Tiểu luận KTCT - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU
Tiểu luận KTCT - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 44879730
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------
ĐỀ TÀI: Vai trò Nhà nước trong việc đảm bảo hài hòa
Họ và tên SV: Phạm Như Quỳnh
Lớp tín chỉ: Tài chính Tiên tiến 64B Mã SV: 11225573
GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU HÀ NỘI, NĂM 2023 lOMoAR cPSD| 44879730 MỤC LỤC
MỤC LỤC ..........................................................................................................1
ĐẶT VẤN ĐỀ .....................................................................................................1
NỘI DUNG .........................................................................................................2
I. Lý luận về lợi ích kinh tế ...........................................................................2
1. Khái niệm lợi ích kinh tế và ví dụ về lợi ích kinh tế ..........................2
2. Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế ............................................3
3. Vai trò của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế - xã hội ...........4
II. Vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế ở
Việt Nam ........................................................................................................5
1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm
kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế ........................................................5
2. Điều hòa lợi ích giữa cá nhân - doanh nghiệp - xã hội .......................6
3. Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối
.................................................................................................................7
với sự phát triển xã hội ...........................................................................7
4. Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế ................8
III. Liên hệ thực tiễn ......................................................................................9
1. Những thành tựu Việt Nam đã đạt được ....................................................9
2. Một số hạn chế .........................................................................................12
3. Một số giải pháp đề xuất .........................................................................12
KẾT LUẬN .......................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................14 ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nền kinh tế thị trường ở các nước trên thế giới và nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, lợi ích kinh tế là vấn
đề đang được quan tâm. Để phát triển nền kinh tế bền vững, Đảng ta xác định:
“Bảo đảm lợi ích, sự kết hợp hài hòa các lợi ích và phương thức thực hiện lợi 1 lOMoAR cPSD| 44879730
ích công bằng, hợp lý cho mọi người, cho các chủ thể, nhất là lợi ích kinh tế”.
Việc giải quyết các quan hệ lợi ích một cách hài hòa, chính là tạo động lực cho
sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Vì vậy, phân tích để nhận thấy
rõ tầm quan trọng của Nhà nước và thị trường trong việc bảo đảm hài hòa các lợi
ích kinh tế, nhằm gia tăng thu nhập cho các chủ thể kinh tế; hạn chế mâu thuẫn,
tăng cường sự thống nhất; xử lý kịp thời khi có xung đột là rất cần thiết.
Đây là bài tiểu luận tôi đã nghiên cứu và tổng hợp về đề tài “Vai
trò của Nhà nước trong việc đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế ở Việt Nam”,
từ đó ta hiểu rõ khái niệm về lợi ích kinh tế, thấy được vai trò của Nhà nước
trong đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế, và liên hệ với thực tiễn nền kinh
tế Việt Nam những năm gần đây.
Bài tiểu luận được giới hạn trong 3 phần chính:
I. Lý luận về lợi ích kinh tế
II. Vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế ở Việt Nam III. Liên hệ thực tiễn NỘI DUNG
I. Lý luận về lợi ích kinh tế
1. Khái niệm lợi ích kinh tế và ví dụ về lợi ích kinh tế
a. Khái niệm lợi ích kinh tế
Lợi ích là sự thỏa mãn nhu cầu của con người mà sự thỏa mãn nhu cầu
này phải được nhận thức và đặt trong mối quan hệ xã hội ứng với trình độ phát
triển nhất định của nền sản xuất xã hội đó.
Để tồn tại và phát triển, con người cần được thỏa mãn các nhu cầu vật
chất cũng như nhu cầu tinh thần. Trong mỗi điều kiện lịch sử, tùy từng bối cảnh
mà vai trò quyết định đối với hoạt động của con người là lợi ích vật chất hay lợi
ích tinh thần. Nhưng xuyên suốt quá trình tồn tại của con người và đời sống xã lOMoAR cPSD| 44879730
hội thì lợi ích vật chất đóng vai trò quyết định, thúc đẩy hoạt động của mỗi cá
nhân, tổ chức cũng như xã hội.
