Tiểu luận Kinh tế vi mô đề tài: Tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020. Thực trạng, giải pháp và chính sách.
Tiểu luận Kinh tế vi mô đề tài: Tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020. Thực trạng, giải pháp và chính sách, giúp sinh viên tham khảo và đạt điểm cao bài tiểu luận cuối kỳ. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Tình hình lạm phát ở Việt Nam giai đoạn năm 2010
đến 2020. Thực trạng, giải pháp và chính sách
1 Chương 1: Cơ sở lý thuyết
1.1 Khái niệm lạm phát
Định nghĩa lạm phát:
Trong kinh tế vĩ mô, lạm phát là sự tăng mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ theo
thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ. Khi so sánh với các nước khác thì lạm
phát là sự giảm giá trị tiền tệ của một quốc gia này so với các loại tiền tệ của quốc gia khác.
1.2 Một số chỉ số đo lường lạm phát
1.2.1 Tỷ lệ lạm phát
Tỷ lệ lạm phát dùng để đo lượng mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kì nhất định, được
tính bằng phần trăm thay đổi của mức giá chung. Πt = Trong đó:
Πt là tỷ lệ lạm phát của thời kỷ t (có thể là tháng, quí hoặc năm) là mức giá của thời kỳ t
là mức giá của thời kỳ trước đó
1.2.2 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): Chỉ số giá tiêu dùng phản ánh tốc độ thay đổi giá của các
mặt hàng tiêu dùng chính như: lương thực, thực phẩm, quần áo, chất đốt, nhà ở, …
Công thức tính chỉ số giá tiêu dùng:
Trong đó, p và q là để chỉ giá và lượng sản phẩm ở mỗi thời điểm.
1.2.3 Một số chỉ số khác
Chỉ số giá sản xuất (Producer Price Index ,PPI): Chỉ số giá sản xuất được thiết kế để phản ánh những
thay đổi bình quân trong giá tất cả các hàng hoá và dịch vụ của người sản xuất ở tất cả các khâu của
quá trình chế biến. (Theo Từ điển Kinh tế học, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân).
Chỉ số giá hàng hóa: Chỉ số giá hàng hóa là một chỉ số gia quyền cố định hoặc trung bình (gia
quyền) của các giá cả hàng hóa có lựa chọn, có thể được dựa trên giá cả giao ngay hoặc giá cả tương lai.
1.3 Phân loại lạm phát
Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoặc theo mức độ của tý lệ lạm phát. Các nhà kinh tế
thường phân loại lạm phát theo mức độ của tỷ lệ lạm phát: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
• Lạm phát vừa phải: Giá cả tăng chậm, dự đoán trước là điều khả thi, còn gọi là lạm phát một con số
với tỷ lệ lạm phát dưới 10%/ 1 năm, nền kinh tế bình ổn, đời sống người lao động ổn định, kích thích
tăng trưởng kinh tế, kích thích các doanh nghiệp đầu tư tăng gia sản xuất
• Lạm phát phi mã: Giá cả tăng nhanh, ở mức tăng 2 đến 3 con số/ năm. Gây nên sự tăng mạnh của
giá cả chung, gây các biến động lớn đối với nền kinh tế, người dân có hiện tượng đầu cơ tích trữ vàng,
bạc, BĐS, và những tài sản khác an toàn trước lạm phát hơn là tiền tệ. Gây ra các biến động kinh tế trầm
trọng, tiêu diệt các động lực phát triển kinh tế.
• Siêu lạm phát: Xảy ra khi có sự tăng đột biến của giá cả vượt xa ngưỡng của lạm phát phi mã ( từ 50%/
tháng cho tới hơn 13.000%/ năm, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng, tiền lương giảm nghiêm trọng, giá cả tăng
gần như mất kiểm soát, các đồng tiền mất giá nhanh chóng, loại lạm phát này sẽ phá hủy nền kinh tế.
Giả sử bạn mua một ly trà sữa có giá 1 đô la vào tháng 1 năm 2020 thì vào tháng 1 năm 2021, số tiền
bạn phải bỏ ra để mua ly trà sữa này là lên đến 130 đô la. Theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế có 4 tiêu
chí để xác định siêu lạm phát:
• Người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền
• Giá cả hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định hơn
(hầu hết là đồng đô la Mỹ)
• Các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn
• Lãi suất tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm hát cộng dồn trong 3 năm lên tới 100%
Siêu lạm phát rất hiếm khi xảy ra, chỉ có khoảng 15 trường hợp lạm phát kể từ đầu thế kỷ
20. Một số do chiến tranh như Đức giai đoạn 1922-1923, số còn lại một số là kết quả của việc in tiền để tài
trợ cho việc trả nợ hoặc bù đắp các khoảng thâm hụt tài chính.
