













Preview text:
TRUỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
TÊN ĐỀ TÀI: Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó làm rõ vai trò
của người lao động trong cách mạng 4.0. Họ tên : Lê Phương Minh Mã sinh viên : 11213824 Lớp học phần : LLNL1105(221) Giảng viên hướng dẫn : Nghiêm Châu Giang
Hà Nội, tháng 4/2022 MỤC LỤC
1. Đôi nét về phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:. . . . . . . . . . . . 5
a. Phương thức sản xuất là gì?. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
b. Lực lượng sản xuất là gì?. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
c. Quan hệ sản xuất là gì?. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .8
3. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .10
4. Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển. . . . . . . . . . . . . 11
5. Vai trò của người lao động trong cách mạng 4.0. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13
a , Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trên thế giới trong cách mạng 4.0:. . . . . . . . . . . . .13
b, Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam trong cách mạng 4.0. . . . . . . . . . . . . .14
Nền văn minh của con người cuối cùng được quyết định bởi sự phát triển thích hợp
của năng suất. Vì vậy, việc nghiên cứu các quy luật vận động và các hình thức phát triển
của sản xuất là một môn học hết sức quan trọng.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là thời kỳ thay đổi cách mạng sâu sắc,
toàn diện và cơ bản về mọi mặt. Từ xã hội cũ sang xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ
này bắt đầu khi giai cấp vô sản lên cầm quyền. Cách mạng vô sản thành công rực rỡ, kết
thúc bằng việc xây dựng nền tảng kinh tế - chính trị lý tưởng cho một xã hội mới. Đã đến
lúc phải xây dựng năng suất mới sẽ dẫn đến quan hệ sản xuất mới và quan hệ tài sản mới.
1. Đôi nét về phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
a. Phương thức sản xuất là gì?
Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định. Phương thức
sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn
nhất định trong lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Phương thức sản xuất
đóng vai trò nhất định đối với tất cả mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội. Phương thức
sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan
hệ sản xuất tương ứng.
b. Lực lượng sản xuất là gì?
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ của con người với tự nhiên hình thành trong quá
trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ khống chế tự nhiên của
con người. Đó là kết quả năng lực thực tiễn của con người tác động vào tự nhiên để tạo ra
của cải vật chất đảm bảo sự tồn tại và phát triển của loài người.
Trong cấu thành của lực lượng sản xuất, có thể có một vài ý kiến nào đó khác nhau
về một số yếu tố khác của lực lượng sản xuất, song suy cho cùng thì chúng đều vật chất
hóa thành hai phần chủ yếu là tư liệu sản xuất và lực lượng con người. Trong đó tư liệu
sản xuất đóng vai trò là khách thể, còn con người là chủ thể.
Tư liệu sản xuất được cấu thành từ hai bộ phận đó là đối tượng lao động và tư liệu
lao động. Thông thường trong quá trình sản xuất phương tiện lao động còn được gọi là cơ
sở hạ tầng của nền kinh tế. Trong bất kỳ một nền sản xuất nào công cụ sản xuất bao giờ
cũng đóng vai trò là then chốt và là chỉ tiêu quan trọng nhất. Hiện nay công cụ sản xuất
của con người không ngừng được cải thiện và dẫn đến hoàn thiện, nhờ thành tựu của
khoa học kỹ thuật đã tạo ra công cụ lao động công nghiệp máy móc hiện đại thay thế dần
lao động của con người. Do đó công cụ lao động luôn là độc nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất.
Tư liệu sản xuất của thời đại lịch sử luôn là sản phẩm phức tạp, đa dạng của tất cả
các tổ hợp công nghệ được hình thành và liên hệ với nhau trong quá trình sản xuất và
phát triển kinh tế. . Nó là sự tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó quan trọng và trực tiếp
nhất là trí thông minh của con người, được nhân lên dựa trên sự kế thừa của nền văn
minh vật chất trước đó.
Nước ta giàu tài nguyên thiên nhiên có nhiều nơi chưa từng có, nhưng nhờ tiến bộ
của khoa học kỹ thuật và quy trình công nghệ tiên tiến, con người có thể tạo ra những sản
phẩm mới, có ý nghĩa quyết định chất lượng và giá trị cuộc sống ngày càng tăng. Văn
minh nhân loại. Động lực thu hút mọi hoạt động của con người là tìm kiếm một lực lượng lao động mới.
