuy nhiên Lerner lại bỏ sót một yếu tố quan trọng đối với vấn đề này đó là “tiết kiệm”.
Robert Barro (1974) cho rằng khi chính phủ vay nợ thì nhóm người già nhận thấy con
cháu của họ thiệt hại hơn nên họ sẽ gia tăng thu nhập dưới dạng di sản để lại cho con
cháu với mức bằng khoản tiền đủ để trả tiền thuế tăng thêm thế hệ tương lai phải
chịu. Trong trường hợp này Robert Barro cho rằng với 4.000 thu nhập tăng thêm của
thế hệ người già (cũ) họ sẽ không chi tiêu sẽ để lại phần 4.000 tăng thêm đó cho thế hệ
con cháu (tức thế hệ người trẻ mới) cuối cùng thì kết quả sẽ không thay đổi
thực sự (không có sự tái phân phối thu nhập). Vấn đề này chúng ta sẽ tìm hiểu kĩ hơn ở
phần 3.2. Ảnh hưởng của nợ công đến tiết kiệm và đầu tư.
3.2.3. Nợ công và phân phối thu nhập ở VN
Qui mô và tối độ tăng giảm nợ công có xu hướng tương đồng với sự gia tăng và cải
thiện về bất bình đẳng thu nhập.
Tỉ lệ nợ công của Việt Nam trong những năm gần đây xu hướng giảm dần. Từ
61,4% GDP (năm 2017) xuống còn 58,3% GDP (năm 2018), 55,9% GDP năm 2020 và
đến năm 2021 43,1%. Năm 2022, mức nợ công được dự tính tương đương với năm
2021, khoảng 43 - 44% GDP. Cùng với đó, nợ chính phủ, nợ chính phủ bảo lãnh và nợ
chính quyền địa phương cũng giảm dần. Cụ thể, nợ chính phủ cũng giảm từ 51,7% GDP
năm 2017 xuống còn đến 39,1% GDP năm 2021. Nợ chính phủ bảo lãnh giảm từ 9,1%
GDP năm 2017 xuống 3,8% GDP năm 2021. Nợ chính quyền địa phương năm 2021 chỉ
khoảng 0,6% GDP trong khi năm 2017 bằng 1,1% GDP.
Trong năm 2015, khi ng trưởng kinh tế phục hồi sau giai đoạn chịu ảnh hưởng tiêu
cực của khủng hoảng tài chính năm 2008 nhiều chính sách thúc đẩy tăng trưởng,
chuyển đổi hình tăng trưởng được thực thi, lợi ích trước hết đến với nhóm người
dân không nghèo sau đó mới sự điều chỉnh lại phân phối thu nhập khi hệ số GINI
giảm nhẹ năm 2018 - 2019. Hệ số GINI tiếp tục giảm u trong năm 2020 mức 0,37
chủ yếu là do tăng trưởng kinh tế chậm lại dưới tác động tiêu cực của dịch Covid-19.
Điều này cho thấy sự tương đồng khi trong cùng một giai đoạn nợ công xu
hướng giảm thì hệ số GINI cũng có xu hướng giảm theo.
3.3. Ảnh hưởng của nợ công đến mức độ tiết kiệm và đầu tư:
lOMoARcPSD| 47879361
12
3.3.1. Ảnh hưởng của nợ công đến mức độ đầu tư:
Trong mô hình tân cổ điển, khi chính phủ phát hành trái phiếu. Trái phiếu chính
phủ sẽ thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư nhân. (Nếu không có trái phiếu chính phủ, thay
vì đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì người ta có thể đầu tư vào khu vực tư nhân) Như
vậy việc vay mượn của chính phủ làm giảm vốn đầu của nhân. Điều này còn gọi
là “hiệu ứng lấn át”
Sự lấn át này làm thay đổi lãi suất. Khi nhu cầu vay vốn của chính phgia tăng
thì lãi suất thị trường cũng sẽ tăng theo. Lãi suất tăng thì khu vực nhân sẽ gánh chịu
chi phí đầu tư đắt đỏ hơn và sẽ ít đầu tư hơn. Hình trên cho thấy khi lãi suất tăng lên từ
r
1
lên r
2
thì cầu vốn giảm từ k
1
xuống k
2
. Việc giảm đầu như vậy sẽ khiến cho tăng
trưởng thu nhập quốc dân chậm lại. Như vậy, khi sử dụng nợ cho chi tiêu công, chi phí
thực sự của nó đối với xã hội là sự hi sinh trong khu vực tư nhân.
3.3.2. Ảnh hưởng của nợ công đến mức độ tiết kiệm:
Như đã đề cập phần trên (3.2.2), nợ công ảnh hưởng đến mức độ tiết kiệm (cụ
thể nợ công càng tăng thì mức độ tiết kiệm sẽ tăng theo). Khi nhóm người già nhận
thấy thu nhập của thế hệ trẻ mới giảm đi, họ sẽ tiết kiệm nhiều hơn cho thế hệ trẻ mới.
Tuy nhiên, có ý kiến tranh luận rằng nếu hình Ricardo (tức ý kiến của Robert Barro)
đúng thì vào đầu thập kỉ 80, khi thâm hụt của Mỹ gia tăng đột biến thì tiết kiệm tư nhân
sẽ gia tăng tương ứng. Tuy nhiên, đồng thời với mức độ thâm hụt liên bang tăng thì tiết
kiệm tư nhân lại giảm. Như vậy, điều này chỉ là gợi ý, chưa phải kết luận, có những
yếu tố khác ngoài thâm hụt cũng tác động tới mức tiết kiệm. Thực tế là, theo thuyết
lOMoARcPSD| 47879361
13
thì nhóm người già cũ không phải lúc nào cũng để lại đủ hết 4.000 đô la cho thế hệ trẻ
mới mà có thể họ sẽ sử dụng một ít và phần còn lại họ mới tiết kiệm hoặc họ sẽ sử dụng
hết phần 4.000 đó không để lại cho con cháu (có thể do họ không con cháu
hoặc đời sau). Ví dụ, nếu nhóm người già chỉ sử dụng 400 đô để lại 3.600 đô la. Như
vậy, số tiết kiệm 3.600 đó vẫn không đủ để đắp mức thu nhập sụt giảm 4.000 đô la
của thế hệ trẻ mới. Thực vậy, Berheim (1990) cũng cho rằng kể cả sau khi đã tính đến
những biến số khác thì số tiết kiệm cũng không tăng đủ bằng số tăng của thâm hụt.
