-
Thông tin
-
Quiz
TIỂU LUẬN LỊCH SỬ THẾ GIỚI CỔ -TRUNG ĐẠI ĐỀ TÀI CHẾ ĐỘ ĐẲNG CẤP VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TRONG LỊCH SỬ ẤN ĐỘ
Ấn Độ là nơi đã tạo ra một trong những nền văn minh lớn của nhân loại, mở đầu cho văn minh của con người, để lại nhiều thành tựu được lưu giữ cho đến ngày nay với giấu ấn khó phai - “một nền văn minh giàu trí tuệ và đậm bản sắc riêng”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Lịch sử Đảng (KHTN) 46 tài liệu
Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội 324 tài liệu
TIỂU LUẬN LỊCH SỬ THẾ GIỚI CỔ -TRUNG ĐẠI ĐỀ TÀI CHẾ ĐỘ ĐẲNG CẤP VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TRONG LỊCH SỬ ẤN ĐỘ
Ấn Độ là nơi đã tạo ra một trong những nền văn minh lớn của nhân loại, mở đầu cho văn minh của con người, để lại nhiều thành tựu được lưu giữ cho đến ngày nay với giấu ấn khó phai - “một nền văn minh giàu trí tuệ và đậm bản sắc riêng”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng (KHTN) 46 tài liệu
Trường: Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội 324 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
Preview text:
1. Lý do chọn đề tài 2. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu 3. Mục đích và
Nhiệm vụ nghiên cứu 4. Nguồn tài liệu và Phương pháp nghiên cứu 5. Ý
nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 6. Một số khái niệm 7. Cấu trúc
đề tài NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN
CỨU CHƯƠNG 2: NGUỒN GỐC CỦA CHẾ ĐỘ ĐẲNG CẤP 1. Nguồn
gốc, sự hình thành của chế độ đẳng cấp 1.1.
Nguồn gốc của chế độ đẳng cấp 1.2. Sự hình thành chế độ đẳng
cấp 1.3. Những tranh cãi xoay xung quanh về nguồn gốc của các đẳng cấp
CHƯƠNG 3: SỰ PHÂN BIỆT GIỮA CÁC TẦNG LỚP TRONG XÃ HỘI
ẤN ĐỘ 1. Các đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ 2. Các nội dung nói về quyền
lợi và nghĩa vụ của chế độ đẳng cấp CHƯƠNG 4: ẢNH HƯỞNG CỦA
CHẾ ĐỘ ĐẲNG CẤP TỚI LỊCH SỬ ẤN ĐỘ 1. Đặc điểm xuyên suốt lịch
sử của chế độ đẳng cấp 2. Ảnh hưởng tích cực của chế độ đẳng cấp tới lịch
sử Ấn Độ 3. Ảnh hưởng tiêu cực của chế độ đẳng cấp tới lịch sử Ấn Độ
CHƯƠNG 5: HỆ QUẢ CỦA CHẾ ĐỘ ĐẲNG CẤP ĐẾN NGÀY NAY
CHƯƠNG 6: CÁC BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU
CỰC CỦA CHẾ ĐỘ ĐẲNG CẤP TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ẤN ĐỘ KẾT LUẬN LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện tiểu luận này, tôi xin gửi lời
cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo, bạn bè và gia
đình đã hỗ trợ và động viên tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và viết bài.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Nguyễn Nhật Linh
đã dành thời gian và tâm huyết để hướng dẫn và giúp
đỡ tôi trong quá trình thực hiện tiểu luận này. Những lời
khuyên và góp ý của thầy đã giúp tôi hoàn thiện bài viết một cách tốt nhất.
Tôi cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn đến các bạn cùng
lớp đã chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm trong quá
trình học tập. Những cuộc thảo luận và trao đổi ý kiến
đã giúp tôi hiểu sâu hơn về chủ đề của tiểu luận. Em xin chân thành cảm ơn!
Để hoàn thành được bài tiểu luận này, em x
Xin chào! Dưới đây là một mẫu lời cảm ơn trong tiểu luận:
Trong quá trình thực hiện tiểu luận này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô
giáo, bạn bè và gia đình đã hỗ trợ và động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu vTôi cũng
muốn bày tỏ lòng biết ơn đến các bạn cùng lớp đã chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm trong quá
trình học tập. Những cuộc thảo luận và trao đổi ý kiến đã giúp tôi hiểu sâu hơn vâm sâu sắc.
Trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này, do hiểu biết còn nhiều hạn chế nên bài làm khó
tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những lời góp ý của quý thầy cô để bài
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Ấn Độ là nơi đã tạo ra một trong những nền văn minh lớn của nhân loại, mở
đầu cho văn minh của con người, để lại nhiều thành tựu được lưu giữ cho đến
ngày nay với giấu ấn khó phai - “một nền văn minh giàu trí tuệ và đậm bản sắc riêng”
Ấn Độ được mọi người gọi là “tiểu lục địa” ở phía Nam của châu Á. Lãnh thổ
Ấn Độ rộng lớn với diện tích hơn ba triệu km2, có hình “tam giác ngược”; hai
bên bờ có hai dãy núi lớn là Đông Gát và Tây Gát bị ngăn cách bởi cao nguyên
Đê Can. Bởi sự phức tạp về mặt địa hình, có nhiều núi cao và cả những khu
rừng rậm, rừng nguyên sinh nên Ấn Độ bị chia cách nhau giữa Bắc và Nam, Đông và Tây.
Sự đa dạng về mặt địạ hình, thiên nhiên, khí hậu, con người đã tạo nên một nền
văn hóa rực rỡ như vậy. Trong suốt quá trình phát triển, văn hóa truyền thống
được lưu giữ, kế thừa qua từng thế hệ của con người Ấn Độ; không chỉ vậy mà
văn hóa của người Ấn còn có sự ảnh hưởng vô cùng lớn tới các quốc gia khác
trong đó có Việt Nam. Nó tác động đến các quốc gia cổ đại phương Đông một
cách sâu sắc, đẩy nhanh sự tan rã của xã hội nguyên thủy, hình thành nên các
nhà nước mới. Vì vậy, tìm hiểu về văn hóa Ấn Độ cũng là tìm hiểu về một trong
những cơ sở thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của các quốc gia cổ đại phương Đông.
Một trong những yếu tố có ảnh hưởng vô cùng lớn tới sự đặc sắc của văn hóa
Ấn chính là “xã hội truyền thống” – một xã hội đậm màu sắc tâm linh. Nét đặc
biệt trong lịch sử xã hội Ấn Độ chính là tồn tại chế độ đẳng cấp. Chế độ chi
phối sâu sắc tới mối quan hệ trong xã hội Ấn Độ, có sự phân biệt rạch ròi giữa
các tầng lớp, giai cấp. Đi sâu vào việc tìm hiểu văn hóa, xã hội của nền văn
minh lớn này thì không thể không khai thác đến chế độ đẳng cấp đây là cơ sở
cho việc hình thành và phát triển của nhà nước Ấn Độ.
Chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ có sự khắc nghiệt thậm chí là tàn nhẫn cùng cực đặc
biệt là đối với những kẻ được cho là dưới đáy xã hội, sự sống chết của họ gần
như phụ thuộc vào các tầng lớp trên. Đây chính là điểm khác biệt của xã hội Ấn
Độ mặc dù ở các nước phương Đông khác cũng có sự phân chia giai cấp, phân
biệt giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới . Hiện nay ở Ấn Độ vẫn còn sót lại
những tàn dư mà chế độ đẳng cấp để lại, nhiều hệ quả đau thương đã diễn rã
trong xã hội hiện nay của Ấn Độ do sự ảnh hưởng dai dẳng về tư tưởng. Bởi
vậy chúng ta cần phân tích sâu về sự ảnh hưởng của chế độ đẳng cấp tới nhiều
mặt trong xã hội Ấn Độ hiện nay, lý giải về những hệ lụy mang lại và tìm ra các
biện pháp để giải quyết.