Vật liệu trong phòng thí nghiệm, bất chấp tính chất và hiện đại, anh ta bị ngăn cách
bởi con người, anh ta không làm việc với tác dụng của mình. Do đó, Renin đã viết: "Sức
mạnh sản xuất chính của tất cả nhân loại là công nhân và công nhân." Công nhân kinh
nghiệm, thói quen chuyên môn, vật liệu sản xuất. Vật liệu sản xuất như một khách hàng
sản xuất, và nó chỉ hoạt động khi nó được kết hợp với công việc của con người. Đại hội
đảng VII đã được xác nhận: Sự nghiệp phát triển kinh tế ném người đứng đầu, và vị trí
trung tâm đã đạt được sự tăng trưởng kinh tế thống nhất của tiến bộ khoa học và xã hội.
Là một bộ phận của năng suất xã hội, người lao động có sức khỏe về thể chất, có kiến
thức văn hóa, có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm, thói quen tốt, có phẩm chất ưu
tú, tác phong lành mạnh, cần có lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao trong công
việc. Trước đây, chúng ta chưa chú trọng đến vị trí của người lao động nên chưa biết cách
phát triển bằng cách tận dụng tốt nhất yếu tố con người. Thật vậy, năng lực và kinh
nghiệm của con người phụ thuộc vào tư liệu sản xuất hiện có mà họ sử dụng. Nhưng sự
thôi thúc của cô ấy để tạo ra đã thúc đẩy nền kinh tế.
c. Quan hệ sản xuất là gì?
Quan hệ sản xuất là một phạm trù triết học dùng để chỉ quan hệ giữa người với
người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao
gồm quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu, quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất, quan
hệ phân phối sản phẩm chế tạo ra . . Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng hình
thành và phát triển không phụ thuộc khách quan vào ý muốn của con người.
Nếu quan niệm lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên của sản xuất thì quan hệ sản xuất
là mặt xã hội của sản xuất.
Quan hệ sản xuất có ba mặt:
+ Quan hệ giữa người với người về tư liệu sản xuất chủ yếu (gọi là quan hệ sở hữu)
+ Quan hệ giữa những người trong tổ chức, quản lý xã hội và trao đổi hoạt động
với nhau cho người khác (gọi là tổ chức và các mối quan hệ quản lý).
+ Quan hệ giữa con người với nhau trong phân phối và lưu thông hàng hoá sản
xuất ra (gọi là quan hệ phân phối và lưu thông)
Trong ba khía cạnh của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu
là quan hệ cơ bản và đặc trưng mối quan hệ đối với từng công ty. Quan hệ sở hữu xác
định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Trong việc đổi mới và củng cố quan hệ sản xuất, một vấn đề quan trọng được Đại hội VI
nhấn mạnh là phải thực hiện đồng bộ ba mặt: chế độ tài sản, phương thức quản lý và
phương thức phân phối. Về mặt lý thuyết, chắc chắn rằng chế độ tài sản là cơ sở của quan
hệ sản xuất. Đó là đặc điểm để phân biệt không chỉ các quan hệ sản xuất khác nhau mà
còn cả các thời đại kinh tế khác nhau của lịch sử, như đã nói.
Sự thật lịch sử cho thấy rõ mọi cuộc cách mạng xã hội đều có mục tiêu kinh tế là
cung cấp cho lực lượng sản xuất những điều kiện thuận lợi để phát triển và nâng cao đời
sống vật chất của các dân tộc. Đó là lịch sử tự nhiên của các quá trình chuyển đổi giữa
các hình thái kinh tế - xã hội trong quá khứ và cũng là lịch sử tự nhiên của thời kỳ chuyển
từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Và đặc biệt, trong một quan hệ sản xuất nhất định, bản chất của sở hữu cũng quyết
định bản chất của quản lý và phân phối. Mặt khác, trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội
nhất định, quan hệ sản xuất thống trị luôn giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác,
cải biến chúng ít nhiều để chúng không những không đối lập mà còn phục vụ có hiệu quả
hơn. lực lượng cho sự tồn tại và phát triển của chế độ kinh tế - xã hội mới.
