







Preview text:
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
BỘ MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TP Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 06 năm 2023 MỞ ĐẦU
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra trong bối cảnh đất nước tạm thời chia làm
hai miền với hai chế độ khác nhau. Miền Bắc đã cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai,
Đảng cần có đường lối đúng đắn để cách mạng tiến tới thắng lợi. Từ thực tế đó, nhận
thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của hậu
phương trong chiến tranh, Đảng quyết định xây dựng ba tầng hậu phương là: hậu phương
miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương tại chỗ miền Nam và hậu phương quốc tế. Trong
đó, miền Bắc là hậu phương lớn, là căn cứ địa cách mạng của cả nước, là nền tảng, là gốc
rễ của lực lượng đấu tranh của nhân dân ta và là nhân tố quyết định sự thắng lợi của cuộc
kháng chiến chỗng Mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc. Trong khuôn khổ bài viết này,
chúng ta sẽ đi tìm hiểu quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc,
vai trò của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975). Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm về mối quan
hệ hậu phương và tiền tuyến trong cuộc sống. ĐỀ BÀI
1. Trình bày tóm tắt quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH ở
miền Bắc giai đoạn 1954 – 1975.
2. Phân tích vai trò của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975). Trong cuộc sống,
bạn rút ra được cho bản thân mình những bài học kinh nghiệm gì giữa vai
trò của hậu phương và tiền tuyến từ vấn đề lịch sử trên? 1 Câu 1:
a) Khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa (1954-1960)
Về chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên CNXH:
- Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc để
sớm đưa miền Bắc trở lại bình thường sai 9 năm chiến tranh, hàn gắn vết thương
chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân.
- Thực hiện hiệp định Giơnevơ, hòa bình lặp lại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền
Bắc đấu tranh đòi đối phương phải rút quân khỏi miền Bắc theo đúng lịch trình
quy định, huy động hàng vạn cán bộ, bộ đội đến giúp đỡ các địa phương, tuyên
truyền, vận động quần chúng đấu tranh chống địch cưỡng ép di cư nhằm ổn định
tình hình. Theo đó địch đã phải rút quân theo đúng Hiệp định.
- Nhận rõ kinh tế miền Bắc cơ bản là nông nghiệp, Đảng đã chỉ đạo việc khôi phục
sản xuất nông nghiệp, kết hợp với cải cách ruộng đất và vận động đổi công, giúp
nhau sản xuất, đồng thời, chăm lo xây dựng cơ sở vật chất cho nông nghiệp. Và
khôi phục công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và giao thông vận tải cũng hoàn
thành. Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất. Đến
tháng 7-1956, cải cách ruộng đất đã cơ bản hoàn thành ở đồng bằng, trung du và
miền núi. Song, trong quá trình này, ta cũng đã mắc phải một số sai lầm nghiêm
trọng. HNTW10 (9-1956) đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm, công khai tự
phê bình trước nhân dân, chỉnh đốn tổ chức, thi hành kỷ luật đối với một số Ủy
viên Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương Đảng. Đảng chỉ đạo công tác sửa sai
trong năm 1956, nên dần khắc phục được những sai lầm đã xảy ra.
- HNTW13 của Đảng (12-1957) đã đánh giá thắng lợi về khôi phục kinh tế và đề ra
nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách mạng trong giai đoạn mới. Tháng 11-1958,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp HNTW14 đề ra kế hoạch ba năm phát triển
kinh tế, văn hóa và cải tạo XHCN đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh
(1958-1960). Tháng 4-1959, HNTW16 của Đảng đã thông qua Nghị quyết về vấn
đề hợp tác hóa nông nghiệp, xác định hoạt động của hợp tác xã. Đã tạo nên những
chuyển biến cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta.