Trong những đề tài nghiên cứu về lịch sử Ấn Độ ở Việt Nam của các nhà nghiên
cứu cũng đề cập rất nhiều tới chế độ đẳng cấp này tuy nhiên do chủ đề, mục
đích, phạm vi nghiên cứu của họ khác nhau nên vấn đề vẫn chưa thể khai thác
một cách triệt để hay được đào sâu. Nó chỉ dừng lại ở mức khái quát, định nghĩa
hay chiếm một phần nhỏ trong cả dự án, đề tài nghiên cứu. Nên dù chế độ đẳng
cấp được đề cập rất nhiều trong các tài liệu liên quan đến sử hoặc các tài liệu
liên quan nhưng chưa có tài liệu có thể tìm hiểu, phân tích kĩ về chế độ đẳng
cấp. Đồng thời ở Việt Nam cũng chưa có một công trình nghiên cứu lớn,
chuyên khảo về đề tài này; việc nghiên cứu sâu rộng là điều vô cùng quan trọng
và cần thiết, có tác dụng bổ sung thêm thông tin, tài liệu cho vấn đề giảng dạy,
nguồn tham khảo,…liên quan đến Ấn Độ nói chung và chế độ đẳng cấp nói
riêng đặc biệt trong bối cảnh nguồn tư liệu còn rất hạn chế, chưa được đi vào
khai thác nhiều. Vì thế, nghiên cứu sâu về chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ là việc làm vô cùng cần thiết.
Từ những nguyên do trên, tôi nhận thấy được tầm quan trọng, có ý nghĩa thực
tiễn của việc nghiên cứu “Chế độ đẳng cấp và những ảnh hưởng của nó trong
lịch sử Ấn Độ” nên tôi lựa chọn phân tích vấn đề này trong đề tài nghiên cứu tiểu luận của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Chế độ đẳng cấp và những ảnh hưởng của nó
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: nhà nước Ấn Độ
- Về thời gian: diễn ra trong tiến trình lịch sử Ấn Độ
- Về nội dung: Tập trung vào các vấn đề cơ bản như nguồn gốc, khái niệm,
ảnh hưởng của chế độ đẳng cấp tới các mặt kinh tế, chính trị, xã hội ở Ấn Độ
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận tập trung tìm hiểu và đi làm rõ về chế độ đẳng cấp và ảnh hưởng
của nó đến lịch sử Ấn Độ. Từ đó rút ra đánh giá về chế độ đẳng cấp
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua các mục đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu, tiểu luận
xác định những nhiệm vụ chính sau:
Thứ nhất là tìm hiểu, nghiên cứu về chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ
Thứ hai là phân tích và làm rõ ảnh hưởng của chế độ đẳng cấp tới lịch sử Ấn Độ
Thứ ba, rút ra đánh giá đối với chế độ đẳng cấp
Thứ tư, tìm biện pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của chế độ
đẳng cấp tới xã hội Ấn Độ hiện nay
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Tiểu luận được tham khảo nhiều nguồn tư liệu khác nhau như trong giáo
trình giảng dạy tại các trường đại học, đề tài nghiên cứu, tạp chí khoa học
chuyên ngành, sách báo từ nguồn Internet thông qua phân tích và chọn lọc
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích và phương pháp logic được
chủ yếu đem vào sử dụng trong bài tiểu luận này. Bên cạnh đó còn sử dụng
các phương pháp khác như phương pháp lịch sử, phương pháp khái quát, phê phán tư liệu…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 5.1. Ý nghĩa khoa học
- Nghiên cứu chi tiết, cụ thể về đề tài sẽ cung cấp thêm tư liệu gốc trong
giảng dạy cũng như kiến thức chuyên sâu về Ấn Độ nói chung cũng như
chế độ đẳng cấp nói riêng 5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Thông qua việc tìm hiểu về chế độ đẳng cấp hiểu thêm về lịch sử xã hội
Ấn Độ, về các tập tục, lối sống văn hóa cũng như đời sống con người nơi
đây. Qua đó cũng thấy được ảnh hưởng của chế độ đẳng cấp tới các mặt ở
Ấn Độ trong tiến trình lịch sử 6. Một số khái niệm
- Chế độ đẳng cấp hay còn gọi chế độ Varna dùng để chỉ tầng lớp xã hội
trong một hệ thống đẳng cấp có thứ bậc ở Ấn Độ. Đẳng cấp ở đây là hình
thức đặc trưng của sự phân tầng xã hội, nó bắt nguồn từ vấn đề phân biệt chủng tộc và màu da
- Lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ, đặc biệt là các sự kiện liên quan tới con người
- Ảnh hưởng là những tác động cụ thể có thể là về mặt tích cực hay tiêu
cực lên một đối tượng cụ thể nào đó
- Nói cách khác, đề tài đi sâu vào việc tìm hiểu và phân tích liên quan đến
chế độ đẳng cấp để từ đó có thể đưa ra kết luận về những tác động của nó
đến tiến trình lịch sử của Ấn Độ
7. Cấu trúc luận văn
Tiểu luận được chia thành 5 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Nguồn gốc của chế độ đẳng cấp
Chương 3: Sự phân biệt giữa các tầng lớp trong chế độ đẳng cấp
Chương 4: Ảnh hưởng của chế độ đẳng cấp tới lịch sử Ấn Độ
Chương 5: Hệ quả của chế độ đẳng cấp tới ngày nay
Chương 6: Các biện pháp nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của chế
độ đẳng cấp đến sự phát triển của Ấn Độ
NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Để hiểu được hết sự đa dạng về mọi mặt kể như về ngôn ngữ, xã hội, tộc
người, văn hóa, tôn giáo,..thì không thể không đi tìm hiểu về hệ thống đẳng
cấp của quốc gia Nam Á này.
Tôn giáo lớn nhất ở Ấn Độ hiện nay là Hindu giáo, tôn giáo này có vai trò rất
quan trọng trong việc xác định cấu trúc xã hội trong lịch sử Ấn Độ. Chính
tôn giáo này đã tạo nên sự phân biệt giữa các tầng lớp, giai cấp trong xã hội
đất nước này do vậy mà chế độ đẳng cấp ra đời. Theo một nhà nghiên cứu về
văn hóa tên là Geetesh Sharma, ông đã đưa ra quan điểm của mình về xã hội
Ấn Độ: “Cấu trúc xã hội Ấn Độ là tập hợp những thành tố bất quy tắc,
nhưng kỳ lạ là nó được sắp xếp thành một hệ thống lớp lang rõ ràng”. Nhìn
từ bên ngoài, xã hội Ấn Độ có sự chồng chéo về đẳng cấp, tầng lớp, giai
cấp,chủng tộc, khác biệt về nơi sống và cả tiếng nói,... Nhưng nếu chúng ta
định vị hệ thống đẳng cấp là trụ cột của toàn bộ cơ cấu xã hội Ấn Độ thì mọi
thứ sẽ trở nên trật tự và rõ ràng. Hệ thống này đã được hình thành từ hàng
ngàn năm trước và cho đến ngày nay nó vẫn là yếu tố chính gây ra bất ổn về
xã hội. Từ “caste” là một thuật ngữ để chỉ đẳng cấp xuất phát bằng tiếng Anh
chứ bản thân nó không bắt nguồn từ Ấn Độ. Từ “caste” có bắt nguồn từ tiếng
Bồ Đào Nha có ý nghĩa là chủng tộc, giống hay nghĩa khác là dòng dõi. Theo
nghĩa gốc của nó là "thuần khiết, không pha trộn". Không một khái niệm nào
trong thứ tiếng của Ấn Độ có thể diễn đạt đầy đủ từ này mà chỉ có Varna và
Jati là hai thuật ngữ gần đúng với ý nghĩa của nó. Ngoài ra, chúng ta có từ
“Varna”, nghĩa của nó dùng để chỉ màu sắc; đây cũng chính là yếu tố đầu
tiên và là khuôn khổ để phân định giai cấp trong xã hội Ấn Độ vào thời kỳ Veda
Đại đa số các học giả các nước nghiên cứu nói chung hay học giả Ấn Độ nói
riêng thì đều đồng ý rằng hệ thống đẳng cấp là một đặc điểm nổi bật của Ấn
Độ giáo. Tuy nhiên, cùng với sự xuất hiện và du nhập của các hệ tư tưởng
hay tôn giáo khác, chế độ đẳng cấp cũng có những ảnh hưởng nhất định đến
đạo Phật, Thiên chúa giáo, Đạo Jain, đạo Do Thái,..
Chế độ đẳng cấp là điểm đặc trưng trong xã hội Ấn Độ cổ đại và cho đến
ngày nay nó vẫn có sự ảnh hưởng đáng kể tới đời sống cũng như tư tưởng
của người dân Ấn Độ. Tuy rằng, có nhiều học giả trong và ngoài nước đã đi
vào nghiên cứu đề tài này nhưng chưa thật sự có nghiên cứu có thể khai thác
triệt để những vấn đề xoay xung quanh đề tài này
Trong tài liệu “Indian Caste” của tác giả John Wilson D.D, F.R.S được xuất
bản năm 1897 đã viết tổng quát về các tầng lớp phân chia trong xã hội tồn tại
chế độ đẳng cấp đó. Đáng chú ý là tác giả đã đi sâu vào việc nghiên cứu về
quá trình hình thành và phát triển của chế độ đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ.