3.4. Ảnh hưởng của nợ công đến phát triển kinh tế:
Trở lại câu hỏi đầu bài, liệu có phải là nợ công lúc nào cũng chỉ mang lại tiêu cực
cho nền kinh tế? Như vậy, một nước càng phát triển thì tỉ lệ nợ công càng thấp? Để trả
lời cho các câu hỏi trên, chúng ta cùng phân tích diễn biến ncông các nhóm nước
phân theo thu nhập giai đoạn 2000-2015.
Trong Tạp chí Khoa học Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hoàng Khắc Lịch và ơng
Cẩm Tú đã đưa ra nhận xét như sau: Những nước càng giàu thì tỷ lvay ncàng cao,
cụ thể nhóm thu nhập cao đã chạm mức nợ trung bình 70% GDP năm 2015. Theo WB
(2017), từ thời điểm năm 2007 đến cuối năm 2016, hơn một nửa chính phủ các nước
phát triển và mới nổi có dư nợ tăng lên hơn 10%, thâm hụt ngân sách cũng tăng cao tới
5% tại một phần ba các nước trong khu vực này. Các gói kích cầu kinh tế với tổng s
lOMoARcPSD| 47879361
14
vốn hơn 2,2 nghìn tỷ USD tương đương 4,7% GDP toàn cầu vào cuối năm 2009 càng
khiến thâm hụt ngân sách của nhiều quốc gia tăng vọt. o cùng thời điểm, c nước
thuộc nhóm thu nhập thấp trung bình thấp tỷ lệ nợ trên GDP thấp hơn hẳn - khoảng
45% GDP, xấp xỉ mức thấp nhất của các nước giàu trong giai đoạn 20002015 nhưng có
xu hướng tăng vọt trong hai năm gần đây, tổng nợ ròng tăng mạnh từ mức 184 tỷ USD
năm 2014 lên tới 542 tỷ USD cuối năm 2015.
Như vậy theo như những phân tích cơ bản của Hoàng Khắc Lịch và Dương Cẩm
Tú thì liệu có phải vay nợ càng nhiều thì càng giàu còn nghèo thì vay nợ ít? Không phải
như vậy nợ ng có phải gánh nặng đến sự phát triển kinh tế hay không thì còn
tuỳ vào mục đích sử dụng nợ nữa. Nếu các khoản nợ được sử dụng trong xây dựng,
chẳng hạn như đường sắt, nhà máy điện các dự án thủy lợi, góp phần vào ng
lực sản xuất của nền kinh tế, thì chúng các khoản nợ sản xuất. Bằng cách này, các
khoản nợ sản xuất cung cấp một dòng thu nhập liên tục cho nhà nước.
Nhà nước chi trả stiền lãi nợ gốc từ nguồn thu của các dự án y. Nếu các khoản
nợ được sử dụng trong các lĩnh vực như chiến tranh, cứu trợ nạn đói, các dịch vụ xã hội,
v.v. Nhà nước thường trả lãi và nợ gốc từ thuế; do đó, những khoản nợ này gánh nặng
cho xã hội. Nếu nợ công được dùng để phát triển kinh tế bằng các khoản đầu tư vào cơ
sở hạ tầng (như đập, đường, cảng, khai thác mỏ, nông nghiệp), chúng sẽ làm tăng các
khoản đầu mới thông qua hiệu ứng cấp số nhân. Kết quả là thu nhập quốc dân việc
làm tăng lên; và theo đó phát triển kinh tế được đảm bảo.
Ngày nay, các ớc kém phát triển đang phát triển, những nước nỗ lực phát
triển, phải vay nợ bên ngoài do không đủ nguồn lực nội bộ. Hay nói cách khác, nếu sử
dụng đúng cách, nợ ng sẽ làm gia tăng nguồn lực cho nhà ớc. Nợ công giúp tăng
cường nguồn vốn phát triển sở hạ tầng tăng khả năng đầu đồng bộ của Nhà
nước. Nếu có được chính sách huy động nợ công một cách hợp thì nhu cầu về vốn sẽ
từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó giúp gia tăng năng lực sản xuất
cho nền kinh tế.
Nhắc đến quan hệ giữa nợ công phát triển kinh tế thì hiện nay có ba quan niệm
cơ bản về tác động của nợ công tới tăng trưởng kinh tế, gồm: (1) Nợ công thúc đẩy tăng
| 1/28

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47879361
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
KHOA TÀI CHÍNH CÔNG lOMoAR cPSD| 47879361
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH TIỂU LUẬN
Bộ môn: Tài Chính Công
Đề tài: TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG VÀ THỰC TRẠNG
Giảng viên: Trương Minh Tuấn
lớp học phần: 23D1PUF50400202
Danh sách thành viên: Bùi Thảo My 31211021311 Võ Thuý Ngân 31211021890 Nguyễn Thị Thảo Uyên 31201021907 Bùi Tuấn Kiệt 31211024264 Nguyễn Minh Phú 31211022242 Trần Châu Thanh 31211022254 Lê Nguyễn Trúc Lâm 31191023459 lOMoAR cPSD| 47879361
DANH SÁCH THÀNH VIÊN TÊN KHOÁ - LỚP ĐÓNG GÓP Bùi Thảo My K47 - KNC02 100 % Võ Thuý Ngân K47 - KNC02 100 % Nguyễn Thị Thảo Uyên K46 - TX001 100 % Bùi Tuấn Kiệt K47 - PM001 100 % Nguyễn Minh Phú K47 - PM001 100 % Trần Châu Thanh K47 - PM001 100 % Lê Nguyễn Trúc Lâm K45 - PM001 100 % TÓM TẮT
Từ xưa đến nay nợ công là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài chính
mỗi quốc gia. Nợ công là khoản vay của nhà nước được dùng để chi tiêu công. Nhắc
đến nợ công, có hai quan điểm trái ngược nhau là: lOMoAR cPSD| 47879361
(1) Phản đối nợ công: Đại diện cho quan điểm này là Smith và Ricardo. Theo quan
điểm của họ, việc vay mượn có thể được chi tiêu một cách vô trách nhiệm vì
đây là một khoản thu nhập dễ dàng; do đó gây ra sự suy thoái trong hoạt động
của đời sống kinh tế từ đó tạo ra gánh nặng nợ cho thế hệ sau.
(2) Ủng hộ nợ công: Đại diện cho quan điểm này là nếu được duy trì ở một mức
hợp lý, nợ công sẽ giúp kích thích tăng trưởng nhờ làm gia tăng nguồn lực cho
chính phủ, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
Tuỳ theo đặc điểm của nợ công mà nó được phân ra thành nhiều loại khác nhau. Đối
với Việt Nam, nợ công được phân thành ba loại là: nợ chính phủ, nợ được chính phủ
bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương.