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt
động kinh tế của con người.
b. Ví dụ về lợi ích kinh tế
Ví dụ lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Có thể thấy lực lượng sản xuất và năng suất lao động trong lĩnh vực nông
thôn của Hà Nội còn thấp, trong khi đó, công nghệ hóa - hiện đại hóa xác định
chuyển đổi căn bản, toàn diện hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ quản lý từ
sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng lao động cùng với công nghệ,
phương tiện máy móc kỹ thuật hiện đại, tiên tiến.
Lợi ích kinh tế của nông dân chính là nhu cầu được chuyển đổi từ sử dụng
lao động thủ công sang lao động sử dụng công nghệ tạo ra năng suất lao động
hiệu quả. Lợi ích kinh tế của nông dân là tổng thể những nguồn thu từ hoạt động
kinh tế của họ để đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt cho mọi thành viên trong
gia đình. Trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân,
người dân vừa là chủ thể tiến hành, vừa là người trực tiếp thụ hưởng thành quả
của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Chính người nông dân trực tiếp
giải quyết lợi ích cho chính mình thông qua phát triển sản xuất kinh doanh, tăng
thu nhập, cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho bản thân và gia đình.
2. Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế a. Về bản chất -
Lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa các
chủthể trong nền sản xuất xã hội. Ph. Ăngghen đã viết: “Những quan hệ kinh tế
của mội xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích.” -
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, do quan hệ sản xuất
quyết định. Không có lợi ích kinh tế nằm ngoài những quan hệ sản xuất mà nó
là sản phẩm của những quan hệ sản xuất. 3 lOMoAR cPSD| 44879730 -
Do các quan hệ xã hội luôn mang tính lịch sử, nên lợi ích kinh tế trong
mỗigiai đoạn cũng phản ánh bản chất xã hội của giai đoạn lịch sử đó. b. Về biểu hiện -
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ kinh tế và quy luật kinh
tế.Trong thực tế, lợi ích kinh tế thông thường sẽ được biểu hiện ở các hình thức
thu nhập cụ thể: Tiền lương, tiền công, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, thuế, phí, lệ phí
và các hình thức cụ thể khác. -
Gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau là những lợi ích tương ứng: lợi ích
củachủ doanh nghiệp trước hết là lợi nhuận, lợi ích người lao động là thu nhập.
Tất nhiên, mỗi cá nhân, trong các mối quan hệ xã hội tổng hợp gắn với con người
đó, mặc dù có khi thực hiện hoạt động kinh tế trọng nhất thời, không phải luôn
đặt mục tiêu lợi ích vật chất lên hàng đầu. Song về lâu dài, đã tham gia vào hoạt
động kinh tế thì lợi ích kinh tế là lợi ích quyết định. Nếu không thấy được vai trò
của lợi ích kinh tế sẽ làm suy giảm động lực hoạt động của các cá nhân. - Khi đề
cập tới phạm trù lợi ích kinh tế có nghĩa rằng lợi ích đó được xác lập trong quan
hệ nào, vai trò của các chủ thể trong quan hệ đó thể hiện chủ thể đó biểu hiện
như thế nào. Ví dụ họ là chủ sở hữu, hay nhà quản lý, là lao động làm thuê hay
trung gian; ai là người thụ hưởng lợi ích, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ
thể đó, biện pháp thực hiện là gì... Trong nền kinh tế thị trường, ở đâu có hoạt
động sản xuất kinh doanh, lao động ở đó có quan hệ lợi ích và lợi ích kinh tế.
3. Vai trò của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế - xã hội
a. Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động kinh tế- xã hội
Trong nền kinh tế thị trường, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu
cầu vật chất tùy thuộc vào mức thu nhập. Thu nhập càng cao, phương thức và
mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất càng tốt. Chính vì vậy, mọi chủ thể kinh
tế đều phải hành động để nâng cao thu nhập của mình, từ đó xây dựng cơ sở bảo
đảm cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là những lời mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.” Hay như quan điểm của Đảng lOMoAR cPSD| 44879730
Cộng sản Việt Nam: “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm dân là gốc,
vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần
trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh
đại đoàn kết dân tộc.”