=> Miền Bắc được củng cố, từng bước đi lên CNXH và trở thành hậu phương ổn
định, vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
b) Bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (1961-1965)
- Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà
Nội. Chủ đề của Đại hội: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng CNXH ở miền Bắc
và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”. Cũng tại đây, Đảng đề ra và chỉ đạo
thực hiện kế hoạch 5 năm (1961-1965) lần thứ nhất với mục tiêu hoàn thiện quan
hệ sản xuất XHCN xây dựng một bước cơ sở vật chất của CNXH, cải thiện đời 2
sống nhân dân, bảo đảm an ninh quốc phòng, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh
thống nhất nước nhà. Các cuộc vận động và phong trào thi đua được triển khai sôi
nổi ở nhiều mặt trận, tăng cường chi viện cho miền Nam, vận chuyển hàng chục
tấn vũ khí từ miền Bắc vào tận các căn cứ ven biển Phú Yên, Bà Rịa, Cà Mau...
góp phần vào chiến thắng của quân dân miền Nam đánh bại chiến lược chiến tranh của Mỹ.
c) Chuyển hướng xây dựng kinh tế, đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ nhất
của đế quốc Mỹ, tăng cường chi viện cho miền Nam (1965-1968)
- Chuyển hướng xây dựng kinh tế bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh
kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân
dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN.
- 5-8-1964, Mỹ dựng lên “sự kiện vịnh Bắc Bộ” lấy cớ dùng không quân và hải quân
đánh phá miền Bắc nước ta. Trước tình hình đó, Nghị quyết HNTW 11 và 12, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng xác định chủ trương: Một là, kịp thời chuyển hướng
xây dựng kinh tế cho phù hợp với tình hình có chiến tranh phá hoại; Hai là, tăng
cường lực lượng quốc phòng cho kịp với sự phát triển tình hình cả nước có chiến
tranh; Ba là, ra sức chi viện cho miền Nam với mức cao nhất để đánh bại địch ở chiến
trường chính miền Nam; Bốn là, phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức cho
phù hợp với tình hình mới.
- Sau bốn năm thực hiện chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế, hậu phương
lớn miền Bắc đã đạt được những thành tích đáng tự hào trên các mặt trận chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, chi viện cho tiền tuyến lớn ở miền Nam.
d) Khôi phục và phát triển kinh tế, chống chiến tranh phá hoại lần thứ Hai, làm
tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam
- Tháng 11-1968, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc thực hiện các kế hoạch ngắn
hạn nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục công cuộc xây dựng miền Bắc và
tăng cường lực lượng cho miền Nam. Nhân dân miền Bắc đã khẩn trường khôi phục
kinh tế, sau 3 năm (1969-1972), tình hình khôi phục kinh tế và tiếp tục xây dựng
CNXH có chuyển biển tốt đẹp trên nhiều mặt. Các kết quả đạt được đã làm cho tiềm
lực mọi mặt của hậu phương lớn miền Bắc được tăng cường, cải thiện đời sống nhân dân.
- Từ tháng 4-1972, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần
hai, nhất là đợt rải bom đêm bằng pháo đài bay B.52 tại Hà Nội, Hải Phòng và một số
địa phương khác. Quân dân miền Bắc đã sáng tạo, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, lập
nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, đánh bại hoàn toàn chiến tranh phá hoại của
Mỹ. Ngày 15-1-1973, Chính phủ Mỹ phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động phá hoại
miền Bắc nước ta và trở lại bàn đàm phán với ký kết Hiệp định Paris (29-1-1970)
công nhận độc lập chủ quyền, thống nhân của nước Việt Nam, chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc. 3
- Miền Bắc có hòa bình, Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch hai năm khôi phục và
phát triển kinh tế 1974-1975. Miền Bắc còn hoàn thành nhiệm vụ hậu phương lớn đối
với tiền tuyến lớn miền Nam và hoàn thành nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia. Câu 2:
Sau Hiệp định Giơnevơ (1954), do âm mưu và hành động phá hoại Hiệp định
Giơnevơ của Mĩ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, đất nước ta tạm thời bị chia cắt
thành hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau: miền Bắc được giải phóng
hoàn toàn, miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới. Mỹ đặt căn cứ quân sự ở Đông
Dương. Dựa vào tình hình nước ta tạm thời bị chia cắt thành 2 miền với 2 chế độ chính trị
khác nhau, Đảng Lao động Việt Nam đã đề ra những đường lối cách mạng khác nhau,
phù hợp với từng miền. Nhiệm vụ của cách mạng miền Bắc là khôi phục kinh tế, hàn gắn
vết thương chiến tranh; tiến hành công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng
cố miền Bắc, tạo hậu phương vững chắc cho miền Nam và là căn cứ địa cách mạng của
cả nước. Miền Nam tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, lật đổ ách thống
trị của Mĩ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Cách mạng XHCN ở miền Bắc có vai trò quan trọng nhất đối với sự phát triển của
cách mạng cả nước. Vai trò này được thể hiện ở việc miền Bắc đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam:
- Thứ nhất, cung cấp lương thực, thuốc men, vũ khí và trang thiết bị, từ súng
trường, máy bay cho đến tên lửa, đạn pháo, thiết bị truyền thông...