Xét về tác động của nợ công lên các khía cạnh của nền kinh tế thì nợ công làm tăng
mức giá chung và gây ra lạm phát và ngược lại lạm phát có thể làm giảm nợ công. Nợ
công có thể ảnh hưởng đến sự phân phối thu nhập, gây ra bất bình đẳng thu nhập giữa
các nhóm thu nhập và giữa các thế hệ; đồng thời làm tăng khoảng cách giàu nghèo của
một quốc gia. Nợ công khiến cho mức đầu tư của một quốc gia giảm đi và mức tiết
kiệm tăng lên. Tuy nhiên, khi xét đến ảnh hưởng của nợ công đến mức độ phát triển
kinh tế thì có ba ý kiến khác nhau là: Nợ công kính thích sự tăng trưởng kinh tế; Nợ
công kiềm hãm sự tăng trưởng kinh tế; Nợ công vừa kích thích vừa kiềm hãm sự tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, khi sử dụng nợ công, một đất nước vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức
như: Nền kinh tế rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên ngoài;
Có thể gây căng thẳng, bất ổn về chính trị, xã hội; Có thể bị hạ bậc xếp hạng tín nhiệm
của một đất nước; Phải tránh các “bẫy nợ” của các nước lớn,… MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.....................................................................................................1
1. Nợ công là gì?...............................................................................................2 lOMoAR cPSD| 47879361
2. Phân loại:......................................................................................................3 2.1
Theo đặc điểm nợ công..........................................................................3
2.1.1 Phân loại nợ công theo kỳ hạn:...........................................................3
2.1.2 Phân loại nợ công theo nguồn lực hình thành:...................................3
2.1.3 Phân loại nợ công dựa trên cơ sở tự nguyện:.....................................4 2.2
Phân loại nợ công theo luật Việt Nam..................................................4
2.2.1 Nợ Chính phủ......................................................................................4
2.2.2 Nợ được Chính phủ bảo lãnh..............................................................4
2.2.3 Nợ chính quyền địa phương................................................................5 2.3
Phân biệt các hình thức vay vốn...........................................................5
2.3.1 Tín dụng dự án và tín dụng chương trình............................................5
2.3.2 Khoản vay có ràng buộc và khoản vay ưu đãi (khoản vay mềm)........6
2.3.3 Các khoản tín dụng hoãn nợ và tái cấp vốn........................................6
3. Tác động của nợ công:.................................................................................7
3.1. Ảnh hưởng của nợ công lên mức giá chung:.......................................7
3.2. Ảnh hưởng của nợ công đến phân phối thu nhập:..............................8
3.2.1. Các nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ giữa nợ công và sự phân phối
thu nhập…......................................................................................................8
3.2.2. Nợ công ảnh hưởng đến phân phối thu nhập như thế nào?................9
a. Nợ công ảnh hưởng đến phân phối thu nhập giữa những nhóm thu nhập lOMoAR cPSD| 47879361
khác nhau.......................................................................................................9
b. Nợ công ảnh hưởng đến phân phối thu nhập giữa các thế hệ:................9
3.2.3. Nợ công và phân phối thu nhập ở VN...............................................11
3.3. Ảnh hưởng của nợ công đến mức độ tiết kiệm và đầu tư:.................12
3.3.1. Ảnh hưởng của nợ công đến mức độ đầu tư:....................................12
3.3.2. Ảnh hưởng của nợ công đến mức độ tiết kiệm:.................................12
3.4. Ảnh hưởng của nợ công đến phát triển kinh tế:................................13
3.4.1. Nợ công thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:..............................................15
3.4.2. Nợ công kìm hãm tăng trưởng kinh tế:..............................................16
3.4.3. Nợ công vừa có tác động thúc đẩy lại vừa kìm hãm sự tăng trưởng
kinh tế:.........................................................................................................16
4. Thách thức:................................................................................................17
Mở rộng: Đâu là ngưỡng an toàn đối với nợ công?........................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................22 LỜI NÓI ĐẦU
Nợ công từ xưa đến nay là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài chính mỗi
quốc gia. Từ những nước nghèo nhất ở châu Phi đến những quốc gia đang phát triển
như Việt Nam, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình độ phát triển cao
như Mỹ, Nhật, EU thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử dụng
của chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. Như vậy, nợ công là gì và nợ công có
ảnh hưởng như thế nào đến các khía cạnh của một quốc gia? Khi nhắc đến nợ công,
đặc biệt là “nợ”, đa số mọi người lúc nào cũng nghĩ đến những mặt tối, những mặt tiêu
cực của nợ công. Tuy nhiên, có phải lúc nào nợ công cũng chỉ mang lại tiêu cực? Đâu lOMoAR cPSD| 47879361
là mặt tích cực của nợ công? Do đó, bài tiểu luận này sẽ tập trung phân tích tác động
của nợ công cùng với những thách thức của nó lên các khía cạnh của một đất nước. 1 lOMoAR cPSD| 47879361 1. Nợ công là gì?
Trong quan điểm nhà nước hiện đại, các nhu cầu không ngừng tăng lên; do đó,
nhà nước phải chi tiêu nhiều hơn để đáp ứng các nhu cầu này. Chi tiêu công thường
được đáp ứng bằng các khoản thu công thông thường như thuế, nghĩa vụ, phí, thu ngân
sách, thu tài sản và doanh nghiệp, thuế và tiền phạt. Tuy nhiên, nhà nước phải đối mặt
với thâm hụt khu vực công do các nguyên nhân như đầu tư cơ sở hạ tầng lớn, chiến
tranh, tài chính phát triển, thiên tai, khủng hoảng kinh tế, thâm hụt ngân sách, cũng như
chi tiêu công thông thường ngày càng tăng. Để khắc phục tình trạng này, họ tìm đến việc vay mượn.
Vay mượn là lấy tiền hoặc vật có giá trị mà sau này phải hoàn trả lại sau một
khoảng thời gian nhất định. Nợ công bắt buộc nhà nước phải đúng hạn trả cả gốc lẫn lãi
cho bên nắm giữ quyền lợi được xác định trước. Tín dụng công hay nợ công còn được
gọi là nợ chính phủ nghĩa là nợ do chính phủ hay các tổ chức công vay.
Có thời gian các nhà kinh tế học phản đối việc vay nợ công (Smith và Ricardo).