1.4 Nguyên nhân của lạm phát
1.4.1 Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo là lạm phát xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc vượt quá
mức tự nhiên. Được thể hiện bởi sự dịch sang phải của đường tổng cầu (AD) trong mô hình AS- AD hình 1
1.4.2 Lạm phát do chi phí đẩy
Xảy ra khi có sự tăng giá đồng loạt của một số loại chi phí
Trong đồ thị tổng cung - tổng cầu, một cú sốc tăng chi phí như vậy sẽ làm đường tổng cung dịch
chuyển lên trên và sang bên trái. Mọi yếu tố vĩ mô trong nền kinh tế đều dịch chuyển theo chiều
hướng bất lợi: sản lượng giảm, lạm phát và thất nghiệp tăng, do vậy còn được gọi là lạm phát trì trệ,
hay lạm phát kèm suy thoái. Hình 2
1.4.3 Lạm phát dự kiến
Là loại lạm phát đã có dự kiến từ trước, ở trường hợp này cả đường AS và AD đều dịch chuyển lên
trên với cùng một tốc độ, giá cả tăng nhưng sản lượng việc làm là không đổi, đây là một loại lạm phát có
thể được dự báo trước mang đến các lợi ích cho chính phủ trong việc kiểm soát và phát triển nền kinh tế. hình 3 4
1.4.4 Lạm phát tiền tệ
Theo quan điểm của nhà kinh tế Milton Friedman dẫn bởi F.S. Mishkin (2007), “Lạm phát bất kể thời
gian, địa điểm cũng là một hiện tượng tiền tệ… và nó có thể xuất hiện khi cung tiền nhanh hơn sản
lượng”. Việc tăng cung tiền trong lưu thông nhà nước xảy ra khi ngân hàng mua ngoại tệ để để giữ cho
giá của đồng quốc nội không mất đi so với đồng ngoại tệ hay việc ngân hàng trung ương mua công trái
theo yêu cầu của chính phủ.
1.5 Tác động của lạm phát
1.5.1 Ảnh hưởng tích cực
Khi tốc độ lạm phát vừa phải: 2-5% cho các nước phát triển và dưới 10% ở các nước đang phát triển sẽ
mang lại một số lợi ích cho nền kinh tế :
+ Kích thích tiêu dùng, vay nợ, đầu tư
+ Cho chính phủ có nhiều công cụ kích thích đầu tư vào những lĩnh vực kém ưu tiên hơn thông qua
mở rộng tín dụng, giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực trong xã hội theo định hướng và mục tiêu đặt ra
+ Kích thích các doanh nghiệp gia tăng đầu tư vài các yếu tố chưa được khai thác hết mức như công nghệ,
đất đại, lao động,… giúp gia tăng và mở rộng sản xuất, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập khiến cho tổng
cầu tăng tiếp tục kích thích sản xuất phát triển
1.5.2 Ảnh hưởng tiêu cực
Khi tốc độ lạm phát tăng quá nhanh, hậu quả để lại cho nền kinh tế là rất lớn:
+ Làm mất đi giá trị của đồng tiền, khiến ai giữ càng nhiều tiền mặt thì sẽ trở nên càng nghèo, chính
vì điều này người dân chuyển sang đầu cơ vào những tài sản khác có giâ trị bền vững hơn, ít bị ảnh
hưởng bởi lạm phát như: Bất động sản, vàng, đá quý, ngoại hối,… gây nên sự thiếu hụt trong các
khoản gửi ngân hàng, làm nguồn vốn vay ngân hàng giảm mạnh, không còn vốn đầu tư sản xuất các
sản phẩm có ích tạo hiệu quả cho nền kinh tế.
+ Gây nên sự biến dạng trong phân bố thu nhập khi lương của người lao động được điều chỉnh không bằng
tốc độ gia tăng của giá cả, khiến thu nhập của họ suy cho cùng là bị giảm sút, điều này tạo nên lợi cho
các nhà sản xuất khi họ ngày càng giàu còn người lao động ngày càng nghèo
+ Gây nên mất cân đối thanh toán quốc tế khi giá cả hàng hóa nội địa tăng làm giảm sức cạnh
trang của hàng hóa xuất khẩu, kích thích nhập khẩu dẫn đến thu hẹp sản xuất trong nước
=> Nếu một quốc gia có tình hình lạm phát ở mức siêu lạm phát thì sẽ kéo theo sự sụp đổ của nền kinh tế.