Về khía cạnh kinh tế, tất cả các chủ thể kinh tế đều hành động trước hết
vì lợi ích chính đáng của mình. Theo đuổi lợi ích kinh tế chính đáng của mình,
các chủ thể kinh tế đã đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế, thúc đẩy sự
phát triển của lực lượng sản xuất, và nâng cao đời sống của người dân.
b. Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác
Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất còn phụ thuộc vào
địa vị của con người trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội. Vì vậy, để thực hiện
được lợi ích của mình, các chủ thể kinh tế phải đấu tranh với nhau để thực hiện
quyền làm chủ tư liệu sản xuất.
Mọi vận động của lịch sử, dù dưới hình thức nào, xét đến cùng, đều xoay
quanh vấn đề lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều kiện vật chất cho sự hình thành
và thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích văn hóa của các chủ thể xã
hội. Lợi ích kinh tế mang tính khách quan và là động lực mạnh mẽ để phát triển
kinh tế - xã hội. Theo C.Mác: ”Cội nguồn phát triển của xã hội không phải là
quá trình nhận thức mà là các quan hệ của đời sống vật chất, tức là lợi ích kinh
tế của con người.”
II. Vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế ở Việt Nam
1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm
lợi ích của các chủ thể kinh tế
Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng diễn ra trong một môi trường nhất
định. Môi trường càng thuận lợi, các hoạt động kinh tế càng hiệu quả và không
ngừng mở rộng. Môi trường vĩ mô thuận lợi không tự hình thành mà phải được
nhà nước tạo lập. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, trước 5 lOMoAR cPSD| 44879730
hết là giữ vững ổn định về chính trị. Tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị là góp
phần bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế ở Việt Nam.
Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải xây
dựng được môi trường pháp luật thông thoáng, bảo vệ được lợi ích chính đáng
của các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước, đặc biệt là lợi ích của đất nước.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hệ thống pháp luật của mỗi
quốc gia còn phải tuân thủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu phải đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế, bao gồm: hệ thống đường bộ, đường
sắt, đường sông, đường hàng không…; hệ thống cầu cống; hệ thống điện, nước;
hệ thống thông tin liên lạc… Nhờ phát triển kết cấu hạ tầng được coi là một trong
ba đột phá lớn, trong những năm vừa qua, kết cấu hạ tầng của nền kinh tế nước
ta đã được cải thiện rất đáng kể, đáp ứng nhu cầu của các hoạt động kinh tế. Môi
trường vĩ mô về kinh tế đòi hỏi Nhà nước phải đưa ra được các chính sách phù
hợp với nhu cầu của nền kinh tế trong từng giai đoạn. Thực tế cho thấy các chính
sách kinh tế của Việt Nam đang từng bước đáp ứng yêu cầu này.
Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế còn là tạo lập môi
trường văn hóa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường. Đó là môi
trường trong đó con người năng động, sáng tạo; tôn trọng kỷ cương, pháp luật; giữ chữ tín…
2. Điều hòa lợi ích giữa cá nhân - doanh nghiệp - xã hội
Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể và tác động của các quy
luật thị trường , sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho lợi
ích kinh tế của một bộ phận dân cư được thực hiện rất khó khăn, hạn chế. Vì vậy,
nhà nước cần có các chính sách, trước hết là chính sách phân phối thu nhập nhằm
bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường, một mặt,
phải thừa nhận sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các tập thể, các cá nhân là
khách quan, nhưng mặt khác phải ngăn chặn sự chênh lệch thu nhập quá đáng.
Sự phân hóa xã hội thái quá có thể dẫn đến căng thẳng, thậm chí xung đột xã hội.
Đó là những vấn đề mà chính sách phân phối thu nhập cần phải tính đến. lOMoAR cPSD| 44879730
Phân phối không chỉ phụ thuộc vào quan hệ sở hữu, mà còn phụ thuộc
vào sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao, hàng hóa, dịch
vụ càng dồi dào, chất lượng càng tốt, thì thu nhập của các chủ thể càng lớn. Do
đó, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ sẽ
góp phần nâng cao thu nhập cho các chủ thể kinh tế. Đó chính là những điều kiện
vật chất để thực hiện ngày càng đầy đủ sự công bằng xã hội trong phân phối.
3. Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với
sự phát triển xã hội
Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của phân phối thu nhập. Phân phối công
bằng, hợp lí góp phần quan trọng đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế. Do đó, Nhà
nước phải tích cực, chủ động thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập.