Đẳng cấp Varna được tái hiện rõ nét trong hai tác phẩm sử thi vô cùng nổi
tiếng của Ấn Độ đó là Mahabharata và Ramayana. Tác phẩm vẫn chưa đi
đến hoàn thiện nhưng cũng là tiền đề cho các nghiên cứu về sau. Bên cạnh
đó còn có tác giả Jogendra Nath Bhattacharya đã viết nên cuốn “Hindu
Castes and Sects” ra đời vào năm 1896. Tác giả đã có những cái nhìn đa
chiều, toàn cảnh với cách tiếp mới thú vị. Ngoài đi tìm hiểu và phân tích về
sự ra đời, sự ảnh hưởng của tôn giáo, sự rang buộc của chế độ đẳng cấp thì
tác giả còn nói cụ thể hơn về khía cạnh vị trí của từng tầng lớp trong xã hội
và cả những đặc quyền của từng tầng lớp trong xã hội Ấn Độ. Cũng như tài
liệu trên thì cuốn sách “Hindu Castes and Sects” cũng chỉ mới nêu chi tiết ở
một vài khía cạnh trong vấn đề liên quan tới chế độ đẳng cấp
Cho đến hiện nay đề tài này vẫn là vấn đề thú vị được nhiều học giả tìm hiểu
và nghiên cứu sâu, họ đã đưa ra những quan điểm mới cũng như những kết
luận mới về đề tài này. Dù thế nào thì các nghiên cứu cũng đi tới một nhận
định rằng chế độ đẳng cấp là thực tiễn lâu đời trong lịch sử, có hệ thống cụ
thể. Chính chế độ đẳng cấp đã có ảnh hưởng làm nên nền văn hóa đa dạng,
màu sắc mang nét riêng của lịch sử Ấn Độ. Đến ngày nay sự ảnh hưởng của
nó vẫn chưa thể xóa nhòa, nó đi sâu vào trong tiềm thức tư tưởng của người
Ấn Độ mà nhiệm vụ của đề tài này muốn hướng tới chính là phân tích sự ảnh hưởng đó
CHƯƠNG 2: NGUỒN GỐC CỦA CHẾ ĐỘ ĐẲNG CẤP 1.Nguồn gốc,
sự hình thành của chế độ đẳng cấp
1.1. Nguồn gốc của chế độ đẳng cấp
Chưa có một nghiên cứu nào xác định chính xác thời gian ra đời của chế độ
đẳng cấp. Có một thực tế rằng, xã hội có người Aryan tồn tại ba Varna mà
yếu tố quyết định sự phân chia về tầng lớp, giai cấp một cách bất bình đẳng
đó lại là sự khác biệt về mặt chủng tộc, dòng họ, phân chia về mặt lao động,
tôn giáo, hệ tư tưởng,…
Chế độ đẳng cấp cơ bản hoàn thiện vào khoảng thiên niên kỉ I TCN. Vào
thời điểm người Aryan xâm nhập vào Ấn Độ, hệ thống đẳng cấp đã được
hoàn thiện, hình thành đẳng cấp thứ tư cho người Dravidian bản địa. Nguyên
nhân chính là do người Aryan thuộc họ ngôn ngữ Ấn-Âu và nói ngôn ngữ
Ấn-Âu, họ chủ yếu sống ở Trung Á và sống bằng nghề chăn nuôi, họ di cư
sang Ấn Độ, không chỉ khác nhau về ngôn ngữ, nhưng chúng cũng giống với
ngôn ngữ Dravidian bản địa, con người không chỉ được thể hiện bằng màu
da, hình dáng cơ thể mà còn bởi trình độ phát triển của họ. Chính vì sự khác
biệt về chủng tộc, và đặc biệt là vì mối quan hệ giữa kẻ chinh phục và kẻ bị
chinh phục mà sự phân biệt chủng tộc trở nên sâu sắc đến vậy. Do đó, nếu
người Aryan muốn duy trì và củng cố quyền cai trị của họ đối với người
Dravidian bản địa, người Aryan buộc phải thiết lập và cải thiện hệ thống
đẳng cấp vì tin rằng nó là một công cụ hữu ích để thống trị người Dravidian bản địa.
Hệ thống đẳng cấp Varna ban đầu dựa trên sự phân chia màu da, chủng tộc
và máu, nhưng sau đó với những thay đổi xã hội, sự phân biệt của hệ thống
Varna về nghề nghiệp, tôn giáo, những điều cấm kỵ trong hôn nhân, khái
niệm về sự thuần khiết và tương tác xã hội đã được mở rộng.
Kinh Manu không nói nhiều về sự ra đời của chế độ đẳng cấp. Sự ra đời của
chế độ đẳng cấp được cho là một giả thuyết thần thánh và huyền bí dựa trên
việc thờ cúng vị thần tối cao Lord Baman. Cùng với những lời dạy của Bà
La Môn giáo, Manu Dharma chia xã hội Ấn Độ thành nhiều đẳng cấp khác
nhau, nhưng có thể chia thành 4 đẳng cấp chính: Bà La Môn, Kshatriyas và
Vasyas. . Đẳng cấp chủ yếu là người bản địa. Mục đích của sự phân chia
giai cấp trên là để bảo vệ quyền lợi và sự thống trị của người Aryan đối với người bản địa.
1.2.Sự hình thành chế độ đẳng cấp
Chế độ đẳng cấp hình thành bắt nguồn từ việc xã hội có sự phân hóa giai
cấp, sự phân biệt về mặt chủng tộc và cả về sự phân công về lao động . Tuy
nhiên các tu sĩ đạo Bà-la-môn đã sử dụng quyền lực của thần linh để giải
thích về hiện tượng xã hội đó. Ví như trong bộ luật Manu-bộ luật của Ân Độ
ra đời vào khoảng đầu công nguyên có viết: “Vì sự phồn vinh của cả thế
giới, từ mồm, tay, đùi và bàn chân của mình, ngài đã tạo nên Braman,
Ksatorya, Vaisya và Sudra”.
Trong chế độ đẳng cấp thì đẳng cấp Bà-la-môn có quyền lực và địa vị cao
nhất. Luật Manu viết rất rõ: “Do sinh ra từ bộ phận cao quý nhất của thân thể
Brama, do sinh ra sớm nhất, do hiểu biết Veda; Bà-la-môn có quyền là chúa
tể của tất cả các tạo vật ấy”. Bên cạnh đó còn có hai đẳng cấp khác là
Ksatorya và Vaisy cũng được coi là tín đồ của đạo Bàlamôn. Ba đẳng cấp
đứng đầu đầu trong chế độ đẳng cấp được coi là sinh ra hai lần còn đẳng cấp
Sudra không được phép tham gia vào các nghi lễ tôn giáo và chỉ được xem là
sinh ra một lần, thấp kém hơn các đẳng cấp khác
1.3.Những tranh cãi xoay xung quanh về nguồn gốc của chế độ đẳng cấp
a. Lý thuyết về sự phân biệt tộc người của phương Tây
Các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, sử học Ấn Độ và thế giới có nhiều cách
giải thích về sự xuất hiện của chế độ đẳng cấp đặc biệt này trong thế kỷ qua.
Tuy nhiên, các lý giải về vấn đề trên có thể tạm chia thành ba loại lý thuyết
lớn: lý thuyết chủng tộc, lý thuyết ngẫu nhiên và bằng chứng di truyền. Ý
kiến về lý thuyết chủng tộc được hình thành bắt đầu từ sự tranh cãi giữa nhà
nghiên cứu người Anh I.C. Nesfield và nhà quản lý Ấn Độ H. H. Risley.