2 Chương 2: Thực trạng lạm phát Việt
Nam giai đoạn năm 2010 đến 2020
2.1 Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn năm 2010 đến năm 2020 Năm Lạm Phát (đơn vị %) 2010 9.19 2011 18.58 2012 9.21 2013 6.6 2014 4.09 2015 0.63 2016 2.66 2017 3.53 2018 3.53 2019 2.79 2020 3.23
Chỉ số giá tiêu dùng và lạm phát cơ bản bình quân năm từ năm 2010 đến năm 2020 (Nguồn:
TCTK) (Năm trước = 100, Đơn vị tính: %)
Qua nhiều giai đoạn khác nhau tỷ lệ lạm phát của Việt Nam qua các năm đều có sự thay đổi khác nhau. Cụ
thể, trong giai đoạn 2010 - 2020 tỷ lệ lạm phát từ 2 con số giảm xuống 1 con
số và đạt được điểm ổn định ở mức 4% ở giai đoạn từ 2016 đến 2020.
Có thể thấy tại biểu đồ thể hiện tỷ lệ lạm phát Việt Nam trong giai đoạn 2010 đến 2020, tỷ lệ lạm phát cao
nhất chiếm 18.58% vào năm 2011.
Trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015, Nhà nước đã áp dụng chặt chẽ và đồng bộ chính sách tiền tệ,
tài khóa. Bên cạnh đó thúc đẩy quá trình sản xuất, gia tăng số lượng hàng xuất khẩu và kiểm soát
nhập siêu,... Từ đó, tình hình có chuyển biến tích cực hơn, tình trạng lạm phát có xu hướng giảm và
đạt mức thấp nhất vào năm 2015 là 0.63%.
Trong giai đoạn 2016 đến 2020, tình trạng kinh tế ổn định nên tỷ lệ lạm phát của Việt Nam luôn ở mức 4%.
2.2 Tác động lạm phát đến nền kinh tế
2.2.1 Giai đoạn năm 2010 và 2011
Dấu hiệu của tính quy luật chỉ còn rất mờ nhạt, diễn biến chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2011 nổi trội ở hai đột biến
Diễn biến CPI các tháng năm 2010 và 2011. Lạm phát cả năm chốt ở mức tăng 18,13% ghi nhận sự “đi
hoang” của dòng tiền, khi không tạo được đột phá về tăng trưởng nhưng lại thúc ép lạm phát đạt các kỷ lục mới.
Dấu hiệu của tính quy luật chỉ còn rất mờ nhạt, diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong năm 2011
nổi trội ở hai đột biến, đến từ các mức tăng kỷ lục mới trong tháng 4 và tháng 7.
Trên nền cơ bản được tạo lập bởi 12 tháng cùng tăng, đường biểu diễn chỉ số giá như hình cờ đuôi
nheo, tiệm cận dần tới mốc 0% về cuối. Mức chênh lệch giữa tháng tăng cao nhất với tháng tăng thấp
nhất tới gần 3 điểm phần trăm.
Lạm phát cả năm chốt ở mức tăng 18,13% ghi nhận sự “đi hoang” của dòng tiền, khi không tạo được đột
phá về tăng trưởng nhưng lại thúc ép lạm phát đạt các kỷ lục mới. Chia bình quân, CPI mỗi tháng
trong năm nay tương ứng với mức tăng khoảng 1,4%, chỉ còn thấp hơn chút ít so với 2008.
Khi vài ngày cuối cùng đang khép lại dần, những “tàn dư” từ lạm phát như lãi suất còn cao, tỷ giá
chưa thật ổn định, hay chính sách vĩ mô sẽ siết thêm năm nữa… khiến yếu tố lòng tin chưa dễ tạo
dựng. Tồn tại trong một năm tăng trưởng hạn chế là hai trạng thái cảm nhận: lo âu tăng dần đầu năm và bất
an cuối năm gắn với lạm phát đang “ngóc đầu” dậy.
2.2.1.1 Giai đoạn đột biến thứ nhất: Tăng sau Tết
Liên tiếp tăng tốc và đạt đỉnh vào cuối năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng tháng 1/2011 bất ngờ giảm
tốc nhẹ xuống mức tăng 1,74% so với tháng trước. Nhiều nhận định khi đó đã lạc quan cho rằng, xu
hướng này là tích cực, có thể là một mở đầu thuận lợi cho một năm mà Chính phủ đặt quyết tâm kiềm
chế lạm phát ngay từ đầu, với chỉ tiêu “khắc nghiệt” chỉ có 7%.
Thị trường chứng khoán đón thông tin tích cực, VN-Index tăng điểm liên tục và đạt đỉnh của năm vào
ngày 9/2, ở mốc hơn 522 điểm vào lúc đóng cửa, cũng là mức cao nhất kể từ tháng 5/2010.