Hiện nay, công bằng trong phân phối có hai quan niệm chính: - Công bằng
theo mức độ (căn cứ vào mức thu nhập mà mỗi chủ thể nhận được).
- Công bằng theo chức năng (căn cứ vào mức đóng góp trong quá trình tạo ra thu nhập).
Mỗi quan niệm đều có ưu điểm và nhược điểm, vì vậy cần sử dụng kết
hợp cả hai quan niệm này. Nhà nước phải chăm lo đời sống vật chất cho mọi
người dân, phải đảm bảo người dân đạt được mức sống tối thiểu ở mỗi giai đoạn
phát triển bằng cách thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói, giảm nghèo,
khắc phục tư tưởng bao cấp, ỷ lại; chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội, vận
động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn;
đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo, từ thiện, giúp đỡ người nghèo, đồng bào các
vùng gặp thiên tai… Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích người dân
làm giàu hợp pháp, tạo điều kiện và giúp đỡ họ bằng mọi biện pháp. Về nguyên
tắc, người dân được làm tất cả những gì luật pháp không cấm; luật pháp chỉ cấm
những hoạt động gây tổn hại lợi ích quốc gia và các lợi ích hợp pháp khác.
Người lao động và người sử dụng lao động phải có nhận thức và hành
động đúng trong lĩnh vực phân phối thu nhập để lợi ích kinh tế thật sự là động
lực của các hoạt động kinh tế. Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức,
hiểu biết về phân phối thu nhập cho các chủ thể kinh tế - xã hội là những giải
pháp rất cần thiết để loại bỏ những đòi hỏi không hợp lý về thu nhập. Trong 7 lOMoAR cPSD| 44879730
trường hợp người lao động và người sử dụng lao động không tự nhận thức và
thực hiện được, Nhà nước cần có sự tư vấn, điều tiết hợp lý.
Phải có bộ máy nhà nước liêm chính, có hiệu lực để chống các hình thức
thu nhập bất hợp pháp (buôn lậu, làm hàng giả, hàng nhái, lừa đảo, tham
nhũng…), bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế, từ đó, người dân, doanh nghiệp
và cán bộ, công chức nhà nước hiểu rõ được quyền lợi, trách nhiệm của mình;
đồng thời, các cơ quan công quyền, cán bộ, công chức nhà nước được giám sát
sẽ tránh được tình trạng lạm quyền, thiếu trách nhiệm, tham nhũng… Bộ máy
nhà nước phải tuyển dụng, sử dụng được những người có tài, có tâm, sàng lọc
được những người không đủ tiêu chuẩn. Cán bộ, công chức nhà nước phải được
đãi ngộ xứng đáng và chịu trách nhiệm đến cùng mọi quyết định trong phạm vi,
chức trách của họ. Nhà nước phải kiểm soát được thu nhập của công dân, trước
hết là thu nhập của cán bộ, công chức nhà nước. Trước pháp luật, mọi người dân
và cán bộ, công chức nhà nước phải thực sự bình đẳng; mọi vi phạm phải được
xét xử theo quy định của pháp luật. Thực hiện công khai, minh bạch mọi cơ chế,
chính sách và quy định của Nhà nước, căn cứ theo quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam được nêu lên trong “Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII”: “Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện
các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm công
khai, minh bạch, góp phần xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, “duyệt - cấp”; ngăn chặn,
đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực “lợi ích nhóm”, “sân sau”, trục lợi trong quản lý,
sử dụng ngân sách, tài sản công, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu
tư, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan, phân
bổ, quản lý và sử dụng biên chế…”
Bên cạnh đó, việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra,
kiểm tra và xử lý vi phạm là đặc biệt cần thiết. Hoạt động này không chỉ khắc
phục được các bất cập, thực hiện công bằng xã hội, mà quan trọng hơn là ngăn
chặn được các hình thức thu nhập bất hợp pháp.
4. Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
Khi các mâu thuẫn phát sinh cần được giải quyết kịp thời vì mâu thuẫn
giữa các lợi ích kinh tế là khách quan, nếu không được giải quyết sẽ ảnh hưởng lOMoAR cPSD| 44879730
trực tiếp đến động lực của các hoạt động kinh tế. Muốn vậy, các cơ quan chức
năng của nhà nước cần phải thường xuyên quan tâm phát hiện mâu thuẫn và
chuẩn bị chu đáo các giải pháp đối phó dựa trên nguyên tắc phải có sự tham gia
của các bên liên quan, có nhân nhượng và phải đặt lợi ích đất nước lên trên hết.