+ Miền Bắc chi viện cho miền Nam bằng tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc
– Nam mang tên Hồ Chí Minh trên bộ và trên biển bắt đầu được khai thông từ năm 1959,
dài hàng nghìn km. Khẩu hiệu của miền Bắc là “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh
thắng giặc Mĩ xâm lược”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”…
+ Trong 16 năm (1959-1975), tuyến giao thông vận tải quân sự chiến lược Trường
Sơn đã vận chuyển 1.349.060 tấn, giao cho các chiến trường miền Nam, Lào và
Campuchia 583.450 tấn (43.2%), bảo đảm hành quân cơ động, tiêu thụ trên tuyến, tổn thất 765.610 tấn (56.8%).
+ Miền Bắc có cố gắng phi thường, đáp ứng đủ nhu cầu quan trọng và cấp bách
của cuộc tổng tiến công chiến lược ở miền Nam. Từ đầu mùa khô 1973-1974 đến đầu
mùa khô 1974-1975, miền Bắc đưa vào chiến trường hơn 26 vạn tấn vũ khí, đạn dược,
quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men, lương thực, thực phẩm.
+ Trong thời gian Mĩ ngừng ném bom sau chiến tranh phá hoại lần thứ nhất và cả
trong chiến tranh phá hoại lần thứ hai, miền Bắc đã khắc phục kịp thời hậu quả của
những trận đánh phá khốc liệt, vượt qua những cuộc bao vây phong toả gắt gao của địch,
bảo đảm tiếp nhận tốt hàng viện trợ từ bên ngoài và tiếp tục chi viện theo yêu cầu của
chiến trường miền Nam, cũng như làm nghĩa vụ quốc tế đối với chiến trường Lào và Campuchia.
- Thứ hai, đào tạo và huấn luyện bộ đội: 4
+ Đến cuối năm 1964, một số đơn vị đại đội, tiểu đoàn với trên 40.000 cán bộ,
chiến sĩ đã được tăng cường đến các chiến trường miền Nam.
+ Trong 4 năm (1965-1968), miền Bắc đã đưa vào miền Nam hơn 30 vạn cán bộ,
chiến sĩ tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu và xây dựng vùng giải phóng. Tính chung,
trong 4 năm, sức người, sức của từ miền Bắc chuyển vào chiến trường miền Nam tăng
gấp 10 lần so với giai đoạn trước.
+ Trong 3 năm (1969 – 1971), hậu phương miền Bắc đã đóng góp nhân lực cho
tiền tuyến miền Nam. Hàng chục vạn thanh niên miền Bắc được gọi nhập ngũ, trong số
đó có 60% lên đường bổ sung cho các chiến trường miền Nam, Lào, Campuchia. Khối
lượng vật chất đưa vào các chiến trường tăng gấp 1.6 lần so với 3 năm trước đó. Riêng
năm 1972, miền Bắc đã động viên hơn 22 vạn thanh niên bổ sung cho lực lượng vũ trang,
đưa vào chiến trường 3 nước Đông Dương nhiều đơn vị bộ đội được huấn luyện, trang bị
đầy đủ; còn khối lượng vật chất đưa vào chiến trường tăng gấp 1.7 lần so với năm 1971.