Risley tin rằng chế đẳng cấp ra đời do xung đột sắc tộc. Ông tin rằng tộc
người Aryan "da rằng" đã tiến vào lục địa Ấn Độ từ phía tây bắc và chinh
phục người Dravidian "da đen" bản địa. Risley đã cho rằng tộc người da
trắng đã tiến hành những cuộc chinh chiến xâm lược, bắt ép những tộc người
yếu hơn, thậm chí họ còn bắt giữ những người phụ nữ và đẻ ra những đứa
con lai giữa các chủng tộc để trở thành đẳng cấp cao hơn. Nhưng Nesfield đã
đưa ra một ý kiến trái ngược lại với ý kiến của của nhà nghiên cứu người
Anh “vấn đề nguồn gốc đẳng cấp không chỉ là về chủng tộc, mà còn là về
văn hóa”. Những lý thuyết được đưa ra về vấn đề chủng tộc đã tạo nên cơ sở,
mầm mống cho những tư tưởng có ý nghĩ về việc phân biệt giữa các tộc
người với nhau mà vốn dĩ mục đích ban đầu được tạo điều kiện phát triển
của nó là nâng cao quyền lực của người châu Âu ở Ấn Độ b. Ý kiến phản
bác của các nhà khoa học Ấn Độ
Ý kiến của Risley bị các học giả người Ấn phản bác mạnh mẽ. Một nhà khoa
học tên Ketkar đã có ý kiến rằng “Đẳng cấp là kết quả của các cuộc xung đột
giữa các bộ tộc với nhau hơn là về vấn đề giữa người Aryan và người
Dravidian”, ông bày tỏ sự quan ngại của mình về việc các lý thuyết liên quan
đến vấn đề chủng tộc sẽ tạo nên sự căng thẳng, mâu thuẫn trong xã hội Điều
đó đã dẫn tới sự xuất hiện của một lý thuyết khác là lý thuyết ngẫu nhiên.
Theo lý thuyết này thì “Chế độ đẳng cấp là sản phẩm của những sự kiện lịch
sử cụ thể, có thể bị giới hạn trong một khoảng thời gian và địa điểm cụ thể”.
B.S Ambedkar – vốn ông có xuất thân đẳng cấp Dalit, đẳng cấp thứ năm
được coi là đẳng cấp thấp kém nhất trong xã hội Ấn Độ. Ông đã lên tiếng
phản đối lý thuyết chủng tộc và phê phán những người có suy nghĩ hay đang
lợi dụng lý thuyết chủng tộc hay đổ lỗi về mặt sinh học để bảo vệ hệ thống
đẳng cấp. Nhà học giả này càng thêm chắc chắn rằng: “Không có sự khác
biệt về chủng tộc hay giữa các đẳng cấp khác nhau trong một khu vực” và
đưa ra khẳng định “Chế độ đẳng cấp là sự phân biệt xã hội giữa những người cùng chủng tộc”
c. Kết quả của các cuộc tranh luận
Các cuộc tranh cãi của các học giả vẫn chưa thể đi đến thống nhất nhưng chí
ít nó cũng đã đem lại không ít các tư liệu cho các công trình nghiên cứu về
sau. Nhiều nghiên cứu cho rằng chế độ đẳng cấp nó có nguồn gốc từ sự mâu
thuẫn về mặt chính trị-xã hội chứ không phải nguyên do từ mặt tôn giáo. Và
chính chế đẳng cấp được coi là công cụ đắc lực cho giai cấp cầm quyền
nhằm thiết lập và đảm bảo quyền lực tối cao cho giai cấp mình, ổn định trật tự xã hội.
CHƯƠNG 3: SỰ PHÂN BIỆT GIỮA CÁC TẦNG LỚP TRONG XÃ
HỘI ẤN ĐỘ 1.Các đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ
Ngay từ đầu, sự phân chia đẳng cấp từ cao đến thấp được dựa theo vị trí trên
cơ thể của con người do vậy chế độ đẳng cấp nói chung và các đẳng cấp
trong xã hội Ấn Độ được hình thành. Đẳng cấp sinh ra từ miệng, do ở gần
đầu nhất, nên có vị trí cao nhất; và ngược lại, đẳng cấp sinh ra từ chân thì
được coi là thấp kém, bị khinh thường. Như vậy theo kinh Veda, cả bốn đẳng
cấp đều có mối liên hệ tới thần linh, mỗi đẳng cấp đại diện cho một bộ phận
trên cơ thể của vị thần Braman
Brahman (Bà la môn) là đẳng cấp thứ nhất gồm tăng lữ, quý tộc. Đây là đẳng
cấp cao nhất, người thuộc đẳng cấp này có nhiệm vụ nghiên cứu, giảng dạy
kinh Vệ-đà và lo việc cúng tế thần linh ngoài ra đẳng cấp này còn có trách
nhiệm giám sát, trông coi các công việc tế bái trong các ngày lễ của tôn giáo
hay cả những triết gia, học giả. Họ tin rằng họ là những con người cao
thượng, được sinh ra từ miệng của vị thần Brahma-vị thần tối cao trong
Hindu giáo. Họ cho rằng họ đại diện tiếng nói Brahma, nắm mọi quyền lãnh
đạo do đó mà họ nhận rằng mình xứng đáng được tôn trọng, tận hưởng cuộc
sống sung sướng và hạnh phúc nhất
Kcatrya là đẳng cấp thứ hai gồm tầng lớp quý tộc, vương công và võ sĩ, có
thể là vua và các quan lại. Họ tin rằng họ được sinh ra từ cánh tay của
Brahma và đại diện cho vị thần Brahma cai trị nhân dân. Họ tập hợp thành
một nhóm quý tộc quân sự-chính trị kiểm soát quân đội và nắm chính quyền
Vaicya là đẳng cấp thứ ba gồm tầng lớp nông dân, thợ thủ công và thương
nhân,họ là những người bình thường và một số ít là người giàu có; có nghĩa
vụ nộp thuế cho nhà nước, cung phụng cho đẳng cấp Brahman và Kcatrya.
Mặc dù không có đặc quyền gì trong xã hội nhưng họ vẫn có năng lực tự
chủ, tự do về mặt thân thể
Cudra là đẳng cấp thứ tư đa số là cư dân bản địa bị chinh phục, nô lệ, tôi tớ
làm thuê. Họ được răn dạy rằng bản thân được sinh ra từ gót chân của
Brahma nên thân phân của họ xuất phát đã ở vị trí thấp hèn, làm những công
việc bẩn thỉu suốt đời, phục vụ cho các đẳng cấp trên. Họ bị bắt làm những
công việc nặng nhọc không được pháp luật bảo vệ về cả quyền lợi lẫn thân
thể, không được phép tham gia vào các công việc như tế, cúng bái nói riêng
và cả những hoạt động tôn giáo nói chung. Nếu bất kì ai thuộc đẳng cấp này
bị bắt được đang lén nghe trộm tụng kinh sẽ phải chịu hình phạt bị đổ thiếc
nung chảy vào tai. Bên cạnh đó còn có nhiều luật lệ hay hình phạt hà khắc,
vô nhân tính mà đẳng cấp này phải gánh chịu
Pariah là những người tận cùng dưới đáy xã hội Ấn Độ, họ còn được xem là
đẳng cấp thứ năm còn thấp hèn hơn so với đẳng cấp thứ tư. Đẳng cấp này
còn bị xem như không nằm trong xã hội loài người, bị các đẳng cấp trên đối
xử như súc vật; cuộc sống luôn ở trong hoàn cảnh đen tối, việc sống chết gần
như họ không thể quyết định mà phụ thuộc vào các đẳng cấp trên
3. Các nội dung nói về quyền lợi và nghĩa vụ của các đẳng cấp 3.1. Về tôn giáo
Ấn Độ được coi là quốc gia sản sinh ra nhiều tôn giáo nhất trên thế giới
trong đó bao gồm Đạo Phật và Hindu giáo chính là những tôn giáo lớn. Bên
cạnh đó, tiểu lục địa này cũng là nơi du nhập nhiều tôn giáo nước ngoài và
có nhiều tín đồ. Trong lịch sử đất nước này, những vấn đề liên quan đến tôn
giáo đều có tác động sâu sắc đến mọi tầng lớp và mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Việc đề cập đến luật tôn giáo trong Bộ luật Manu khá rộng rãi và chi
tiết, trong đó có những quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của các giai
cấp khác nhau trong xã hội. Mỗi một người đều thuộc một đẳng cấp nào đó
đều sẽ có nghĩa vụ thực hiện những yêu cầu riêng thuộc về quy định liên
quan đến đẳng cấp của mình. Về mặt pháp luật, Manu đã đưa ra những quy
định rất rõ ràng về tôn giáo của các đẳng cấp khác nhau. Đứng đầu hệ thống
đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ là các tu sĩ Bà la môn. Họ là những người được
trao quyền về mặt tôn giáo nhiều nhất và vai trò cũng như địa vị của họ luôn
được nâng cao. Tại điều 88 chương I trong bộ luật Manu có viết: “Việc giảng
dạy, nghiên cứu Veda, cúng lễ ngài và cúng lễ các người khác, phân phát và
nhận, ngài quy định cho các Brahman”
Vì vậy, quyền và trách nhiệm chính trong việc thực thi các quy định tôn giáo
chủ yếu được dành cho những người thuộc ba đẳng cấp trên, những người
được coi là “tái sinh”. Shudras là những người thuộc đẳng cấp thấp nhất
trong xã hội Bà La Môn do vậy họ phải chịu đựng những luật lệ và quy định
khắt khe và vô lý nhất: Nếu họ nghe kinh Veda, tai họ sẽ bị điếc vì bị chì đổ
vào tai; nếu bạn tụng kinh Veda, lưỡi của bạn sẽ bị cắt đi; nếu bạn muốn ghi
nhớ nó, cơ thể sẽ bị cắt làm đôi
Mục tiêu lớn nhất của tín đồ Bà La Môn giáo là đạt được “sự giải thoát”. Tôn
giáo này dựa trên ba yếu tố chính bao gồm: Đạo, Giai cấp và Các giai đoạn
của cuộc sống. Trong bộ luật Manu, những quy định tôn giáo không chỉ bảo
vệ hệ thống đẳng cấp mà còn làm rõ bốn giai đoạn khác nhau của một con
người. Ở mỗi giai đoạn của cuộc đời, mỗi đẳng cấp đều phải thực hiện
những nghi lễ và quy định tôn giáo khác nhau, đó cũng là quá trình đạt đến
sự giải thoát. Trong đó: Giai đoạn đầu của tuổi thiếu niên là việc rèn luyện
và thực hành lối sống đạo đức. Đây là một giai đoạn quan trọng trong việc nghiên cứu kinh Veda.