Tuy nhiên việc chỉ số giá tiêu dùng tháng 1 phá vỡ xu hướng tăng tốc chỉ là điều chỉnh trong ngắn hạn.
Tăng lương tối thiểu vùng từ ngày 1/1, tiền thưởng Tết về túi người tiêu dùng, lượng kiều hối nhiều hơn,
hay tổng tiền gửi giảm trên dưới 3% trong hai tháng trước Tết… Bộ Tài chính khi đó nhìn nhận, sức
mua của các tầng lớp dân cư trong dịp Tết Tân Mão tăng khoảng 20% - 25% so với cùng kỳ năm trước.
CPI tháng 2 ngay lập tức đảo chiều tăng 2,09% so với tháng trước đó. Căn cứ vào mức tăng so với
cuối năm trước đã ở mức gần 4%, tức là hết quá nửa room của chỉ tiêu lạm phát cả năm, lo lắng lại
thường trực. Thị trường chứng khoán đón tin sớm từ giữa tháng 2 đã “đổ đèo” và lập đáy đầu tiên trong
năm ở mức VN-Index khoảng 452 điểm vào ngày 3/3.
- Một chuỗi sự kiện đáng nhớ gắn với giai đoạn lạm phát biến động này, liên quan đến thay đổi chính
sách tiền tệ và tài khóa:
Ngày 11/2, Ngân hàng Nhà nước quyết định tăng mạnh tỷ giá USD/VND tới 9,3%. Nỗ lực giữ ổn
định tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước vào trước đó đã khiến dự trữ ngoại hối tại thời điểm quý 1/2011
chỉ còn lại tương đương 3,5 tuần nhập khẩu. Tuy nhiên, căng thẳng ngoại tệ không thuyên giảm,
chênh lệch tỷ giá chính thức và chợ đến lên đến 10% là nguyên nhân chính dẫn tới việc điều chỉnh tỷ giá nói trên.
TS. Cao Sỹ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước khi đó nói trên VnEconomy: “Tăng như
thế thì sẽ kích thích lạm phát và đẩy giá lên. Và khi mà lạm phát tăng lên thì lãi suất một là không
giảm được, hai là cũng phải tăng lên”.
Cuộc khảo sát lần thứ 5 về chỉ số tin cậy thương mại của Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải
(HSBC) được tiến hành từ 17/2 đến 30/3/2011 cũng phản ánh góc nhìn của doanh nghiệp về vấn đề
này. Nhiều doanh nghiệp cho rằng tỉ giá hối đoái không có lợi cho kinh doanh. Đồng thời, khi lạm
phát tiếp tục tăng cao trong nửa đầu năm 2011, lãi suất tăng cao trở thành mối quan ngại lớn thứ hai của các doanh nghiệp.
Thêm vào diễn biến đáng quan ngại này, ngày 24/2, tại cuộc họp Chính phủ với các địa phương,
giá xăng dầu được điều chỉnh tăng gần 20%, điện tăng 15,28%... Ông Nguyễn Sinh Hùng, lúc đó là
Phó thủ tướng Chính phủ đã dùng cụm từ “tình hình cấp bách” để truyền đạt đi các biện pháp vĩ mô
nhằm ổn định lại lạm phát.
Nghị quyết 11 ra đời cùng ngay với hàng loạt chỉ tiêu được điều chỉnh lớn: với tiền tệ, tăng trưởng tín
dụng rút xuống mức dưới 20% thay vì 23%, tổng phương tiện thanh toán cũng áp chỉ tiêu mới ở mức
khoảng 15-16%. Với chính sách tài khóa, bội chi so với GDP từ mức 5,3% giảm về mục tiêu mới
dưới 5%, chi tiêu thường xuyên giảm 10% trong 9 tháng cuối năm. Chính phủ cũng đặt mục tiêu kéo
thấp tổng đầu tư xã hội xuống còn khoảng 38-39% GDP…
Quả thực, sau đó tình hình cấp bách đúng như lời ông Hùng. Lạm phát liên tiếp bị đẩy lên, CPI theo
tháng tăng 2,17% vào tháng 3. Chưa kịp hết ngỡ ngàng về sự gia tốc sau Tết Nguyên đán, CPI lập
tức đạt đỉnh vào tháng 4 ở mức 3,32%, cao nhất trong 3 năm trở lại đây. Đến lúc này, CPI so với cuối
năm trước đã tăng 9,64%, vượt xa mục tiêu 7%, hiện thực hóa nỗi lo lạm phát.