Theo quan điểm của họ, việc vay mượn có thể được chi tiêu một cách vô trách nhiệm
vì đây là một khoản thu nhập dễ dàng; do đó gây ra sự suy thoái trong hoạt động của
đời sống kinh tế. Trong bối cảnh đó, các nhà kinh điển đã chủ trương rằng nếu vốn bị
lãng phí như vậy thì gánh nặng nợ nần được chuyển sang các thế hệ sau do chi tiêu công
kém hiệu quả .Hơn nữa, các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng nợ công là cần thiết trong
một số trường hợp như đầu tư cơ sở hạ tầng lớn và chiến tranh nhưng nhấn mạnh rằng
nó nên được hạn chế và không được lạm dụng.
Các chính sách nợ công trên toàn thế giới đã trải qua các bước ngoặt đặc biệt như
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914–1918) và Đại suy thoái (những năm 1930). Suốt
thời gian đó, John Maynard Keynes đã đề xuất sử dụng nợ công như một khoản tài trợ
chiến tranh cho nước Anh. Với đề xuất này, nợ công đã trở thành một nguồn tài chính
không thể thiếu đối với chính phủ. Điều đó không có nghĩa là tất cả các quốc gia đều
đồng tình với ý kiến của Keynes. Tuy nợ công là một nguồn tài chính không thể thiếu
nhưng nó cũng kéo theo chu kỳ lãi, nghèo đói và khủng hoảng. Kết quả vay nợ công để 2 lOMoAR cPSD| 47879361
lại gánh nặng lớn trên các thế hệ tiếp theo. Điều này góp phần nâng cao ý kiến của các
nhà kinh tế học cổ điển.
Đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nợ công cho thấy sự thay đổi trong
cấu trúc do một mặt các nước bị ảnh hưởng bởi chiến tranh phải tái thiết lập đất nước,
mặt khác, do nhu cầu tài chính của các nước đang phát triển. Sau này, quy trình vay
không còn gò bó trong nước nữa và đã bắt đầu đạt được một chiều hướng mới bằng
cách thiết lập các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới
(WB), Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC), Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA), Ngân hàng
Đầu tư Châu Âu (EIB) và Ngân hàng Phát triển Hồi giáo (IDB).
Trong quá trình toàn cầu hóa, tính lưu động của vốn ngày càng tăng; và cạnh
tranh về mặt tài chính đã nổi lên càng ngày càng gay gắt trên thị trường toàn cầu.Đặc
biệt, các nước đang phát triển đang tìm cách sử dụng nợ công để phát triển nguồn tài
chính bằng cách thu hút các dòng vốn ngắn hạn nước ngoài đến quốc gia mình thông
qua các biện pháp khuyến khích khác nhau (chẳng hạn như thuế thấp, lãi suất cao,
v.v.). Tuy nhiên, cả sự biến động đột ngột trong luân chuyển vốn và các cơ chế khuyến
khích đã kéo các nước đang phát triển vào vòng xoáy nợ nước ngoài. 2. Phân loại:
2.1 Tùy theo đặc điểm của chúng mà nợ công được phân thành nhiều loại khác nhau
2.1.1 Phân loại nợ công theo kỳ hạn của khoản nợ:
- Nợ ngắn hạn (nợ thả nổi) là các khoản nợ có thời hạn dưới 1 năm. Khoản nợ
này chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu bù đắp thiếu hụt Ngân sách tạm thời.
- Nợ trung hạn là các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.
- Nợ dài hạn là các khoản nợ trên 5 năm. Công cụ dùng để vay dài hạn là trái
phiếu chính phủ. Các khoản nợ này được lấy từ thị trường vốn và có lãi suất
cao hơn lãi suất vay ngắn hạn. Nợ dài hạn được phân loại thành nợ có khả
năng thu hồi và nợ không thể thu hồi.
2.1.2 Phân loại nợ công theo nguồn lực hình thành: 3 lOMoAR cPSD| 47879361
- Vay trong nước (Vay nội bộ) là việc một quốc gia vay mượn từ các nguồn tài
nguyên của chính quốc gia của mình. Khoản vay này không có tác dụng làm
tăng hay giảm thu nhập quốc dân.
- Vay bên ngoài (Vay nước ngoài) là các khoản vay được cung cấp từ nước
ngoài và phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi vào cuối một thời hạn nhất định. Nợ
nước ngoài làm tăng thu nhập quốc gia khi đi vay và ngược lại có tác động
làm giảm đến thu nhập quốc gia khi trả nợ.
2.1.3 Phân loại nợ công dựa trên cơ sở tự nguyện: nợ tự nguyện và nợ bắt buộc:
- Nợ tự nguyện là khoản nợ mà chủ nợ cho nhà nước vay theo ý chí và mong muốn của mình.
- Nợ bắt buộc là các khoản nợ chính phủ vay được bằng cách buộc người dân
phải mua trái phiếu do chính phủ phát hành. Các khoản nợ này được áp dụng
trong thời kỳ chiến tranh, thiên tai hoặc khủng hoảng kinh tế. Bản thân nó,
nó được phân loại thành các khoản nợ do bị ép buộc hoàn toàn, các khoản nợ
do đe dọa ép buộc, các khoản nợ do tạo ra các khoản tiết kiệm cần thiết và
các khoản nợ phải trả do sự ép buộc về mặt đạo đức.
2.2 Đối với Việt Nam, theo Luật quản lý nợ công (2017) người ta phân loại nợ công gồm:
2.2.1 Nợ Chính phủ trong cơ cấu nợ công chiếm 80%, bao gồm:
- Nợ do Chính phủ phát hành công cụ nợ, thường là trái phiếu chính phủ;
- Nợ do Chính phủ ký kết thỏa thuận vay trong nước, nước ngoài;
- Nợ của ngân sách trung ương vay từ quỹ dự trữ tài chính của Nhà nước, ngân
quỹ nhà nước, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách.
2.2.2 Nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 19% tổng nợ công, bao gồm:
- Nợ của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh;
- Điển hình như trường hợp Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Nợ do chính
phủ bảo lãnh cho Tập đoàn này đã chiếm hơn 1/3 tổng số nợ cam kết bảo lãnh 4 lOMoAR cPSD| 47879361
của Chính phủ. Báo cáo tài chính của EVN cuối năm 2014 cho thấy nợ nước
ngoài của tập đoàn này đã vượt 162.000 tỉ đồng, tương đương 7,2 tỉ USD
- Nợ của ngân hàng chính sách của Nhà nước được Chính phủ bảo lãnh.