Nếu trước đây không có sự chuyển đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình
thái kinh tế - xã hội khác mà hoàn toàn là một quá trình tiến hóa suôn sẻ, thì sự chuyển
đổi từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa hoặc tiền tư bản sang hình thái kinh tế
cộng sản chủ nghĩa ngày nay thời đại là ít hơn và ít hơn một quá trình suôn sẻ. Chủ nghĩa
Mác - Lê-nin chưa bao giờ coi bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào tồn tại từ đó đến nay là chuẩn mực nhất.
Trong mọi hình thái kinh tế - xã hội, bên cạnh những quan hệ sản xuất thống trị
thường có những quan hệ sản xuất phụ thuộc, lạc hậu còn sót lại từ những xã hội cũ.
Ngay cả những nước tư bản tiên tiến nhất cũng không chỉ có quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa thuần túy. Tất cả các tình huống trên đều bắt nguồn từ sự phát triển không
đồng đều của năng suất không chỉ giữa các quốc gia khác nhau mà còn giữa các khu vực
và các lĩnh vực khác nhau của các quốc gia. Như C.Mác đã nhận định, quá trình chuyển
từ quan hệ sản xuất lạc hậu sang quan hệ sản xuất cao hơn có một thời kỳ lịch sử “Không
bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa
chín muồi. .” Những điều kiện cần phải có và một lịch sử tương đối lâu dài. có thể tạo ra các chất trên.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp
Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa học kinh tế - chính trị năm 1859, Mác
viết: “Trong nền sản xuất xã hội đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất
định, tất yếu không phụ thuộc vào ý chí của con người. sản lượng. Các quy luật này phù
hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Những quan hệ này phù hợp
với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của chúng . . ”Tư tưởng
của Mác thường được coi là tư tưởng về“ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với bản chất của quan hệ sản xuất.
Hầu như quy luật này đã được tán thành của các nhà nghiên cứu triết học mácxít từ
trước đến nay. Thuật ngữ “phù hợp” được hiểu là chỉ phù hợp là tốt, hợp pháp, không
phù hợp là không tốt. Nó vi phạm pháp luật. Từ "phù hợp" có vấn đề trong nhiều lĩnh vực.
Có nhiều hình thức quan hệ sản xuất khác nhau, và nhìn chung chúng là những hình thức
năng suất hình thành mối quan hệ chủ yếu quan trọng nhất với kiểu quan hệ sản xuất.
Mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của năng suất. Nhưng mối
quan hệ giữa hai yếu tố cơ bản này là gì? Nó có phù hợp hay không? Thống nhất hay mâu
thuẫn? Đầu tiên, chúng ta cần xác định các thuật ngữ tương ứng với các ý nghĩa sau:
+ Sự phù hợp là sự cân bằng, thống nhất giữa các mặt đối lập hay “sự bình lặng” giữa các mặt.
+ Phù hợp là sự cân bằng , sự thống nhất các mặt đối lập hay sự “ sự yên tính “ giữa các mặt .
+ Phù hợp là một xu hướng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt tới .
Trong phép biện chứng, sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự mất cân đối là tuyệt đối. Nó
là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Chúng ta biết rằng trong phép biện chứng cái
tương đối không thể tách rời cái tuyệt đối, nghĩa là giữa chúng không có giới hạn xác
định. Nếu chúng ta nhìn nó theo cách khác, cân bằng có thể được hiểu là trạng thái đứng
yên, và mất cân bằng có thể được hiểu là chuyển động. Nghĩa là, sự cân bằng của sản
xuất chỉ là tạm thời, và sự không phù hợp giữa chúng là tuyệt đối. Sự phát triển chỉ có thể
hình dung được trong chừng mực chân lý vĩnh cửu của sự vận động được công nhận.
Cũng vì lý do đó, sự phát triển chỉ có thể được hình thành trong chừng mực người ta chấp
nhận, để đạt được sự phát triển trong sự mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, chỉ khi người ta chấp nhận tính lâu dài của sự không phù hợp giữa lực lượng sản
xuất và các quan hệ sản xuất.