Tùy theo cấp độ khác nhau, trình độ nghiên cứu kinh Veda cũng khác nhau.
Trong thời kỳ này, thanh thiếu niên phải học tập dưới sự hướng dẫn của
người giảng dạy kinh Veda và kèm theo những quy định chặt chẽ, nghiêm
túc. Giai đoạn thứ hai còn gọi là “chủ nhà” là khi con người thiết lập gia
đình, lập nghiệp, hưởng lạc thú vui trần tục nhưng vẫn phải kèm theo đó
thực hiện các quy định giai cấp, nghi lễ tôn giáo và trách nhiệm của đẳng cấp
mình. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn ẩn cư khi về già và có con cái. Họ phải
rời xa gia đình, từ bỏ những ràng buộc của cuộc sống thường ngày, sống một
cuộc sống tâm linh và suy nghĩ về những giáo lý thuộc về tôn giáo. Giai
đoạn thứ tư là khi người tu đạo trở thành những người “khất thực” và sống
một cuộc đời tìm kiếm sự giải thoát, không quan tâm bất kể danh lợi hay tiền
tài. Ở những giai đoạn khác nhau của cuộc đời mỗi người, mỗi cấp bậc phải
thực hiện những nghi lễ và quy định tôn giáo khác nhau tùy theo địa vị của họ.
Nói chung, những quyền lợi được quy định liên quan về tôn giáo thường
thuộc về những đẳng cấp cao nhất đặc biệt là đẳng cấp Brahman. Tuy vậy,
với việc có được những quyền lợi đó thì những đẳng cấp đó cũng phải làm
rất nhiều những nhiệm vụ được quy định của đẳng cấp mình đặc biệt trong
việc thực hiện những nghi lễ tôn giáo phức tạp, rắc rối, quy mô lớn.
3.2. Quy định về chính trị
Sau khi người Aryan vào Ấn Độ, họ không chỉ tiếp thu công nghệ sản xuất
và tín ngưỡng tôn giáo của người dân bản địa mà còn tiếp thu trình độ quản
lý và tổ chức xã hội của người bản địa, dần dần hoàn thiện bộ máy nhà nước
và hệ thống chính trị. Để bảo vệ quyền lợi của những người cai trị, người
Aryan đã thực hiện hàng loạt biện pháp như: cải thiện và củng cố hệ thống
đẳng cấp, duy trì đạo Bà La Môn, ban hành luật pháp, v.v. Đặc biệt, luật
Manu là một công cụ hữu hiệu trong việc đảm bảo sự thống trị của tầng lớp
thượng lưu Aryan trong xã hội. Mỗi đẳng cấp có những quyền lợi về địa vị
chính trị khác nhau được quy định trong Manu.
Về đẳng cấp Bà la môn: Ban đầu, đẳng cấp Kshatriya với tư cách là những
người xây dựng và chỉ huy quân sự chính của đất nước, được coi là tầng lớp
cao nhất trong xã hội và có quyền lực chính trị tuyệt đối. Trong nghi lễ, đẳng
cấp Bà La Môn chỉ đóng vai trò hỗ trợ nhà vua thực hiện các nghi lễ tôn
giáo. Tuy nhiên, khi các cuộc chiến kết thúc, đất nước có lại được hòa bình,
người dân Ấn Độ có cơ hội được học tập và mở mang tri thức, đời sống tâm
linh ngày càng có tác động quan trọng đối với nhân dân, đi sâu vào tiềm thức
của họ; đất nước có điều kiện để ngày càng đi lên đặc biệt là về kinh tế thì
lúc này đẳng cấp được cho là sinh ra từ miệng của vị thần tối cao Brahman
ngày càng phát triển về mặt số lượng; thêm vào đó cùng với sự ảnh hưởng
sâu sắc của đạo Bà-la-môn mà quyền lực của đẳng cấp này tăng lên nhanh
chóng. Sự phát triển mạnh mẽ đó của đăng cấp Brahman được biểu hiện ở
chỗ: Luật pháp của nhà nước là do đẳng cấp này quy định nếu như một vấn
đề nào đó diễn ra không được ghi rõ trong luật pháp thì lời nói của đẳng cấp
Brahman được xem là tuyệt đối, mọi đẳng cấp khác phải thực hiện theo.
Trong các vụ tranh chấp, kiện tụng thì đẳng cấp Brahman chính là người hỗ
trợ giúp vua xét xử và đưa ra phán quyết. Hơn thế nếu trong trường hợp vua
không tự thực hiện mở một phiên xét xử thì Brahman có sự thông thái sẽ
thay vua thực hiện cuộc xét xử đó. Chính trong bộ luật Manu nói rõ rằng một
vị vua giỏi, anh minh thì cần bên cạnh chính là một Brahman có trí tuệ để
giúp mình cai trị toàn dân và cả đất nước: “Vua nên hết sức bàn bạc nghiêm
chỉnh với Brahman thông thái ưu tú nhất về sáu hình thức chính trị1. Bao giờ
cũng nên cho người ấy biết mọi công việc với sự tin cậy hoàn toàn; hãy cùng
người ấy cân nhắc kĩ rồi mới thi hành bất kì biệp pháp nào” [Manu Điều 58, 59 chương VII].
Đẳng cấp Kshatriya: Trên thực tế, Kshatriyas là cơ quan quyền lực chính trị
chính. Đẳng cấp Kshatriya bao gồm các quý tộc hoàng gia, các chiến binh
thế tục... Xét từ góc độ gần gũi với thần thức, địa vị của đẳng cấp Ksatrya
thấp hơn đẳng cấp Bà la môn. Tuy nhiên, trên thực tế quyền lực chính trị và
quản lý hành chính đều nằm trong tay giai cấp này. Luật Manu cũng quy
định rõ ràng rằng nhiệm vụ chính của một Ksatrya là mang theo một thanh
kiếm, công việc quý giá nhất của họ là bảo vệ thần dân của mình và nỗ lực
thực hiện các quy định mà đẳng cấp Brahman đưa ra cho đẳng cấp của họ.
Tuyệt đối các Ksatrya không được từ bỏ hay trốn chạy nới chiến trận của mình
Đẳng cấp Vaishya: Mặc dù được coi là đẳng cấp được sinh ra lần thứ hai
nhưng đẳng cấp Vaishya chỉ chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện các
nhiệm vụ chính trị được quy định và không sở hữu nhiều quyền lực như
đẳng cấp Bà la môn hay Ksatrya. Nhiệm vụ cao nhất của đẳng cấp Vaishya là
cố gắng gia tăng của cải và cung cấp thức ăn cho mọi sinh vật và con người
Sudra do là đẳng cấp thấp kém nhất trong xã hội nên họ không có những
quyền lợi đặc biệt nào trái lại họ phải làm rất nhiều những quy định ngặt
nghẽo. Nhiệm vụ chính của đẳng cấp này là phục vụ các đẳng cấp thượng
lưu, đặc biệt là đẳng cấp đầu tiên. Phục vụ Brahman được coi là thực hiện
nhiệm vụ cao nhất của đẳng cấp Sudra.