2.2.3 Nợ chính quyền địa phương bao gồm:
- Nợ do phát hành trái phiếu chính quyền địa phương;
- Nợ do vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài;
Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là nguồn vốn của nhà tài trợ nước
ngoài cung cấp cho Nhà nước hoặc Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam để hỗ trợ phát triển, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội. Cho vay
lại vốn ODA là phương thức hỗ trợ vốn của Chính phủ cho các đối tượng
được vay lại (chính quyền địa phương cấp tỉnh, đơn vị sự nghiệp công lập,
doanh nghiệp) để thực hiện các chương trình, dự án đầu tư.
- Nợ của ngân sách địa phương vay từ ngân hàng chính sách của Nhà nước,
quỹ dự trữ tài chính cấp tỉnh, ngân quỹ nhà nước và vay khác theo quy định
của pháp luật về ngân sách nhà nước. 2.3
Phân biệt các hình thức vay vốn
2.3.1 Tín dụng dự án và tín dụng chương trình
- Tín dụng dự án là khoản tín dụng được cung cấp nhằm mục đích thực hiện
các dự án đầu tư trong kế hoạch phát triển của quốc gia. Các quốc gia yêu
cầu tín dụng cung cấp thông tin chi tiết về các dự án cho các quốc gia hoặc
tổ chức sẽ cấp tín dụng. Tín dụng dự án được công nhận/mở để tài trợ cho
các dự án đủ điều kiện. Do đó, các quốc gia kém phát triển và đang phát triển
buộc phải sử dụng các khoản tín dụng trong một khu vực sản xuất, trong khi
các quốc gia hoặc tổ chức chủ nợ có cơ hội kiểm soát các khoản tín dụng của
họ. Hạn chế lớn nhất của các khoản tín dụng này là thời gian chuẩn bị, trình
duyệt và chủ nợ phê duyệt dự án kéo dài, dẫn đến hiệu quả việc sử dụng tín dụng khó khăn hơn. 5 lOMoAR cPSD| 47879361
- Tín dụng chương trình là khoản tín dụng nhận được với mục đích nhập khẩu
nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm và phụ tùng thay thế cần thiết
cho các mục tiêu phát triển nói chung. Nó linh hoạt hơn để sử dụng vì nó
không được kết nối với bất kỳ dự án nào. Do đó, với sự trợ giúp của các
khoản tín dụng chương trình, các nút thắt nhập khẩu được loại bỏ và nền kinh
tế được duy trì trong tình trạng hoạt động. Do đó, đây là khoản tín dụng được
các nước đang phát triển yêu cầu nhiều hơn.
2.3.2 Khoản vay có ràng buộc và khoản vay ưu đãi (khoản vay mềm)
- Khoản vay có ràng buộc chỉ các khoản tín dụng được sử dụng ở các quốc gia
cấp tín dụng. Trong trường hợp này, quốc gia đi vay nợ không có thẩm quyền
chi tiêu khoản tín dụng theo nhu cầu của chính mình. Ngày nay, đặc điểm này
của các khoản vay được tạo ra bởi các nước phát triển để thiết lập hệ thống
hoạt động theo cách có lợi cho các nước cho vay. Như vậy, quốc gia chủ nợ
đã mang lại những lợi thế như thị trường nước ngoài mới, tăng trưởng xuất
khẩu, tăng việc làm, và chuyển giao công nghệ. Xét về quốc gia đi vay, tình
hình cũng không mấy sáng sủa. Quốc gia này phải đối mặt với các thông lệ
làm tăng chi phí thực của khoản vay, chẳng hạn như mua một sản phẩm từ
các chủ nợ với giá đắt hơn nhiều so với giá thị trường thông thường, vận
chuyển hàng hóa qua hệ thống giao thông của quốc gia chủ nợ và sự đảm bảo
hàng hóa bằng hệ thống bảo hiểm của quốc gia chủ nợ. Do đó, các quốc gia
nhận khoản vay vẫn chịu gánh nặng nợ nần chồng chất.
- Khoản vay mềm là khoản tín dụng cho phép các nước đang phát triển sử dụng
miễn phí. Do đó, các quốc gia đi vay nợ có thể cung cấp hàng hóa và dịch vụ
cần thiết để phát triển từ thị trường quốc tế theo cách rẻ nhất.
2.3.3 Các khoản tín dụng hoãn nợ và tái cấp vốn
- Hoãn nợ là việc hoãn trả khoản một nợ đến thời gian đáo hạn sang ngày khác
để đổi lại lãi suất thấp hơn so với lãi suất ban đầu.
- Tái cấp vốn tín dụng: là trả khoản nợ đến ngày đáo hạn bằng cách vay một
khoản nợ mới (từ quốc gia cho vay cũ) để trả khoản nợ cũ. Lý do chính để 6 lOMoAR cPSD| 47879361
các quốc gia chủ nợ chấp nhận các khoản tín dụng hoãn nợ và tái cấp vốn là
để họ có thể chấp nhận một số cam kết mới của các quốc gia cho vay. Do đó,
quốc gia chủ nợ có thể chỉ đạo các chính sách kinh tế của quốc gia đi vay sao cho có lợi cho mình.
3. Tác động của nợ công:
3.1. Ảnh hưởng của nợ công lên mức giá chung:
Ở các nước đang phát triển, thâm hụt ngân sách thường được tài trợ bằng một giải
pháp hỗn hợp giữa vay trong nước và vay nước ngoài. Kết cấu hỗn hợp này phụ thuộc
vào khả năng huy động nguồn vốn trong nước, lãi suất và các điều kiện vay nước ngoài.
Trong trường hợp thâm hụt ngân sách được tài trợ bằng vốn vay trong nước (thông
qua việc chính phủ phát hành trái phiếu), khi đó một phần nguồn lực tài chính của nền
kinh tế sẽ được chuyển dịch từ khu vực tư nhân sang khu vực nhà nước. Việc huy động
này sẽ tác động đến thị trường vốn nói chung, làm tăng cầu tín dụng, đẩy lãi suất lên
cao. Lãi suất tăng kéo theo làm tăng chi phí đầu tư, giảm nhu cầu đầu tư của nền kinh
tế, có thể dẫn đến “hiệu ứng lấn át” (crowding-out effect) làm ảnh hưởng đáng kể đến
cung hoặc cầu của những yếu tố trong thị trường.
Lạm phát ngược lại cũng có thể làm giảm nợ công tính trên GDP là do tăng trưởng
GDP hàng năm thì có thể khử lạm phát, nhưng con số GDP hay GDP đầu người thì
không. GDP danh nghĩa có cả lạm phát có thể tăng rất mạnh, ví dụ một nước có mức
tăng trưởng GDP chỉ 5% nhưng kèm theo lạm phát 10% sẽ chứng kiến GDP danh nghĩa
của mình tăng đến 15%. Trong khi đó con số nợ công cũ sẽ giữ nguyên; nợ mới do lãi
suất còn thấp nên chưa tăng gì đáng kể. Vì thế tỷ lệ nợ công tính trên GDP sẽ giảm
nhanh; lạm phát càng cao, tỷ lệ này càng giảm.