Trong một báo cáo phát đi ngày 26/4, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhìn nhận: “Lạm phát tăng cao gây
khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tâm lý lo lắng trong nhân dân…”.
Dù giảm đôi chút ở tháng sau đó, nhưng con số CPI tháng 5 tăng 2,21% thực sự làm phát hoảng
dòng tiền trên thị trường chứng khoán. Bởi lẽ, dù là hạ nhiệt nhưng mức độ tăng rất cao, so với một
tháng trước là đỉnh lạm phát, quan điểm lạc quan nhất cũng không thể trụ vững.
Phản ánh trên thị trường chứng khoán, Vn-Index hạ thẳng cánh một đường gọn. Từ ngày 13/5 đến
25/5, chỉ số giá chứng khoán mất gần 100 điểm, xuống đáy 386 điểm lúc đóng cửa. Nhiều dự báo
khi đó cho rằng, lạm phát đạt đỉnh vào quý 3/2011
Trong giai đoạn này, quyết tâm kiềm chế lạm phát lớn dần theo các con số về chính sách tài khóa, tiền
tệ báo cáo lên Chính phủ. Tại cuộc họp Chính phủ tháng 4, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, số vốn đầu
tư dự kiến cắt giảm trong năm nay là 79.262 tỷ đồng, bằng khoảng 9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2011.
Trong khi đó, thông tin về các chỉ tiêu của chính sách tiền tệ cũng được Ngân hàng Nhà nước cập
nhật, tổng phương tiện thanh toán tính đến 20/5 mới là 1,59% so với cuối năm 2010, rất thấp so với
nhiều năm trước; tín dụng tăng tương ứng 6,16%.
Phản ứng lại trước các điều chỉnh, CPI tháng 6 hạ nhiệt, xuống mức tăng 1,09%, khép lại nửa đầu năm đầy sóng gió.
2.2.1.2. Giai đoạn thứ 2: đưa vào ổn định
Ở giai đoạn “gập ghềnh” nhất, nhiều nghiên cứu cho thấy kinh tế Việt Nam đang ở vào tình thế khó khăn
hơn trước rất nhiều. “Nền kinh tế trước ngã ba đường”, vào tháng 5/2011, Đại học Kinh tế (Đại học Quốc
gia Hà Nội) công bố một báo cáo có tiêu đề như vậy.
Nhìn nhận lại các năm qua, nhóm nghiên cứu cho rằng kinh tế Việt Nam đang khó khăn hơn 2008 với
thâm hụt ngân sách sâu khiến chính sách tài khóa kém linh hoạt; lãi suất đã quá cao không thể trở
thành công cụ điều tiết hữu hiệu; dự trữ ngoại hối mỏng khó can thiệp; tâm lý thị trường không ổn định…
Cũng khi ấy, TS. Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương
(CIEM) cho rằng, các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đang đối mặt 4 vấn đề: rủi ro thiếu thanh
khoản; rủi ro sai lệch cơ cấu đồng tiền; rủi ro nợ xấu; và rủi ro tổng dư nợ với thị trường bất động sản.
Nhiều lần, vị chuyên gia từ CIEM cũng phân tích rằng, trong các kiểu khủng hoảng như tăng
trưởng nóng kèm lạm phát cao; giảm GDP và lạm phát thấp; với tăng trưởng thấp lạm phát cao thì
kiểu sau cùng là đối phó khó khăn nhất.
Đó lại đúng là tình trạng năm nay của Việt Nam. Đáng buồn hơn, khi mà chính sách tiền tệ căng hết
mức nhưng vướng các rủi ro nói trên, chính sách tài khóa còn nhiều khoảng trống để địa phương lách chủ trương chung.
Nhưng đó là việc sau này nhìn lại. Tại thời điểm giữa năm, sức căng của nền kinh tế bắt đầu bộc lộ. Tiếp
bước trong quý 3, CPI so với cùng kỳ bò dần tới đỉnh 23,02% vào tháng 8. Nhưng ngược lại,
sản xuất ngày càng khó khăn.
“So với 2008, năm nay độ khó khăn còn gấp nhiều lần”, cuối tháng 6/2011, Chủ tịch Hiệp hội Bất
động sản Tp.HCM Lê Hoàng Châu nói trên VnEconomy. Nhưng, bất động sản không chỉ là ngành
duy nhất. Chỉ số sản xuất công nghiệp IIP được Tổng cục Thống kê công bố hàng tháng cho thấy,
trong các tháng 6,7 và 9, chỉ số này khá đuối.