Khi có xung đột giữa các chủ thể kinh tế (đình công, bãi công…), cần có
sự tham gia hòa giải của các tổ chức xã hội có liên quan, đặc biệt là Nhà nước.
III. Liên hệ thực tiễn
1. Những thành tựu Việt Nam đã đạt được
Thứ nhất, Nhà nước ta bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi
cho hoạt động tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế. Việt Nam đã thực hiện
rất tốt vấn đề giữ vững ổn định chính trị, nhờ đó đã thu hút, khiến các nhà đầu tư
yên tâm khi tiến hành đầu tư. Bên cạnh đó, Nhà nước đã và đang không ngừng
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng: phục vụ mục tiêu kiến
tạo phát triển, tạo dựng hành lang pháp lý an toàn cho phát triển và hội nhập sâu
rộng với khu vực và thế giới cả về kinh tế, chính trị, văn hóa. Kết cấu hạ tầng
của nền kinh tế nước ta ngày càng được cải thiện, đáp ứng nhu cầu các hoạt động
kinh tế. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2022, nước ta có 148.500
doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn 1590,9 nghìn tỷ đồng, tăng
27,1% về số doanh nghiệp, giảm 1,3% về số vốn đăng ký, với tổng số lao động
là 51,7 triệu người, tăng 1,1 triệu người so với năm 2021. Bên cạnh đó, việc kiểm
soát tốt dịch bệnh Covid-19, kết hợp chống dịch với phát triển kinh tế của nước
ta hiện nay cũng tạo ra môi trường thuận lợi để đầu tư hơn nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới. Nhà nước đã nhanh chóng đưa ra các chính sách tiền tệ, tài
khóa, an sinh xã hội nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người dân vượt qua giai đoạn
khó khăn nhất do ảnh hưởng từ đại dịch Covid19. Nhà nước đẩy nhanh hoàn trả
tiền nợ cho các công ty và tạm hoãn thanh toán tiền điện, nước cho doanh nghiệp.
Nhà nước đặc biệt hỗ trợ lao động tự do, hộ kinh doanh, người nhập cư, người
dân tộc thiểu số chịu tác động nặng nề hơn.
Thứ hai, để điều hòa lợi ích giữa cá nhân, doanh nghiệp và xã hội, Nhà
nước đã thực hiện phân phối công bằng các yếu tố sản xuất nhằm hạn chế sự 9 lOMoAR cPSD| 44879730
chênh lệch giàu nghèo giữa người với người; thực hiện phân phối thu nhập, phân
phối theo lao động. Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của phân phối thu nhập,
phân phối công bằng hợp lý, góp phần quan trọng đảm bảo hài hòa các lợi ích
kinh tế. Chính sách tiền lương của Nhà nước đã đem lại những hiệu quả lOMoAR cPSD| 44879730
nhất định. Các quy định về thuế thu nhập cá nhân cũng góp phần làm giảm
khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư. Năm 2022, mặc dù bị ảnh
hưởng của dịch Covid-19, nhưng số thu từ thuế thu nhập cá nhân vẫn tăng cao
kỷ lục, đạt gần 168.000 tỷ đồng, vượt 38% dự toán.
Việc thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong
những năm qua đã tạo lập những giá trị mới của xã hội. Đời sống của mỗi cá
nhân không ngừng được nâng lên, quyền và lợi ích chính đáng được pháp luật
bảo vệ, nhất là trong sở hữu và phân phối. Trong giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ
tăng trưởng bình quân 5 năm ước đạt khoảng 5,8%/năm. Riêng năm 2020, do
ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, GDP tăng 2,91%, nhưng vẫn thuộc nhóm tăng
trưởng kinh tế cao nhất thế giới; tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 268.4 tỷ
USD, tăng gấp 1,3 lần so với năm 2010 đạt 116 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu
người đạt 4,23 triệu đồng/người/tháng. Tính đến ngày 14/1/2021, đã có 88 triệu
người tham gia bảo hiểm y tế (chiếm khoảng 90,85% dân số cả nước)… Tuy
chịu ảnh hưởng của dịch bệnh, nhưng đời sống vật chất của người dân vẫn được
đảm bảo ở mức cơ bản.