Luật Manu cũng ghi rõ về những quy định lối sống của từng đẳng cấp trong
xã hội Mỗi đẳng cấp phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ do pháp
luật quy định, nếu tầng lớp trên không thể sống theo lối sống của đẳng cấp
mình theo quy định vì những lý do khác nhau thì có thể sống theo lối sống của đẳng cấp dưới 1
3.3. Về mặt pháp nhân trước các quy định thuộc pháp luật nhà nước
Những quy định về địa vị pháp lý thể hiện vai trò, địa vị của các giai cấp
trong xã hội, đồng thời thể hiện quyền và nghĩa vụ của mỗi thành viên trong
xã hội. Mọi đẳng cấp đều có quyền và nghĩa vụ khác nhau đối với xã hội. Cơ
bản thì luật pháp được đưa ra nhằm phục vụ mục đích bảo vệ những quyền
lợi và đảm bảo, củng cố thêm về địa vị và quyền lực của đẳng cấp trên Đối
với đẳng cấp Brahman, luật pháp dường như có sự bảo vệ đặc biệt, và các
đẳng cấp thấp hơn phải tuân theo và tôn trọng họ một cách vô điều kiện. Các
đẳng cấp dưới dù chỉ đe dọa giết một Brahman sẽ bị đày xuống địa ngục một
trăm năm. Ai làm Brahman đổ máu do hành vi điên loạn sẽ bị mất đẳng cấp
và sẽ bị tra tấn nặng nề sau khi chết. Thậm chí, bất cứ ai mạo danh Brahman
sẽ bị coi là tội lớn và bị trừng phạt nặng nề. Khi Brahman phạm tội nghiêm
trọng, họ sẽ chỉ nhận hình phạt vừa phải có thể bị trục xuất nhưng tài sản vẫn
có thể được mang theo. Dù Brahman có phạm tội ác đến đâu, họ cũng sẽ
không bị kết án tử hình.
Các đẳng cấp thấp hơn được đối xử nặng hơn trước pháp luật, cho dù một
Sudra có được thả ra thì anh ta vẫn không thể thoát khỏi nghĩa vụ phục vụ
của đẳng cấp mình, không ai có thể miễn trách nhiệm này cho một Sudra.
Ngoài ra, Sudra không có quyền được ban tặng, không thể thực hành các
nghi lễ của giai cấp trên và không có quyền tích lũy tài sản ngay cả khi họ có khả năng.
Trong quá trình xét xử, sự phân biệt giai cấp và khác biệt về địa vị pháp lý
giữa các giai cấp là điều hiển nhiên. Những quy định về mặt pháp nhân của
từng đẳng cấp cũng được nêu rõ ràng trong luật Manu như: những quyết
định trong việc xét xử các tội danh trộm cắp, giết người, xúc phạm lăng mạ
bề trên, phân chia tài sản, tư cách pháp nhân của từng đẳng cấp,..
Trong vấn đề về việc trở thành người làm chứng trước tòa quy định: Người
làm chứng phải nói ra sự thật nếu không sẽ bị xiềng xích cả đời bởi, chịu sự
trừng phạt xuống địa ngục, mãi mãi chìm trong bóng tối sau khi chết. Về vấn
đề xử phạt tội lăng mạ bằng hành vi hay ngôn từ nhằm thực hiện mục đích
củng cố trật tự toàn xã hội, duy trì hệ thống của chế độ đẳng cấp và cuối
cùng mục tiêu chung nhất vẫn là hướng tới bảo vệ quyền lợi hay sự an toàn
của đẳng cấp tối cao nhất trong xã hội. Brahman là đại diện tối cao cho lời
nói của thần linh, không một ai có thể xúc phạm đến sự cao quý đó do vậy
nhưng đẳng cấp có địa vị kém hơn buộc phải phục tùng và kính nể. Dù là
một lời nói thì việc xúc phạm đẳng cấp tối cao này có thể phải chịu sự trừng
phạt nặng nề hơn bao giờ hết, phụ thuộc vào từng mức độ khác nhau và bạn
là người thuộc đẳng cấp nào: Đẳng câp Ksatrya lăng mạ Brahman thì bị xử
phạt bằng tiền là một trăm Pana, Vaishya phạt hai trăm rưỡi nhưng với đẳng
cấp thứ tư là Sudra thì không nhẹ nhàng như vậy, họ có thể sẽ phải gánh chịu
hình phạt lên thân thể của họ và cũng tùy vào mức độ sẽ có những hình phạt
tra tấn về thể xác khác nhau
Quy định xử phạt hành vi trộm cắp: Đây là một trong những lĩnh vực được
Manu đưa ra nhiều quy định nhất. Trộm cắp được coi là một hành vi tội
phạm nghiêm trọng và việc xét xử cũng như hình phạt đối với tội phạm này
được áp dụng đối với mọi tầng lớp trong xã hội. Một điều khá độc đáo khi
xét xử hành vi trộm cắp là địa vị giai cấp trong xã hội tỷ lệ thuận với mức độ
nghiêm trọng của hình phạt.
Về tội ngoại tình: Luật pháp đặc biệt lên án kịch liệt đối với các loại tội
phạm này và đưa ra các cách xử phạt vô cùng hà khắc tùy vào từng mức độ
phạm tội. Các hình phạt khác nhau được quy định tùy theo các tầng lớp và
những kẻ ngoại tình khác nhau. Thông thường, những người thuộc đẳng cấp
thấp hơn nếu ngoại tình với những người thuộc đẳng cấp cao hơn sẽ phải
chịu hình phạt rất nặng.
Quy định về thừa kế tài sản: Trong các gia đình truyền thống Ấn Độ, người
cha là chủ sở hữu, là người sở hữu lớn nhất về tài sản và có quyền lực nhưng
khi người cha qua đời thì quyền này sẽ bị phân chia. Trong bộ luật Manu cũng đề cập đến nó.
Về tội danh đánh bài bạc: Đó là tội danh được xem giống như là tội danh
trộm cắp công khai và bị luật pháp trừng trị rất nặng, nhẹ thì bị trục xuất ra
khỏi lãnh thổ hoặc phạt tiền, nặng thì có thể sẽ bị tử hình tùy vào từng mức
độ phạm tội và bản thân người phạm tội thuộc đẳng cấp nào. Những vụ xét
xử về tội danh này thường sẽ do nhà vua quyết định và đưa ra phán xét và
hình phạt cho kẻ phạm tội.
3.4. Mối quan hệ xã hội giữa các đẳng cấp a. Trong hôn nhân
Hôn nhân cho phép hai người khác nhau đi trên cùng một con đường và
hướng tới cùng một mục tiêu là duy trì sự phát triển của gia đình và xã hội.
Mục đích chính của hôn nhân theo đạo Hindu là: thực hiện nghĩa vụ tôn
giáo, tổ chức lễ cúng, sinh con, để người cha sau khi chết không bị đày
xuống địa ngục và được hưởng hạnh phúc, giải thoát, thỏa mãn dục vọng,
thỏa mãn khoái cảm tình dục, v.v. . Đặc biệt, hôn nhân được tiến hành theo
nghi lễ tôn giáo truyền thống có vai trò quan trọng đối với mọi đẳng cấp.