Trong dịp sơ kết 6 tháng, Bộ Tài chính nhìn nhận, do khó khăn sản xuất đã làm giảm nghĩa vụ đóng
góp cho ngân sách nhà nước. Còn thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Văn Trung, tại một cuộc
họp vào tháng 10 cho biết, trong số khoảng 57 nghìn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, có tới 47
nghìn được xác định đã ngừng hoạt động.
Cho nên, sang nửa thứ hai của năm, nền kinh tế ở vào thời khắc “nao núng” với con đường đang chọn:
chấp nhận giảm tăng trưởng để kiềm chế lạm phát. Ở các cuộc họp thường kỳ Chính phủ thời gian này,
một số điều chỉnh đã xuất hiện, đáng chú ý là việc như mở ra chủ trương xem xét điều tiết cơ cấu tín dụng
cho bất động sản, hay nới thêm một lần nữa mục tiêu kiểm soát lạm phát lên 17%, rồi 18%...
Kể từ đầu tháng 7, bắt đầu có sự điều chỉnh trên thị trường liên ngân hàng. Từ trạng thái
liên tục hút ròng trước đó, tháng đầu quý 2 trên OMO đã có những tuần cân bằng giữa bơm và hút, đến
tháng 9 bắt đầu có bơm ròng.
Tổng phương tiện thanh toán cũng tăng tốc hơn trước, trong khi tín dụng duy trì mức tăng trưởng thấp.
Cho đến cuối năm, Ngân hàng Nhà nước ước tính, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 10%,
tín dụng tăng khoảng 12%.
Khi mà sản xuất tồn kho lớn, các kênh đầu cơ không thể hút nổi dòng tiền đang quay lưng trước các cơ
hội đầu tư đầy rủi ro, việc đổ thêm tiền dường như đã chuyển ngược lên thị trường tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ thiết yếu.
Ngay lập tức, lạm phát “đáp trả”. Đầu tháng 7, giá thịt gia súc, gia cầm, thủy sản và rau xanh tại Hà
Nội tăng đột biến, có nhiều loại gấp rưỡi, gấp đôi chỉ trong ít ngày. Sau đó, CPI tháng 7 cũng rẽ
ngoặt “nấc” lên mức tăng mới 1,17%.
Tuy nhiên, cũng từ thời điểm này, chỉ số giá tiêu dùng bắt đầu đi xuống thấy rõ. Đến cuối năm, CPI đẩy
lạm phát trở lại với mức tăng theo tháng của các giai đoạn ổn định trước đây, với 3 tháng quý 4 tăng dưới 0,6%.
Hỗ trợ xu hướng giá này, tổng mức bán lẻ đã loại trừ yếu tố giá trong năm nay tăng khoảng 4-5%, mức
khá thấp so với các năm trước đây, có giai đoạn ở mức 13-15%. Nhưng những cú sốc đến từ tăng học
phí trong tháng 9, hay vàng tháng 10 khiến đôi lúc khoảng lặng của lạm phát không tạo được ổn định cho tâm lý thị trường.
Sự lạc quan của nhà đầu tư dường như chỉ được thổi lên trong giai đoạn đầu tiên khi CPI phá vỡ mức
cản tăng 1% ở tháng 8. Vn-Index vọt lên trong khoảng thời gian tính CPI tháng 9, tăng từ 384-467
điểm, còn lại đa phần là giảm điểm.
Ở giai đoạn này, tăng trưởng sản lượng của nền kinh tế, yếu tố quan trọng để cân bằng tiền
- hàng, vẫn chưa phục hồi đáng kể. Tháng 7/2011, Bộ Công Thương phát đi lưu ý rằng, một số ngành
hàng công nghiệp chế biến “cần thận trọng hơn khi lập kế hoạch sản xuất”. Lý do được Bộ này đưa ra là
do tồn kho tăng cao. Thực tế là đến cuối năm, chỉ số tồn kho công nghiệp chế biến (tại thời điểm 1/12)
so với cùng kỳ đã tăng lên mức 23%.
Tại thời điểm này nhìn lại, tăng trưởng GDP theo giá thực tế ước tính khoảng 24-25%, cho thấy tăng
trưởng tổng phương tiện thanh toán, tín dụng có hỗ trợ giảm tổng cầu. Nhưng chi ngân sách so với năm
trước, nếu không tính thu chuyển nguồn như quy định cho năm nay, tăng tới 27,5% so với thực hiện
năm 2010, không cho thấy nỗ lực tiết giảm chi tiêu công.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ khi trả lời báo chí gần đây có giải thích đại ý là do các địa phương
thu cao được để lại ngân sách địa phương, tự tăng chi nên con số chi ngân sách năm nay vượt dự toán của năm trước.