Thứ ba, kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực
đối với sự phát triển xã hội. Để bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế giữa các chủ
thể và loại bỏ các ảnh hưởng tiêu cực trên nước ta, quyết tâm xây dựng bộ máy
nhà nước liêm chính, trong sạch, hiệu quả, kỷ luật kỉ cương. Thực hiện các nghị
quyết của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia về
chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, hàng nhái, các lực lượng chức
năng đã tăng cường công tác kiểm tra, có nhiều biện pháp ngăn chặn, hạn chế
tình trạng sản xuất, buôn bán hàng lậu. Trong năm 2022, lực lượng quản lý thị
trường đã kiểm tra, xử lý 43.989 vụ vi phạm (tăng 6% so với cùng kỳ năm 2021);
chuyển cơ quan điều tra 127 vụ việc có dấu hiệu tội phạm. Thu nộp ngân sách
nhà nước trên 490 tỷ đồng (tăng 14% so với cùng kỳ năm 2021). Trị giá hàng
tịch thu gần 96 tỷ đồng, trị giá hàng hóa áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả
buộc tiêu hủy hơn 19 tỷ đồng. Để vai trò của thị trường trong giải quyết hài hòa
các lợi ích kinh tế được phát huy một cách hiệu quả, Nhà nước 11 lOMoAR cPSD| 44879730
còn can thiệp để tránh những tác động tự phát có hại của thị trường, như: quản
lý những tác động ngoại lai, điều tiết độc quyền, bảo hiểm xã hội,…
2. Một số hạn chế
Trong thực tế, vẫn còn có hiện tượng người lao động ở không ít ngành,
nghề lao động giản đơn lại có thu nhập cao hơn nhiều lần so với lao động phức
tạp; nhiều người ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo chưa được hưởng phúc
lợi xã hội như ở các trung tâm, các thành phố lớn,...
Chính sách tiền lương chưa vận hành theo cơ chế thị trường mà do Nhà
nước quy định, bị ràng buộc với nhiều chính sách xã hội khác và bị phụ thuộc
vào ngân sách nhà nước. Việc điều chỉnh lương tối thiểu vẫn bị coi là gánh nặng
của ngân sách nhà nước.
Việc thu thuế thu nhập cá nhân còn bỏ sót nhiều đối tượng, gây thất thoát
cho ngân sách nhà nước, chưa đảm bảo công bằng cho những người phải nộp
thuế. Chính sách trợ cấp xã hội, phân phối lại thu nhập của Chính phủ trong thời
gian qua còn bất cập. Trong quá trình hoạt động, lực lượng quản lý thị trường
vẫn gặp nhiều khó khăn do phương thức, thủ đoạn của các đối tượng ngày càng
tinh vi và phức tạp. Tình trạng nhân danh lợi ích xã hội để vi phạm vẫn tồn tại
và tiềm ẩn nhiều vấn đề cần giải quyết. Biểu hiện là tình trạng tham ô, tham
nhũng, hoạt động của các “nhóm lợi ích” tiêu cực; các hành vi xây dựng trái phép
trong các thành phố lớn và các khu đô thị;... làm cho lợi ích xã hội bị tổn thất lớn.
3. Một số giải pháp đề xuất
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, để thực hiện tốt hơn việc giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế, tạo môi trường
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế bền vững, cần thực hiện một số giải pháp sau: lOMoAR cPSD| 44879730
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế để đảm bảo gắn tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho mọi thành viên
trong xã hội tham gia và hưởng thụ thành quả của quá trình phát triển. Xây dựng
hệ thống pháp luật tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia đầu tư trên thị
trường, thúc đẩy doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân trở thành lực lượng đi đầu
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước cần thực hiện
tốt hơn nữa việc đảm bảo công khai, minh bạch trong quá trình quản lý, xử lý
nghiêm những hành vi tham ô, tham nhũng, “lợi ích nhóm” tiêu cực gây tổn thất
cho xã hội. Đẩy mạnh và nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục, thống nhất
cao về ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về phòng, chống
tham nhũng. Tăng cường kiểm tra, giám sát, xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng và
Nhà nước trong sạch, vững mạnh, có năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội trong tình hình mới.