Trong trường hợp thâm hụt được tài trợ bằng vay nước ngoài, tác động kéo lùi đầu
tư có thể được hạn chế, do chính phủ sử dụng các nguồn lực bổ sung từ bên ngoài thay
vì dùng các nguồn lực của khu vực tư nhân trong nước. Việc sử dụng một phần vốn vay
nước ngoài để tài trợ cho thâm hụt ngân sách có thể làm giảm bớt căng thẳng trên thị
trường tín dụng trong nước, qua đó giảm bớt các yếu tố bất ổn trong nền kinh tế. 7 lOMoAR cPSD| 47879361
Tuy nhiên, vay nước ngoài lại có những tác động khác nguy hại đến nền kinh tế.
Trong thời gian đầu, một dòng ngoại tệ lớn chảy vào trong nước sẽ làm giảm sức ép cân
đối ngoại tệ. Mặc dù sẽ có những tác động nhất định lên tỷ giá hối đoái theo hướng làm
tăng giá đồng nội tệ và ảnh hưởng đến cán cân thương mại, song những tác động này
chỉ trong ngắn hạn. Trong trung và dài hạn, việc chính phủ phải cân đối nguồn ngoại tệ
trả nợ gốc và lãi sẽ đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng cao, làm giảm giá đồng nội tệ, tăng chi
phí nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên liệu (thường chiếm tỷ trọng lớn ở các nước
đang phát triển), tăng chi phí đầu vào của nền kinh tế, dẫn tới các nguy cơ lạm phát. Tỷ
giá tăng cao sẽ làm chi phí thanh toán nợ trở nên đắt đỏ hơn, càng làm tăng nguy cơ vỡ
nợ, nếu như quy mô nợ vượt quá sức chịu đựng của ngân sách nhà nước.
Xét về mặt này, vay trong nước an toàn hơn vay nước ngoài, vì trong trường hợp
gánh nặng nợ trong nước vượt quá khả năng thu ngân sách, chính phủ vẫn còn một
phương sách cuối cùng là phát hành tiền để trang trải các khoản nợ và chấp nhận các
rủi ro về tăng lạm phát, trong khi không thể làm như vậy đối với các khoản nợ nước ngoài.
3.2. Ảnh hưởng của nợ công đến phân phối thu nhập:
3.2.1. Các nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ giữa nợ công và sự phân phối thu nhập
Đa số các nghiên cứu ở trong và ngoài nước đều chỉ ra được rằng nợ công có tác
động đến sự bất bình đẳng trong thu nhập thông qua tăng trưởng kinh tế, lãi suất, giá tài
sản, chi tiêu công, thuế,… Một số nghiên cứu còn chỉ ra nợ công chính là một trong
những nguyên nhân khiến cho tình trạng bất bình đẳng thu nhập ngày càng trở nên
nghiêm trọng hơn. Theo nghiên cứu của Cơ quan nghiên cứu quốc gia Mỹ (NBER,
2014) thực hiện nghiên cứu trên 44 quốc gia đưa ra kết quả rằng tăng trưởng kinh tế sẽ
giảm trung bình 4% khi nợ công vượt ngưỡng 90% GDP; bên cạnh đó nợ công cũng
gây ra tình trạng thất nghiệp. Kết quả trên cho thấy được khi nợ công tăng lên làm tăng
trưởng của nền kinh tế giảm gây ra tình trạng thất nghiệp từ đó dẫn đến sự bất bình đẳng trong thu nhập.
Bên cạnh đó cũng có một số nghiên cứu chỉ ra được rằng sự bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập cũng có tác động ngược lại đến mức nợ công thông qua tăng trưởng
kinh tế. Nghiên cứu của Lê Quốc Hội (2008) chỉ ra rằng nguyên nhân của bất bình đằng 8 lOMoAR cPSD| 47879361
trong phân phối thu nhập là cơ cấu kinh tế, tức là phân phối thu nhập không đều, tham
nhũng, nợ công quá nhiều, nền kinh tế không có hiệu quả, thiếu nguồn lực để trả nợ. Có
thể kết luận được rằng nợ công và sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập có ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau nếu không kiểm soát một cách chặt chẽ sẽ dẫn tới gia tăng bất bình đẳng trong xã hội
Vậy câu hỏi đặt ra là bằng cách nào mà nợ công có thể tác động đến sự bất bình đẳng trong thu nhập?
3.2.2. Nợ công ảnh hưởng đến phân phối thu nhập như thế nào?
a. Nợ công ảnh hưởng đến phân phối thu nhập giữa những nhóm thu nhập khác nhau
Giả sử chính phủ tăng nợ công bằng cách phát hành trái phiếu. Vậy đối tượng
nào là đối tượng mua trái phiếu chính phủ? Đương nhiên là những người có thu nhập
từ trung bình đến cao. Vậy câu hỏi thứ hai là chính phải trả nợ bằng cách nào? Nếu
chính phủ trả nợ bằng cách thu thuế thì ở đây sẽ có hai trường hợp nhỏ xảy ra:
- Nếu nguồn trả nợ là thuế thu từ nhóm thu nhập trung bình đến cao thì lúc này
sẽ không có sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập bởi vì dòng tiền lúc
này đi ra và trở lại cùng một nhóm người (nhóm có thu nhập từ trung bình đến cao)
- Tuy nhiên ngược lại, nếu nợ công được trả bằng thuế thu được từ nhóm thu
nhập thấp, thì có sự chuyển dịch nguồn lực từ nhóm thu nhập thấp sang nhóm
thu nhập cao. Tình trạng này ảnh hưởng đến sự phân phối thu nhập, gây bất
lợi của nhóm thu nhập thấp và càng ngày càng trở nên tệ đi.
b. Nợ công ảnh hưởng đến phân phối thu nhập giữa các thế hệ: - Mô hình Lerner:
Trong mô hình liên thế hệ của Lerner cũng đã từng đề cập đến vấn đề này như sau: 9 lOMoAR cPSD| 47879361 Thời gian: 2004 => 2024 Người trẻ Trung niên Người già Thu nhập 12.000 đô la 12.000 đô la 12.000 đô la Chính phủ vay -6.000 -6.000 - Chi tiêu được 4.000 4.000 4.000 chính phủ tài trợ
Giả sử dân số gồm có ba nhóm người: trẻ, trung niên, già với mức thu nhập cố định như
nhau là 12.000 đô la. Mỗi thế hệ cách nhau 20 tuổi.