Theo đạo Bà-la-môn và luật Manu đưa ra thì không ủng hộ chế độ đa thê, đa
số người đàn ông chỉ cưới một người vợ duy nhất. Số ít khác thông thường
là những đẳng cấp trên, những người có tiền, có quyền như vua, quan lại quý
tộc vẫn được phép lấy nhiều vợ. Trong lịch sử Ấn Độ thì những người đàn
ông thuộc đẳng cấp Sudra chỉ lấy một người vợ duy nhất thuộc cùng đẳng
cấp Sudra, người đàn ông thuộc đẳng cấp Vaishya được phép cưới một người
thuộc cùng đẳng cấp Vaishya và một người vợ thuộc đẳng cấp dưới là Sudra;
người đàn ông thuộc đẳng cấp Ksatrya được phép cưới một người vợ cùng
đẳng cấp và 2 người vợ thuộc đẳng cấp Vaishya và Suais. Cũng như vậy,
người đàn ông thuộc đẳng cấp cao nhất có thể lấy người phụ nữ cùng đẳng
cấp và ba người phụ nữ thuộc ba đẳng cấp dưới mình
Chế độ đa thê ở Ấn Độ dù không được ủng hộ nhưng vẫn được phép xảy ra
với những người thuộc ba tầng lớp tên kèm điều kiện rằng người vợ đầu tiên
thuộc cùng một đẳng cấp với mình và những người vợ còn lại đều thuộc
đẳng cấp dcấp. Người con trai trong một gia đình sẽ phải học xong chương
trình các cấp học của mình sau đó là quay trở về cưới một người vợ, trở
thành trụ cột của một gia đình mới, thông thường khi kết hôn họ sẽ lấy
những người vợ thuộc cùng đẳng cấp với mình vì việc lấy vợ thuộc đẳng cấp
dưới bị cho rằng là sỉ nhục gia tộc, đánh mất danh dự của mình kèm theo đó
hệ lụy là đứa con mà họ sinh ra sẽ nghiễm nhiên trở thành đẳng cấp thứ tư
Hôn nhân ở Ấn Độ có nhiều loại hình khác nhau, bao gồm: Brahma, Daiva,
Asura, Prajapatya, Paisaca, Raksara, Gandharva, Arse. Brahma là loại hình
hôn nhân tôn quý nhất, được lựa chọn để tổ chức tại các gia đình thuộc đẳng
cấp Brahman, loại hình hôn nhân này mang đậm nét tôn giáo. Đặc biệt trong
các loại hình hôn nhân có Gandharva là hôn nhân được xây dựng dựa trên
nền tảng là tình yêu đôi lứa, trên tinh thần tự nguyện tuy nhiên nó thường không công khai
b. Trong vấn đề đặt tên, ăn mặc và giao tiếp b.1. Việc đặt tên
Việc đặt tên phải thực hiện đúng quy định về thời gian, giờ giấc. Thông
thường, việc đặt tên phải được thực hiện vào ngày thứ mười hoặc thứ mười
hai sau khi sinh . Điều quan trọng nhất là tên đặt cho trẻ phải đúng quy định
và phù hợp với địa vị đẳng cấp của trẻ. Một đứa trẻ thuộc đẳng cấp nào phụ
thuộc vào tên và từ vựng của đẳng cấp ấấ. Đẳng cấp Brahman tên thường sẽ
mang ý nghĩa là “ưu đãi”, Ksatrya là về “sức lực”, Vaishya nói đến “sự sung
túc” cuối cùng là Sudra đại diện cho sự đáng khinh b.2. Về ăn mặc
Ấn Độ là một trong số các quốc gia có quy định nghiêm ngặt nhất đối với
việc mặc trang phục như thế nào, cần hợp với thuần phong mỹ tục và đặc
biệt trong xã hội cổ đại thì việc ăn mặc còn cần phụ thuộc vào việc mình
thuộc đẳng cấp nào trong xã hội. Đối với các đẳng cấp cao trong xã hội thì
việc lựa chọn trang phục phù hợp lại càng cần thiết đặc biệt là đẳng cấp
Brahman; bên cạnh việc họ phải thực hiện những quy tắc chung của những
đẳng cấp trên thì họ còn cần thực hiện thêm những quy định thuộc về đẳng
cấp mình chẳng hạn như không được phép ăn những con vật được cho là dơ
bẩn, không được lấy những thứ đồ được cho là thiếu sự tôn kính khi được
gửi đến họ,...Trong trường hợp phạm phải những điều cấm kị đó, họ buộc
phải làm một cuộc thanh tẩy và ăn chay. Ngoài ra trong vấn đề trang phục,
đẳng cấp này cần tránh mặc những trang phục có vết rách, ưu tiên đồ trắng
sạch sẽ, tóc không được quá dài và phải để móng tay, không được sử dụng
những đồ như trang sức, quần áo, giày dép đã từng được người khác sử dụng
qua. Thực hiện những quy định đó cũng vì mục đích làm cho người thuộc
đẳng cấp Brahman có thể tương xứng với địa vị của mình
Đối với các Sudra vì thân phận của họ trong xã hội chỉ là những người nô
dịch phục vụ cho các đẳng cấp bên trên mình nên trang phục của họ cũng
phải tương xứng với địa vị nô bộc của họ. Họ phải cắt tóc hàng tháng, thậm
chí bị coi rẻ đến mức chỉ được phép ăn thức ăn thừa mà những người đẳng
cấp trên ăn và để lại. Với những người ngoài đẳng cấp trong xã hội thì đồ họ
dùng chỉ có thể là những đồ vật đã bị vứt bỏ, quần áo là của những người đã
chết, đồ ăn đựng trong bình vỡ, trang sức để đeo thì bằng sắt và không có
nơi ở cố định mà thường xuyên chịu cảnh lưu lạc b.3. Giao tiếp giữa các đẳng cấp
Theo truyền thống người Ấn Độ, những người có thói quen tốt là luôn chào
hỏi, tôn trọng và kính nể người trên tuổi mình sẽ được ban phước về tuổi thọ,
trí tuệ, sức khỏe và sự vinh quang. Tùy vào vị trí của từng đẳng cấp mà việc
chào hỏi sẽ được quy định khác nhau. Đẳng cấp Brahman thường sẽ chỉ chào
hỏi với những người cùng đẳng cấp với mình và lớn hơn mình về tuổi tác
Những tiêu chí trong việc giao tiếp còn được nêu rõ trong luật Manu:
Brahman thì hỏi về sự hạnh phúc, Ksatrya dựa vào sự dũng cảm, Vaishya
dựa vào tiền tài cuối cùng là Sudra dầ vào tuổi tác. Nhưng chung quy sự tôn
trọng đối với một người được quyết định bởi việc anh ta thuộc đẳng cấp nào
trong xã hội. Một Brahman đang ở độ tuổi vị thành niên và một Ksatrya một
trăm tuổi cho là có quan hệ cha con thì Brahman sẽ là cha và ngược lại
Với những người thuộc đẳng cấp kém, họ tuyệt đối không thể tham dự cùng
tiệc với người có đẳng cấp cao thậm chí không được phép nhìn họ. Đẳng cấp
Sudra không được đi cùng hay đồng thời với những người thuộc đẳng cấp
bên trên. Thậm chí nặng nề hơn, Sudra không được dẫm lên chiếc bóng hay
để bóng của mình phủ lên bóng của người có địa vị đẳng cấp cao hơn mình
nếu không có thể sẽ nhận phải trừng phạt nặng nề. Họ ra đường cần phải
mang theo cái chuông để mọi người biết né tránh những người thuộc đẳng
cấp này. Ngoài ra họ chỉ có thể ngồi ăn và nói chuyện chỉ với những người cùng đẳng cấp.
CHƯƠNG 4: ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ ĐỘ ĐẲNG CẤP TỚI LỊCH SỬ
ẤN ĐỘ 1. Đặc điểm xuyên suốt lịch sử của chế độ đẳng cấp
Chế độ đẳng cấp tồn tại qua nhiều thời kỳ trong lịch sử Ấn Độ, chịu ảnh
hưởng và mang đậm những giáo lý, bản chất của Hindu giáo, chế độ này
được giai cấp thống trị duy trì và củng cố trong thời gian dài tạo thành một
hệ tư tưởng ăn sâu trong đời sống người dân tiểu vương quốc Nam Á cho đến ngày nay 1.1. Tính gốc rễ
Đặc điểm này được thể hiện rất cụ thể trong bộ luật Manu thông qua các quy
định, quy tắc xử sự hay những đặc điểm và quyền lợi của từng đẳng cấp. Ban
đầu khi chế độ đẳng cấp mới hình thành thì yếu tố để phân chia các đẳng cấp
đã dựa trên sự phân biệt về mặt chủng tộc, nghề nghiệp, dòng máu. Nói tóm
lại thân phận đẳng cấp của một con người không thể thay đổi qua từng thế
hệ, nói cách khác nó có tính “di truyền”, đời cha thuộc đẳng cấp nào thì đến
đời con và đời cháu cũng sẽ mang thân phận đó. Điều bất cập hơn là tất cả
những người dân ở đây đều phải tuân theo và coi điều đó như một lẽ đương
nhiên. Đó là cội nguồn, cách mà họ đã sinh ra và hiển nhiên họ phải thuận
theo lẽ tự nhiên thực hiện đúng với những trách nhiệm và công việc của
đẳng cấp mình. Do vậy tới ngày nay vẫn còn rất nhiều người dân Ấn Độ vẫn
chấp nhận cái chế độ mang nặng tư tưởng lỗi thời như vậy, chế độ đẳng cấp
như là lối sống, tư tưởng truyền thống của họ từ thời ông ch và họ không có
suy nghĩ sẽ thay đổi tư tưởng đó cũng như thay đổi địa vị đẳng cấp của mình.