Thứ hai, tạo sự đồng thuận trong phân phối thu nhập, tiếp tục hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả của các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và chính
sách tiền lương. Quan tâm, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn, người lao động
nghèo, người có công với cách mạng và những người dân ở vùng sâu, vùng xa,
đối tượng yếu thế trong xã hội. Có chính sách đãi ngộ tốt với người tài, đảm bảo
mức tiền lương thỏa đáng cho công nhân viên chức và người lao động.
Thứ ba, cần có chính sách khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp,
giáo dục người dân biết đặt lợi ích của mình trong mối quan hệ với lợi ích của
những chủ thể khác để tạo ra sự thống nhất trong quan hệ lợi ích, tránh xung đột,
mâu thuẫn. Thông qua hoạt động giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức
của người dân về quyền và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ lợi ích, về phân
phối thu nhập để phân chia hợp lý giữa tiền lương và lợi nhuận. Khuyến khích
mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo
nhiều việc làm cho người lao động, phát triển dịch vụ việc làm;... 13 lOMoAR cPSD| 44879730 KẾT LUẬN
Đề tài đã khái quát được một số vấn đề chung về vai trò của Nhà nước
trong việc đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế. Cụ thể, Nhà nước đóng một vai
trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam với mục tiêu chung là xây dựng một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Bên cạnh đó, đề tài cũng nêu ra rằng để hoàn thiện
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta đã thực hiện
những chính sách để bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt
động tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế, điều hòa lợi ích giữa cá nhân doanh
nghiệp, kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với
sự phát triển xã và giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế đồng
thời cũng ban hành các khuôn khổ pháp luật nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo
môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, bảo đảm cho thị trường phát triển
lành mạnh, tuân thủ các chính sách đảm bảo an sinh xã hội, phát triển con người
một cách toàn diện, ban hành, thực thi các chính sách liên quan đến tiền tệ và
quản lý các doanh nghiệp Nhà nước.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và thời đại 4.0 thì vai trò của Nhà nước
trong việc đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế ngày một quan trọng trong nền
kinh tế ở Việt Nam. Nhờ có Nhà nước đứng đầu cùng với những chính sách thích
hợp và hiệu quả đã giúp cho nền kinh tế Việt Nam ngày một lớn mạnh, công bằng
và văn minh. Từ đó cũng làm phát huy được vai trò của Nhà nước, nâng cao hiệu
quả sử dụng của các thể chế, chính sách, xây dựng và củng cố niềm tin và sự
trung thành của người dân đối với Nhà nước ta. Tuy nhiên, không thể phủ nhận
rằng bên cạnh những tác động tích cực, Nhà nước ta vẫn còn một số hạn chế
trong việc điều hành nền kinh tế và quản lí các chính sách, và một số giải pháp
đề xuất đã nêu có thể phần nào giảm bớt những hạn chế này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo, “Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác - Lênin” (Dành cho
bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật,
Hà Nội - 2021, trang 197 - 202, trang 214 - 220. lOMoAR cPSD| 44879730
Đảng Cộng sản Việt Nam, “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII”,
NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2016, trang 69.
Đảng Cộng sản Việt Nam, “Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương khóa XII”, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội - 2016, trang 41.
Tạp chí Công thương, “Vai trò của Nhà nước và thị trường trong giải quyết hài
hòa lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay”, đăng vào 24/02/2023, viết bởi thạc sĩ Hoàng Thị Hồng Đào.
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, “Hội thảo Khoa học, An sinh xã hội
cho các nhóm dễ tổn thương trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 ở Việt Nam”,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội - 2020.
Tổng cục Thống kê, “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2021, 2022”, NXB
Thống kê, Hà Nội - 2021-2022.
Chính phủ (2021): “Báo cáo tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020; Dự kiến Kế hoạch năm 2022 và phương
hướng, nhiệm vụ 5 năm 2021-2025.”
Chính phủ (2022): “Báo cáo tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội năm 2021; Dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022.”
Chính phủ (2022): “Báo cáo tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội năm 2022; Dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023.” 15