Bây giờ hãy giả sử chính phủ quyết định vay 12.000 đô la để tài trợ cho chi tiêu công.
Số tiền này sẽ được hoàn trả vào cuối năm 2024. Chỉ có nhóm người trẻ và nhóm trung
niên sẵn sàng cho chình phủ vay còn người già thì không, vì họ không sống đến 20 năm
nữa để nhận lại tiền. Giả sử mỗi nhóm cho vay ½ số tiền. Do đó, chi tiêu của họ sẽ giảm
đi 6.000 đô la trong suốt thời kì từ 2004-2024.
Tuy nhiên, với số tiền thu được từ khoản nợ vay, chính phủ chia đều tổng chi tiêu cho
cả ba nhóm, mỗi nhóm nhận được 4.000 đô la. Đến thời kì đáo hạn của trái phiếu, thế
hệ già của năm 2004 đã qua đời, còn nhóm trung niên trước đây bây giờ đã già, nhóm
thanh niên trở thành nhóm trung niên và nhóm thế hệ mới ra đời Thời gian: 2024 Người trẻ (mới) Trung niên Người già ( Người trẻ cũ ) ( Trung niên cũ ) Chính phủ tăng -4.000 đô la -4.000 đô la -4.000 đô la thuế để trả nợ Chính phủ trả nợ - +6.000 +6.000
Lúc này, chính phủ phải chi 12.000 đô la để trả nợ bằng cách thu thuế 4.000 đô la mỗi
người. Và kết quả là nhóm người trẻ và trung niên cũ ( 2004-2024) không tốt hơn cũng
không thiệt hơn. Thế hệ người già cũ chi tiêu nhiều hơn 4.000 đô la còn nhóm người trẻ
mới. chi tiêu thấp hơn 4.000 đô la. Hay nói cách khác, 4.000 thu nhập của nhóm người
trẻ mới bị chuyển cho nhóm người già cũ và điều này gây ra gánh nặng nợ cho thế hệ
sau và gây ra bất bình đẳng trong thu nhập. 10 lOMoAR cPSD| 47879361
Tuy nhiên Lerner lại bỏ sót một yếu tố quan trọng đối với vấn đề này đó là “tiết kiệm”.
Robert Barro (1974) cho rằng khi chính phủ vay nợ thì nhóm người già nhận thấy con
cháu của họ thiệt hại hơn nên họ sẽ gia tăng thu nhập dưới dạng di sản để lại cho con
cháu với mức bằng khoản tiền đủ để trả tiền thuế tăng thêm mà thế hệ tương lai phải
chịu. Trong trường hợp này Robert Barro cho rằng với 4.000 thu nhập tăng thêm của
thế hệ người già (cũ) họ sẽ không chi tiêu sẽ để lại phần 4.000 tăng thêm đó cho thế hệ
con cháu (tức thế hệ người trẻ mới) và cuối cùng thì kết quả sẽ không có gì thay đổi
thực sự (không có sự tái phân phối thu nhập). Vấn đề này chúng ta sẽ tìm hiểu kĩ hơn ở
phần 3.2. Ảnh hưởng của nợ công đến tiết kiệm và đầu tư.
3.2.3. Nợ công và phân phối thu nhập ở VN
Qui mô và tối độ tăng giảm nợ công có xu hướng tương đồng với sự gia tăng và cải
thiện về bất bình đẳng thu nhập.
Tỉ lệ nợ công của Việt Nam trong những năm gần đây có xu hướng giảm dần. Từ
61,4% GDP (năm 2017) xuống còn 58,3% GDP (năm 2018), 55,9% GDP năm 2020 và
đến năm 2021 là 43,1%. Năm 2022, mức nợ công được dự tính tương đương với năm
2021, khoảng 43 - 44% GDP. Cùng với đó, nợ chính phủ, nợ chính phủ bảo lãnh và nợ
chính quyền địa phương cũng giảm dần. Cụ thể, nợ chính phủ cũng giảm từ 51,7% GDP
năm 2017 xuống còn đến 39,1% GDP năm 2021. Nợ chính phủ bảo lãnh giảm từ 9,1%
GDP năm 2017 xuống 3,8% GDP năm 2021. Nợ chính quyền địa phương năm 2021 chỉ
khoảng 0,6% GDP trong khi năm 2017 bằng 1,1% GDP.
Trong năm 2015, khi tăng trưởng kinh tế phục hồi sau giai đoạn chịu ảnh hưởng tiêu
cực của khủng hoảng tài chính năm 2008 và nhiều chính sách thúc đẩy tăng trưởng,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng được thực thi, lợi ích trước hết đến với nhóm người
dân không nghèo sau đó mới có sự điều chỉnh lại phân phối thu nhập khi hệ số GINI
giảm nhẹ năm 2018 - 2019. Hệ số GINI tiếp tục giảm sâu trong năm 2020 ở mức 0,37
chủ yếu là do tăng trưởng kinh tế chậm lại dưới tác động tiêu cực của dịch Covid-19.
Điều này cho thấy có sự tương đồng khi trong cùng một giai đoạn nợ công có xu
hướng giảm thì hệ số GINI cũng có xu hướng giảm theo.
3.3. Ảnh hưởng của nợ công đến mức độ tiết kiệm và đầu tư: 11 lOMoAR cPSD| 47879361
3.3.1. Ảnh hưởng của nợ công đến mức độ đầu tư:
Trong mô hình tân cổ điển, khi chính phủ phát hành trái phiếu. Trái phiếu chính
phủ sẽ thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư nhân. (Nếu không có trái phiếu chính phủ, thay
vì đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì người ta có thể đầu tư vào khu vực tư nhân) Như
vậy việc vay mượn của chính phủ làm giảm vốn đầu tư của tư nhân. Điều này còn gọi
là “hiệu ứng lấn át”
Sự lấn át này làm thay đổi lãi suất. Khi nhu cầu vay vốn của chính phủ gia tăng
thì lãi suất thị trường cũng sẽ tăng theo. Lãi suất tăng thì khu vực tư nhân sẽ gánh chịu
chi phí đầu tư đắt đỏ hơn và sẽ ít đầu tư hơn. Hình trên cho thấy khi lãi suất tăng lên từ
r1 lên r2 thì cầu vốn giảm từ k1 xuống k2 . Việc giảm đầu tư như vậy sẽ khiến cho tăng
trưởng thu nhập quốc dân chậm lại. Như vậy, khi sử dụng nợ cho chi tiêu công, chi phí
thực sự của nó đối với xã hội là sự hi sinh trong khu vực tư nhân.