Chính bản chất của chế độ này đã nhiều lần gây nên sự bất ổn về chính trị
làm cho đất nước ngày càng trở nên suy yếu, mâu thuẫn xã hội liên tục diễn
ra, gây mất đoàn kết. Điều này đã dẫn đến hậu quả khác khi Ấn Độ bị ngoại
tộc xâm chiếm thì sức mạnh toàn dân là không có để họ có thể bảo vệ được
nền độc lập 1.2. Tính khắc nghiệt
Tất cả những quyền lợi và trách nhiệm của các đẳng cấp trong xã hội được
quy định cụ thể và buộc các đẳng cấp này phải thực hiện theo đúng những
yêu cầu đó cho dù nó rất vô lý và hy sinh quyền lợi và lợi ích hợp pháp của
các đẳng cấp dưới đáy xã hội. Sự khắc nghiệt đó thể hiện trong nhiều mặt
như chính trị, kinh tế, hôn nhân, gia đình, quan hệ giữa các đẳng cấp. Sự bất
cập đó nhiều lần dấy lên sự bất bình nhưng nó chưa đủ để có thể thay đổi tư
tưởng suy nghĩ của toàn bộ người dân Ấn Độ. Các đẳng cấp trên bao gồm
Brahman, Ksatrya và Vashya được hưởng những quyền lợi cao nhất đặc biệt
là Brahman, họ được cho là hiện thân của sự tối cao nên họ khả năng quyết
định tất cả mọi thứ. Pháp luật nhà nước được đưa ra mục đích chính cũng
nhằm bảo vệ cho quyền lợi cũng như địa vị của đẳng cấp này. Trái ngược lại
thì đẳng cấp Sudra-đẳng cấp thấp cổ bé họng, với thân phận nô dịch, bổn
phận sinh ra là nhằm phục vụ cho các đẳng cấp khác, họ không được thừa
nhận nằm trong tôn giáo, không được phép tham gia các nghi lễ đồng thời
không có thân phận, địa vị gì về chính trị, không được nắm giữ tài sản trong
tay và quyền lợi cũng như mạng sống của họ không được pháp luật bảo vệ.
Các đẳng cấp trên có quyền mua hoặc bắt giữ đẳng cấp Sudra để phục vụ cho mục đích cá nhân
Ngoài ra, sự khắc nghiệt còn biểu hiện ở chỗ mọi đẳng cấp trong xã hội đều
phải thực hiện tất cả các trách nhiệm của đẳng cấp mình. Các đẳng cấp cao
bên cạnh việc được hưởng những quyền lợi của họ thì kèm theo đó càng có
nhiều quy tắc mà những đẳng cấp đó cần thực hiện chẳng hạn như các công
việc về tôn giáo, những việc cần tránh phạm phải hay cần chú ý những điều
cấm kị về mối quan hệ giữa các đẳng cấp, trong ứng xử,.. 1.3.Tính tâm linh
Chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ mang đậm bản sắc tôn giáo, những quy tắc mà chế
độ này đưa ra đều dựa trên những cơ sở giáo lý, tư tưởng của Hindu giáo.
Trong bộ luật cổ của Ấn Độ thì cái tên Manu vốn dĩ là một nhà hiền triết
theo đạo Bà la môn, người Ấn Độ cho rằng vị thần tối cao Brahma đã trao bộ
luật đến tay ông. Bên cạnh đó, nguồn gốc sinh ra bốn đẳng cấp là từ các bộ
phận trên cơ thể của Brahma: Đẳng cấp cao nhất là Brahman sinh ra từ
miệng của vị thần Brahma nên là đẳng cấp cao nhất trong xã theo do theo
quan niệm thì miệng là bộ phận tôn quý nhất trên cơ thể, đây là bộ phận
dùng để ăn và nuôi cơ thể ngoài ra miệng còn dùng để truyền tải những ý
nghĩ của con người nên được xem là bộ phận rất quan trọng
Đẳng cấp thứ hai là đẳng cấp Kshatriya được sinh ra từ cánh tay của Brahma
thể hiện cho sức mạnh của họ nên họ là đẳng cấp hiện thân cho lòng can đảm
Đẳng cấp thứ ba là Vaishya được sinh ra từ đùi của Brahma tuy rằng về
quyền lực chính trị giống như hai đẳng cấp trên nhưng đẳng cấp này lại giữ
cho mình vị trí rất quan trọng trong hệ thống đẳng cấp. Giống như phần đùi
chịu trách nhiệm giữ cố định chắc chắn thăng bằng cho cơ thể thì Vaishya
cũng có tầm ảnh hưởng như vậy, họ nắm trong tay về kinh tế - một trong
những mặt quan trọng để phát triển một quốc gia
Đẳng cấp cuối cùng là Sudra – đẳng cấp thấp nhất trong xã hội, được sinh ra
từ gót chân. Do gót chân là nơi tiếp xúc gần với mặt đất tương tự cho đẳng
cấp thứ tư, họ bị cho là thứ thấp kém, bẩn thỉu; mục đích tồn tại duy nhất của
họ là phục vụ cho các đẳng cấp trên mình
Kinh Veda là những điều răn dạy các quy tắc, quy định cho chế độ đẳng cấp
và cơ sở của nó là yếu tố tôn giáo cụ thể ở đây chính là đạo Hindu. Kinh
Veda có nói rõ các đẳng cấp tồn tại tạo nên một hệ thống vững chắc trong xã
hội, mỗi đẳng cấp đều sẽ có sứ mệnh của riêng mình và mỗi người cần thực
hiện trách nhiệm đó cho đến hết cuộc đời mình. Nói cách khác mọi thần dân
phải hiểu đó là suy nghĩ của thần, là lời răn dạy mang theo ý chỉ của thần.
2. Ảnh hưởng tích cực của chế độ đẳng cấp lên lịch sử Ấn Độ 2.1. Về văn hóa
Trước hết, chế độ đẳng cấp đã duy trì trật tự xã hội, luân lý và đạo đức, lối
sống văn hóa trong lịch sử Ấn Độ ngoại trừ nền văn minh ở Trung Hoa ra
các nước khác không có được. Những giá trị văn hóa truyền thống của Ấn
Độ vẫn còn tồn tại trong bối cảnh lịch sử trải qua nhiều biến động phức tạp
do làn sóng ngoại xâm và tiếp xúc văn hóa. Văn hóa truyền thống Ấn Độ tồn
tại nhờ hệ thống đẳng cấp và những giáo lý của đạo Hindu. Người Ấn Độ
dường như không bao giờ có ý định thay đổi đẳng cấp được giao cho họ vì
tin rằng đó là một sự sắp xếp đã được định trước.
Ngoài ra, chế độ đẳng cấp đã tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo được thể hiện
trong sự đa dạng, đặc biệt từ trang phục và phong cách ăn mặc của họ.
Không quốc gia nào trên thế giới có luật nghiêm ngặt và cụ thể về trang phục
và giao tiếp như Ấn Độ. Người Ấn Độ nổi tiếng với việc giữ gìn vệ sinh thân
thể tốt và mọi thành viên trong xã hội phải chú ý đến trang phục và vệ sinh
như một cách thể hiện lòng đạo đức tôn giáo và thực thi các quy tắc đẳng
cấp. Về quan hệ xã hội, người Ấn Độ nổi tiếng là người lịch sự, hiền lành,
hiếu khách trong giao tiếp
Về phát triển văn hóa và nghệ thuật: Chế độ đẳng cấp đã tạo ra một môi
trường thuận lợi cho sự phát triển của văn hóa và nghệ thuật ấn Độ. Các
hoàng gia và quý tộc đã tài trợ cho các nghệ sĩ và nhà văn, giúp họ phát triển
tài năng và sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật đẹp mắt. Bên cạnh đó, người
Ấn Độ đã xây dựng những công trình kiến trúc vô cùng độc đáo: Chế độ
đẳng cấp đã tạo ra một sự cạnh tranh giữa các hoàng gia và quý tộc để xây
dựng các công trình kiến trúc độc đáo và đẹp mắt. Các công trình này đã trở
thành biểu tượng của văn hóa ấn Độ và được coi là một phần quan trọng của
di sản văn hóa của đất nước.
Chế độ đẳng cấp cũng đã có những đóng góp trong việc phát triển giáo dục:
Chế độ đẳng cấp đã tài trợ cho các trường học và đại học, giúp đất nước phát
triển một hệ thống giáo dục tốt hơn. Điều này đã giúp đất nước có được một
lực lượng lao động có trình độ cao hơn và đóng góp vào sự phát triển kinh tế
của đất nước. Ngoài ra, chế độ này có sự nghiêm ngặt trong việc răn dạy về
mặt đạo đức, ý thức con người thực hiện những điều tốt, ngăn chặn những
tác động xấu gây mất trật tự cho xã hội đồng thời có ảnh hưởng tới việc củng
cố chính quyền. Chế độ đẳng cấp đã giúp bảo tồn và phát triển các di sản
văn hóa cho Ấn Độ. Cho đến ngày nay, họ vẫn truyền bá là lưu giữ những