Từ những lý thuyết này đến thực tế của đất nước chúng ta cũng vậy, cùng với quá
trình phát triển lịch sử lâu dài của nó từ thời kỳ đồ đá đến thời kỳ văn minh hiện đại của
chúng ta. Đất nước ta đã đi từ bất cập hay lạc hậu của nền văn hiến của đất nước cho đến
ngày nay. Hiện nay, quá trình vận động và phát triển của sản xuất là quá trình chuyển từ
chủ nghĩa không phù hợp sang chủ nghĩa phù hợp, mà trạng thái phù hợp chỉ là tạm thời,
ngắn ngủi, mong muốn tạo ra sự phù hợp vĩnh cửu giữa lực lượng sản xuất với quan hệ
của sản xuất chống lại tự nhiên, tiêu diệt cái không thể phá hủy, tức là nói phong trà.
Tóm lại, có thể nói, thực chất của quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất là quy luật mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa chúng chỉ là một trục, chỉ là
trạng thái tĩnh lặng tạm thời, còn sự vận động, dao động, mâu thuẫn là vĩnh viễn, chỉ có
khái niệm mâu thuẫn mới có thể phân định được động lực của sự phát triển mới có thể
giúp chúng ta hiểu được sự vận động của các quy luật kinh tế.
3. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất:
Chúng ta đều biết rằng quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai bộ phận cấu
thành của phương thức sản xuất có mối quan hệ tác động biện chứng với nhau. Đẩy quan
hệ sản xuất ra quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là hiện
tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc của tư duy
sai lầm này là bệnh chủ quan, tự nguyện và mong muốn nhanh chóng đạt được chủ nghĩa
xã hội thuần nhất bất chấp các quy luật khách quan. Về phương pháp luận, đó là chủ
nghĩa duy vật siêu hình đã lạm dụng tác động ngược của quan hệ sản xuất đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Sự lạm dụng này thể hiện ở chỗ “Chuyên chính vô sản có
khả năng chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển”.
Nhưng khi bắt tay vào thực hiện, người ta quên rằng “hoạt động” không đồng nghĩa
với sự chủ quan độc đoán, con người không thể tự do sáng tạo ra bất cứ hình thức quan
hệ sản xuất nào mà mình muốn có. Ngược lại, quan hệ sản xuất luôn bị quy định chặt chẽ
bởi trạng thái của lực lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tự nhiên và giai đoạn phát
triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ có thể mở đường cho lực lượng sản
xuất phát triển khi chúng được hoàn thiện về mọi mặt, giải quyết kịp thời mâu thuẫn
giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và biến đổi của các quan hệ sản
xuất: lực lượng sản xuất là sự thay đổi đầu tiên và luôn thay đổi của sản xuất. tìm cách cải
tiến công cụ làm việc. Tạo công cụ làm việc mới. Sức lao động quy định sự hình thành và
biến đổi của quan hệ sản xuất. Khi quan hệ sản xuất không thích ứng với trình độ và tính
chất của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm, thậm chí tiêu diệt lực lượng sản xuất. kìm
hãm, thậm chí tiêu diệt lực lượng sản xuất và ngược lại.
+ Sự trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất
khi đã được hình thành thì độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và trở thành cơ sở,
thiết chế xã hội, không thể đồng thời biến đổi với lực lượng sản xuất. Thường tụt hậu so
với lực lượng sản xuất, và nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản xuất và tính chất
của lực lượng sản xuất thì nó tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
Nếu nó tụt hậu so với lực lượng sản xuất, mặc dù tạm thời, nó sẽ kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ đến lực
lượng sản xuất thì đó là do chúng quyết định mục đích sản xuất, hệ thống tổ chức sản
xuất và quản lý xã hội, phương thức phân phối và phần ít nhiều quan trọng của của cải
được hưởng. bởi dân số. người làm việc. Do đó, nó ảnh hưởng đến thái độ của tất cả quần
chúng lao động. Nó tạo ra những điều kiện kích thích hoặc hạn chế sự phát triển của công
cụ sản xuất và áp dụng tri thức khoa học kỹ thuật vào sản xuất và phân công lao động quốc tế.
4. Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển :
Sự vận dùng sai lầm trước năm 1986
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến, đất nước ta gặp nhiều khó khăn về kinh tế.
Nước ta lâu nay vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn . Lực lượng sản xuất
thiếu tay nghề, công cụ thô sơ, ít ỏi với hình ảnh quen thuộc “trâu đi trước, cày sau”,
người lao động tuy cần cù nhưng trình độ kỹ thuật còn hạn chế. .