3.3.2. Ảnh hưởng của nợ công đến mức độ tiết kiệm:
Như đã đề cập ở phần trên (3.2.2), nợ công có ảnh hưởng đến mức độ tiết kiệm (cụ
thể là nợ công càng tăng thì mức độ tiết kiệm sẽ tăng theo). Khi nhóm người già cũ nhận
thấy thu nhập của thế hệ trẻ mới giảm đi, họ sẽ tiết kiệm nhiều hơn cho thế hệ trẻ mới.
Tuy nhiên, có ý kiến tranh luận rằng nếu mô hình Ricardo (tức ý kiến của Robert Barro)
đúng thì vào đầu thập kỉ 80, khi thâm hụt của Mỹ gia tăng đột biến thì tiết kiệm tư nhân
sẽ gia tăng tương ứng. Tuy nhiên, đồng thời với mức độ thâm hụt liên bang tăng thì tiết
kiệm tư nhân lại giảm. Như vậy, điều này chỉ là gợi ý, chưa phải kết luận, vì có những
yếu tố khác ngoài thâm hụt cũng tác động tới mức tiết kiệm. Thực tế là, theo lý thuyết 12 lOMoAR cPSD| 47879361
thì nhóm người già cũ không phải lúc nào cũng để lại đủ hết 4.000 đô la cho thế hệ trẻ
mới mà có thể họ sẽ sử dụng một ít và phần còn lại họ mới tiết kiệm hoặc họ sẽ sử dụng
hết phần 4.000 đó mà không để lại cho con cháu (có thể là do họ không có con cháu
hoặc đời sau). Ví dụ, nếu nhóm người già chỉ sử dụng 400 đô và để lại 3.600 đô la. Như
vậy, số tiết kiệm 3.600 đó vẫn không đủ để bù đắp mức thu nhập sụt giảm 4.000 đô la
của thế hệ trẻ mới. Thực vậy, Berheim (1990) cũng cho rằng kể cả sau khi đã tính đến
những biến số khác thì số tiết kiệm cũng không tăng đủ bằng số tăng của thâm hụt.
3.4. Ảnh hưởng của nợ công đến phát triển kinh tế:
Trở lại câu hỏi đầu bài, liệu có phải là nợ công lúc nào cũng chỉ mang lại tiêu cực
cho nền kinh tế? Như vậy, một nước càng phát triển thì tỉ lệ nợ công càng thấp? Để trả
lời cho các câu hỏi trên, chúng ta cùng phân tích diễn biến nợ công ở các nhóm nước
phân theo thu nhập giai đoạn 2000-2015.
Trong Tạp chí Khoa học Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hoàng Khắc Lịch và Dương
Cẩm Tú đã đưa ra nhận xét như sau: Những nước càng giàu thì tỷ lệ vay nợ càng cao,
cụ thể nhóm thu nhập cao đã chạm mức nợ trung bình 70% GDP năm 2015. Theo WB
(2017), từ thời điểm năm 2007 đến cuối năm 2016, hơn một nửa chính phủ các nước
phát triển và mới nổi có dư nợ tăng lên hơn 10%, thâm hụt ngân sách cũng tăng cao tới
5% tại một phần ba các nước trong khu vực này. Các gói kích cầu kinh tế với tổng số 13 lOMoAR cPSD| 47879361
vốn hơn 2,2 nghìn tỷ USD tương đương 4,7% GDP toàn cầu vào cuối năm 2009 càng
khiến thâm hụt ngân sách của nhiều quốc gia tăng vọt. Vào cùng thời điểm, các nước
thuộc nhóm thu nhập thấp và trung bình thấp có tỷ lệ nợ trên GDP thấp hơn hẳn - khoảng
45% GDP, xấp xỉ mức thấp nhất của các nước giàu trong giai đoạn 20002015 nhưng có
xu hướng tăng vọt trong hai năm gần đây, tổng nợ ròng tăng mạnh từ mức 184 tỷ USD
năm 2014 lên tới 542 tỷ USD cuối năm 2015.
Như vậy theo như những phân tích cơ bản của Hoàng Khắc Lịch và Dương Cẩm
Tú thì liệu có phải vay nợ càng nhiều thì càng giàu còn nghèo thì vay nợ ít? Không phải
như vậy mà nợ công có phải là gánh nặng đến sự phát triển kinh tế hay không thì còn
tuỳ vào mục đích sử dụng nợ nữa. Nếu các khoản nợ được sử dụng trong xây dựng,
chẳng hạn như đường sắt, nhà máy điện và các dự án thủy lợi, nó góp phần vào năng
lực sản xuất của nền kinh tế, thì chúng là các khoản nợ sản xuất. Bằng cách này, các
khoản nợ sản xuất cung cấp một dòng thu nhập liên tục cho nhà nước.
Nhà nước chi trả số tiền lãi và nợ gốc từ nguồn thu của các dự án này. Nếu các khoản
nợ được sử dụng trong các lĩnh vực như chiến tranh, cứu trợ nạn đói, các dịch vụ xã hội,
v.v. Nhà nước thường trả lãi và nợ gốc từ thuế; do đó, những khoản nợ này là gánh nặng
cho xã hội. Nếu nợ công được dùng để phát triển kinh tế bằng các khoản đầu tư vào cơ
sở hạ tầng (như đập, đường, cảng, khai thác mỏ, nông nghiệp), chúng sẽ làm tăng các
khoản đầu tư mới thông qua hiệu ứng cấp số nhân. Kết quả là thu nhập quốc dân và việc
làm tăng lên; và theo đó phát triển kinh tế được đảm bảo.
Ngày nay, các nước kém phát triển và đang phát triển, những nước nỗ lực phát
triển, phải vay nợ bên ngoài do không đủ nguồn lực nội bộ. Hay nói cách khác, nếu sử
dụng đúng cách, nợ công sẽ làm gia tăng nguồn lực cho nhà nước. Nợ công giúp tăng
cường nguồn vốn phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà
nước. Nếu có được chính sách huy động nợ công một cách hợp lý thì nhu cầu về vốn sẽ
từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó giúp gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
Nhắc đến quan hệ giữa nợ công và phát triển kinh tế thì hiện nay có ba quan niệm
cơ bản về tác động của nợ công tới tăng trưởng kinh tế, gồm: (1) Nợ công thúc đẩy tăng 14