Còn trong một hội nghị về đầu tư gần đây, khi Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh hỏi ý
kiến lãnh đạo các tỉnh trong về chủ trương cắt giảm đầu tư, không tỉnh nào phản đối. Nhưng phía dưới
hội trường, đại diệt một số tỉnh “nói nhỏ” rằng cái chính là “mình thực hiện thế nào”.
Chưa thể nhất quán trong hệ thống chính trị về nhiệm vụ kiểm soát lạm phát, thị trường chưa thể an
tâm với con số CPI tháng 12 tăng 0,53%. Giá điện vừa tăng 5%, tính toán sơ bộ cho thấy tác động
tăng CPI 0,3%, làm giảm GDP 0,04% và điều chỉnh này sẽ dồn cả vào năm tới.
2.2.2 Giai đoạn 2011 đến năm 2015
Đáng nói đến nhất chính là giai đoạn 2011 đến năm 2015, thời kỳ có tỷ lệ lạm phát được giữ ở mức thấp nhất
một cách ổn định. Tình hình lạm phát ổn định ở mức thấp nhất dẫn đến: ·
Nền kinh tế vĩ mô hoạt động ổn định. ·
Thị trường ngoại hối, tỷ giá ổn định. ·
Dự trữ ngoại hối có sự tăng lên đạt mức kỷ lục. ·
Tính thanh khoản của các hệ thống ngân hàng được cải thiện hơn.
Cũng chính trong giai đoạn 2011 đến năm 2015, các công cụ chính sách tiền tệ (CSTT) được điều
hành chủ động, linh hoạt hơn bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Bên cạnh đó còn kết hợp chặt chẽ với
các chính sách tiền tệ, tài khóa phù hợp để kiểm soát và đưa tỷ lệ lạm phát từ mức cao 23% (tháng
8/2011) xuống lần lượt 6.81% (năm 2012) dần dần giảm đến 0.63% (năm 2015). Đây là một sự sụt
giảm đáng mong đợi cho nền kinh tế nước nhà.
Con số tỷ lệ lạm phát 0.63% là một con số đáng kinh ngạc, một mức lạm phát thấp nhất kể từ khi Việt
Nam bắt đầu tính toán mức lạm phát. Dựa vào Tổng cục Thống kê, nguyên nhân chủ yếu do giá xăng
dầu trên thế giới giảm mạnh dẫn đến mức tỷ lệ lạm phát năm 2015 đạt mức xuống thấp.
2.2.3 Giai đoạn năm 2019 - 2020
Năm 2020 là năm đại dịch Covid - 19 có những chuyển biến phức tạp, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự tăng
trưởng của các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.
Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam về cơ bản bình quân năm 2020 có tăng nhẹ 2.31% so với bình quân năm
2019. Điều này đã đạt được mục tiêu Quốc hội đề ra là dưới 4%. Đối với nền kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã
điều hành, chỉ đạo đúng đắn và kịp thời để được Việt Nam tăng trưởng tích cực hơn với những chỉ số vĩ mô được đảm bảo.
Về phía mỗi cá nhân, bạn cần chủ động tạo thói quen tích lũy từ sớm để hạn chế những rủi ro khi lạm phát
xảy ra. Hình thức gửi tiết kiệm online cũng được nhiều nhà đầu tư lựa chọn trong thời điểm này. Bạn có
thể tham khảo gói Tích lũy lên đến 8.5%/Năm tại sản phẩm Heo Thần Kỳ. Đây được xem là mức lãi suất
cạnh tranh so với gửi tại quầy ngân hàng và được nhiều nhà đầu tư lựa chọn.
3 Chương 3: Phương hướng giải quyết của chính phủ
3.1 Nguyên nhân tình hình lạm phát Năm 2011
Tỷ lệ lạm phát năm 2011 cao phi mã, chạm mốc 18,58%. Đây là mức lạm phát cao nhất trong
vòng 11 năm kể từ 2010 đến 2020. .
Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lạm phát phi mã giai đoạn 2010 – 2011 gồm có các nguyên nhân chính sau đây:
Sự chênh lệch giữa sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng
Nền kinh tế mỗi thời kỳ đều theo đuổi một lượng sản lượng tiềm năng nhất định. Theo đó, khi chạm tới
mức sản lượng tiềm năng này, nền kinh tế sẽ đạt cân bằng cung cầu và ổn định giá cả. Tuy nhiên, trong
giai đoạn 2010 – 2011, sản lượng thực tế đã tăng mạnh vượt quá sản lượng tiềm năng. Điều này gián
tiếp khiến cho lạm phát tăng cao.