Nền nông nghiệp còn sơ khai, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, công nghiệp ít đa
dạng, chủ yếu là thủ công và một số ngành công nghiệp nhẹ . Thương mại kém phát triển,
nhất là giao thương với nước ngoài rất hạn chế.
Lâm vào tình trạng đó là do chính sách của Đảng có sai lầm là nhà nước ta vận
dụng quy luật quan hệ sản xuất theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Điều đó có nghĩa là đối với những cá nhân sản xuất nhỏ không thuộc sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất, nhưng trong nền sản xuất mà sở hữu công cộng trở thành đa số, thì
người lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất và không được làm chủ quá trình sản xuất. ,
phụ thuộc vào lãnh đạo hợp tác xã, họ không phải là chủ sở hữu thực sự, điều này làm
cho nền kinh tế kém phát triển.
Kinh tế quốc doanh lại trở nên phổ biến, mặc dù theo quy định của pháp luật nhân
dân sở hữu tư liệu sản xuất và sản phẩm sản xuất ra, nhưng trên thực tế công nhân chỉ là
người làm thuê, trong khi tiền lương của mỗi công nhân được nhận rất ít và không phụ
thuộc vào khối lượng sản phẩm được sản xuất.
Do đó, người lao động mất dần tính chủ động sáng tạo, mất động lực tận dụng, sản
xuất kinh doanh kém hiệu quả mà không ai chịu trách nhiệm, không có cơ chế gắn kết
trách nhiệm nên người lao động tự ái kết quả hoạt động của mình.
Đây là nguyên nhân sâu xa của những ảnh hưởng tiêu cực trong việc phân phối, chỉ
một số người nhất định mới có quyền quyết định việc phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền, đặc lợi.
Hiện nay Đảng ta đang tích cực vận dụng quy luật này một cách đúng đắn hơn để
thúc đẩy kinh tế phát triển.
5. Vai trò của người lao động trong cách mạng 4.0 :
a , Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trên thế giới trong cách mạng 4.0:
Lực lượng sản xuất ngày nay đã vượt xa thời đại của Mác . Các Mác đã xây dựng lý
thuyết của mình trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ hai
(cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ hai được đánh dấu bằng sự ra đời của
điện), và ngày nay nhân loại đã bước vào cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ
tư, mở đầu cho kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm thay đổi phương thức sản xuất, chế tạo và tác
động mạnh mẽ đến tất cả các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất.
Đối với người lao động, thông qua việc áp dụng công nghệ trong cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, các nguồn tài nguyên, nhiên liệu và nguyên liệu ngày càng trở
nên phong phú hơn. Nếu dựa vào các yếu tố đầu vào của nền kinh tế công nghiệp dựa
vào tài nguyên thiên nhiên thì tài nguyên thiên nhiên ngày càng khan hiếm và cạn kiệt do con người khai thác.
Cho thiết bị làm việc (công cụ làm việc và cơ sở sản xuất), cuộc cách mạng công
nghiệp thứ tư tạo ra nhiều công cụ làm việc mới và dẫn đến việc thay thế từng bước của
phần cứng công việc truyền tải. Thông qua các tài liệu làm việc hiện đại dựa trên việc
thực hiện khoa học và công nghệ hiện đại được nhắm mục tiêu trong lĩnh vực công nghệ
sinh học, công nghệ và thông tin vật liệu mới. Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra các
công cụ mới để làm việc và sản xuất với máy tiêu thụ năng lượng ít nhiên liệu và năng
lượng, ít quan trọng hơn. Chất thải, không gây ô nhiễm môi trường, tạo nền. Sản xuất
phát triển bền vững. Máy móc và công nghệ mới chứa một lượng thông tin cực kỳ quan
trọng để sản xuất năng suất cao và các sản phẩm chất lượng cao.
Đối với người lao động, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tác động mạnh
mẽ đến người lao động, làm thay đổi các chức năng của con người trong sản xuất: con
người dần không còn là yếu tố chế tác. Trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật, việc chuyển
sang chủ yếu tạo và điều chỉnh quá trình đo lường xu hướng việc làm sẽ là chuyển từ sản
xuất thâm dụng lao động sang sản xuất thâm dụng công nghệ. Nó ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp. Ngoài những
yêu cầu khắt khe về kỹ năng kỹ thuật (trình độ trung bình và cao), bao gồm kiến thức
chuyên môn và kỹ năng thực hiện các công việc cụ thể, người lao động phải có các kỹ
năng tổng hợp hoặc cơ bản như: khả năng tư duy sáng tạo và chủ động trong công việc,
kỹ năng sử dụng máy tính , Internet, ngoại ngữ, kỹ năng làm việc nhóm, . .