+ Năm 1973-1974, miền Bắc tiếp tục động viên 25 vạn thanh niên vào lực lượng
vũ trang, bổ sung cho chiến trường 15 vạn quân; chuyển hàng vạn thương binh, bệnh
binh từ các chiến trường về điều trị và giải quyết nhanh chính sách. Đến cuối năm 1974,
trên 33 vạn tấn vật chất các loại đã được giao cho các chiến trường. Chỉ trong 4 tháng (từ
tháng 1 đến tháng 4-1975), miền Bắc đã bổ sung vào chiến trường trên 110.000 cán bộ,
chiến sĩ; 230.000 tấn vật chất các loại. Tính tổng thể, hậu phương miền Bắc XHCN đã
bảo đảm 80% bộ đội chủ lực, 70% và khí và lương thực, 65% thực phẩm cho chiến
trường miền Nam, nhất là ở giai đoạn cuối.
⇨ Nguồn chi viện cùng với thắng lợi trong chiến đấu và sản xuất của quân dân miền
Bắc đã góp phần quyết định vào thắng lợi của quân dân miền Nam trong cuộc
chiến đấu đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của Mĩ và giải phóng hoàn toàn miền Nam.
- Thứ ba, tham gia các chiến dịch quân sự:
+ Không chỉ là hậu phương, miền Bắc còn là chiến trường trực tiếp đánh Mĩ. Quân
dân miền Bắc đã chiến đấu, đánh thắng hai lần chiến tranh phá hoại bằng không quân và
hải quân của Mĩ, bắn rơi 4.181 máy bay, bắn cháy, bắn chìm 296 tàu chiến và tàu biệt
kích, bắt sống một số lượng lớn phi công Mỹ, đặc biệt làm nên trận “Điện Biên Phủ trên
không”, đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng B52 của Mĩ vào Hà Nội, Hải Phòng cuối
năm 1972. Chiến thắng của quân dân miền Bắc trong chiến đấu chống chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mĩ, góp phần đập tan ý chí xâm lược của Mĩ, buộc họ phải ngồi vào bàn
đàm phán và kí Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam.
+ Động viên tới 267 triệu ngày công theo chế độ dân công thời chiến để đảm bảo
giao thông hoặc phục vụ các yêu cầu khác của quân đội (làm trận địa, sửa chữa sân bay,
vận chuyển hàng bằng phương tiện thô sơ...). Tính đến năm 1972, tổng số lao động do
Nhà nước động viên đã lên tới 2.5 triệu người, chiếm 11% dân số miền Bắc.
- Thứ tư, tinh thần đoàn kết và hỗ trợ: 5
+ Hậu phương miền Bắc đã luôn tạo động lực cho tiền tuyến miền Nam bằng cách
đưa ra những tinh thần đoàn kết và hỗ trợ tinh thần, giúp tăng cường lòng tin và động
viên những người lính trên tiền tuyến miền Nam.