Chi tiêu Chính phủ tăng cao
Chi tiêu Chính phủ tăng liên tục kéo theo tổng cầu tăng. Đây là một trong số những nguyên nhân phổ
biến gây ra lạm phát. Trong giai đoạn 2001-2010, chi tiêu Chính phủ đã gia tăng liên tục từ mức
24,4% GDP năm 2001 lên 37,2% GDP năm 2007. Con số này cao báo động trong bối cảnh tổng
thu ngân sách vẫn ở mức thấp.
Tăng trưởng cung tiền và tín dụng nóng
Từ năm 2005 đến 2010, cung tiền và dư nợ tín dụng của Việt Nam tăng trưởng nóng. Bình quân tốc độ
tăng trưởng là 30%/năm. Lượng tiền lưu thông lớn trong khi lượng sản phẩm trong nước không gia tăng
tương ứng dẫn đến lạm phát cao.
Tình trạng nhập siêu
Theo thống kê của GSO, năm 2011 chứng kiến tình trạng nhập siêu. Trong đó trên 87% hàng hóa
nhập khẩu là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trong nước. Ví dụ như: sắt thép, vải, phân bón, linh
kiện điện tử,… Giá hàng nhập khẩu cao khiến giá hàng hóa trong nước cũng tăng mạnh tương ứng.
Việc lệ thuộc nhiều vào các hàng hóa nhập khẩu cũng gián tiếp làm gia tăng lạm phát. Giai đoạn 2011 – 2015
Trong giai đoạn này, các chính sách kinh tế được áp dụng một cách hài hòa. Cụ thể là các chính
sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt, gia tăng sản xuất, khuyến khích xuất khẩu và kiểm soát nhập
khẩu… Nhờ đó tác động tích cực lên nền kinh tế và giảm lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát đạt mức thấp kỷ lục 0,63% năm 2015. 0,63% là một con số đáng kinh ngạc, một mức lạm
phát thấp nhất kể từ khi Việt Nam bắt đầu tính toán mức lạm phát. Tổng cục Thống kê, nguyên nhân chủ
yếu do giá xăng dầu trên thế giới giảm mạnh dẫn đến mức tỷ lệ lạm phát năm 2015 đạt mức xuống thấp. Giai đoạn 2016 – 2020
Nền kinh tế được điều hành chặt chẽ nên tỷ lệ lạm phát luôn ổn định ở mức 4%. Năm 2020 là năm đại
dịch Covid – 19 có những chuyển biến phức tạp, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự tăng trưởng của các
lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.
3.2 Giải pháp và các chính sách ứng phó với tình hình
lạm phát cao vào năm 2011
Ngày 17/08/2011, Bộ Tài chính đã công bố các giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát
năm 2011 ở mức 17%, ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung vào 6 giải pháp như sau:
Thứ nhất, tập trung giải quyết các vấn đề từ gốc của giá cả là chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của
nền kinh tế, hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ hai, kiên định thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm khống chế tổng cầu của nền kinh tế mà
Nghị quyết 11/NQ-CP đã đề ra.
Thứ ba, bảo đảm cân đối cung-cầu hàng hoá, dịch vụ trong mọi tình huống, trước hết là các mặt
hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống, không để xảy ra thiếu hàng sốt giá. Sắp xếp lại tổ chức mạng
lưới lưu thông hợp lý, tránh đẩy chi phí lưu thông tăng cao. Rà soát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc và có các giải pháp hỗ trợ phù hợp về tiếp cận vốn, lãi suất, thuế… cho sản xuất kinh doanh, góp
phần thúc đẩy sản xuất phát triển để tăng cung cho thị trường, giảm chi phí tạo ra cơ hội giảm sức ép đẩy giá tăng.
Thứ tư, thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát thị trường, ngăn chặn các hành vi gian lận
thương mại, đầu cơ găm hàng thao túng thị trường giá cả. Tiếp tục thực hiện các biện pháp quản lý
thị trường vàng, thị trường ngoại hối.
Thứ năm, thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; tiếp tục có lộ trình thích hợp để xoá bao cấp
qua giá đối với các loại hàng hoá dịch vụ còn bao cấp và phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát
như: điện, xăng dầu, nước sạch, than bán cho điện… Đồng thời, bộ sẽ có các giải pháp hỗ trợ hợp lý đối
với những ngành sản xuất gặp khó khăn, hỗ trợ đối với người nghèo, người có thu nhập thấp, thực
hiện các chính sách an sinh xã hội.
Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương biện pháp bình ổn giá, kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bảo đảm an sinh xã hội, tạo ra sự đồng thuận trong xã hội, giảm
thiểu các yếu tố tâm lý, kỳ vọng tăng giá trên thị trường.