- Những thành tựu của miền Bắc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng
với uy tín của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là nguồn động viên về tinh thần to
lớn đối với nhân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Vì vậy, có thể nói
rằng vai trò của hậu phương miền Bắc là rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước (1954-1975), giúp củng cố thêm sức mạnh và tinh thần cho tiền tuyến
miền Nam, vùng lên đúng lúc, trụ vững trong những lúc ác liệt nhất, hình thành thế trận
chiến tranh nhân dân rộng khắp trên cả ba vùng chiến lược, giúp đánh bại kẻ thù và giành
được chiến thắng lớn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc
❖ Với vai trò của hậu phương và tiền tuyến từ vấn đề lịch sử trên, bản thân đã rút
ra được những bài học kinh nghiệm quan trọng sau:
Tiền tuyến không thể thắng giặc nếu không có hậu phương vững mạnh vì “hậu
phương là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh” (V.I.Lênin). Hậu
phương chính là nơi xây dựng, dự trữ tiềm lực của chiến tranh cả về chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội; là nơi chi viện nhân lực, vật lực, là chỗ dựa tinh thần cho tiền tuyến. Hậu
phương mạnh thì tiền tuyến mạnh. Sức mạnh của hậu phương là sức mạnh tổng hợp tạo
thành một thể thống nhất hoàn chỉnh. Từ đây chúng ta có thể rút ra những kinh nghiệm về chuẩn bị hậu phương:
1. Sự chuẩn bị: Để có thể đảm nhận vai trò của hậu phương hỗ trợ tiền tuyến hiệu
quả, cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng trước những khó khăn và thử thách có thể xảy ra. Bằng
cách này, chúng ta có thể giảm thiểu rủi ro và đảm bảo sự ổn định cho hoạt động của mình.
2. Tính kiên trì và sự linh hoạt: Trong không ít trường hợp, hậu phương phải đối
mặt với vô vàn thử thách khó khăn, cần phải thích nghi với tình hình mới để đáp ứng các
yêu cầu khác nhau. Chính vì vậy, tính kiên trì và sự linh hoạt là hai yếu tố cực kỳ quan
trọng để có thể hoàn thành nhiệm vụ, vượt qua những khó khăn đó.
3. Tinh thần đoàn kết và sự hỗ trợ nhau, tình đồng đội: Hậu phương và tiền tuyến
luôn là phần quan trọng trong sự thành công của một tổ chức, sự kiện. Tinh thần đoàn kết
và sự hỗ trợ nhau giữa các thành viên của nhóm là cần thiết để có thể hoàn thành công
việc một cách hiệu quả.
4. Sự quan tâm và chia sẻ: Hậu phương đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ
đi đến thành công của tiền tuyến, vì vậy luôn cần sự quan tâm và chia sẻ với nhau để mọi
thứ ý nghĩa hơn, hiểu nhau hơn.
5. Tính tổ chức và quản lý thời gian: Với số lượng công việc và yêu cầu đa dạng,
khả năng quản lý thời gian là một kỹ năng quan trọng để có thể hoàn thành nhiệm vụ một
cách hiệu quả. Cần phải biết thời gian ưu tiên cho từng công việc và ứng phó với những
yêu cầu cấp thiết một cách thông minh. 6
6. Quan tâm tới những chi tiết nhỏ: Việc chú ý đến từng chi tiết rất quan trọng vì
một sai sót nhỏ có thể gây ra hậu quả lớn. Chính vì vậy, nên luôn kiểm tra và bảo đảm
mọi việc được chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi triển khai. LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài kết thúc học phần này, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến sự
hướng dẫn cũng như sự giảng dạy tận tình, truyền thụ kiến thức của cô Đỗ Lâm Hoàng
Trang đã trang bị cho em thêm kiến thức trong suốt thời gian học tập học phần này.
Trong quá trình hoàn thành bài, mặc dù em đã dành thời gian và tâm huyết để
nghiên cứu, nhưng do thời gian có hạn, vì vậy, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu
sót, nên em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của quý Cô để kiến thức
của em trong lĩnh vực này được hoàn thiện hơn.
Sau cùng, em kính chúc cô sức khỏe, thành công, hạnh phúc và phát triển. 7
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam-khoa lý luận chính trị-
trường Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh
- http://ninhthuan.edu.vn/thptchuyenlequydon/1199/29171/52719/90810/Mon-Lich-su/
VAI-TRO-CUA-HAU-PHUONG-MIEN-BAC-TRONG-CUOC-KHANG-CHIEN-
CHONG-MI--CUU-NUOC--1954---1975-.aspx
- https://cand.com.vn/Su-kien-Binh-luan-thoi-su/Vai-tro-cua-mien-Bac-trong-khang- chien-chong-My-i6062/ 1