Nhân viên giờ đây không chỉ được giải phóng khỏi công việc chân tay mà còn được giải
phóng khỏi công việc trí óc. Công cụ lao động trong thời đại 4.0 không chỉ là cánh tay
nối dài của người thợ mà cánh tay này còn được “thông minh hóa”. Giao tiếp giữa công
nhân robot bậc cao - máy móc thông minh . . tác động đến nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệu mới, tạo ra sản phẩm theo nhu cầu của con người, thậm chí đáp ứng nhu cầu tùy biến
ngày càng cao của người tiêu dùng.Theo các chuyên gia, hiện nay, do tác động của cuộc
cách mạng 4.0, mối quan hệ giữa con người với nhau trong quá trình sản xuất đã thay đổi đáng kể:
+ Về quan hệ tài sản: Đối tượng tài sản hiện nay không chỉ dừng lại ở tư liệu sản
xuất mà đã xuất hiện những hình thức mới mà thời Mác chưa có, đó là: năng lượng,
thông tin, trí tuệ, kinh nghiệm và quyền sở hữu. Quan hệ sở hữu phát triển và gia tăng,
nhất là đối với công nghệ siêu hiện đại.
+ Về các mối quan hệ quản lý: Sản xuất đang hướng tới người máy, coi năng lực
là yếu tố chính trong sản xuất chứ không phải vốn.
+ Về quan hệ phân phối: Sự ra đời của công nghệ làm cho nó có thể sản xuất ra
những phương tiện khá thoải mái để thoả mãn nhu cầu của con người.
b, Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam trong cách mạng 4.0 :
Cũng như nhiều nước đang phát triển khác, Việt Nam đang bước vào cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0). Trong thời gian gần đây, CMCN 4.0 được đề
cập nhiều. Bản chất của CMCN 4.0 là sản xuất thông minh nhờ vào tiến bộ của công
nghệ số trong hai thế giới kết nối với nhau trong đó ta đang và sẽ sống: Thế giới các thực
thể và thế giới các phiên bản số của các thực thể (thế giới số).
Để triển khai CMCN 4.0 cần phải có nguồn nhân lực chất lượng cao và cụ thể là
nguồn nhân lực số. Cần phát triển và đào tạo ngay nguồn nhân lực số để đông đảo người
lao động có thể dùng được công nghệ số trong nghề nghiệp của họ và một bộ phận tinh
hoa có thể tạo ra công nghệ số cho những nghề nghiệp đó, nhất là những nghề trong định
hướng phát triển của đất nước.
Hiện nay, giai cấp công nhân đóng vai trò quan trọng trong đổi mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; từng bước nâng
cao năng suất lao động, chất lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và
sản phẩm; đóng góp to lớn nâng cao tiềm lực kinh tế đất nước.
TS Trần Thị Hương cho rằng, sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là nhân tố quan
trọng để đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Người lao động là những đối tượng trực tiếp làm việc trong các công
xưởng, nhà máy, doanh nghiệp, trong các lĩnh vực của ngành kinh tế công nghiệp, trực
tiếp tiếp nhận công nghệ tiên tiến đưa vào sản xuất, cải tiến công cụ, quy trình, quản lý. .
Đó là những người chủ trong ngành công nghiệp, người đi tiên phong trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Lực lượng lao động Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng. Trình độ học vấn và trình
độ chuyên môn, nghề nghiệp của người lao động Việt Nam ngày càng được cải thiện. Số
lao động có tri thức, nắm vững khoa học - công nghệ tiên tiến tăng lên. Lao động trong
các khu công nghiệp, các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước
ngoài cũng đã được cải thiện về kỹ năng, tay nghề lao động, tác phong công nghiệp,
phương pháp làm việc tiên tiến. .
Giai cấp công nhân nước ta hiện nay đã kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của
giai cấp công nhân Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng trước đây, thực hiện mục
tiêu, nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là truyền thống tiên phong
cách mạng, kiên trì khắc phục và vượt qua khó khăn, gian khổ, quyết liệt, năng động,
sáng tạo trong sản xuất.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự phát triển, người lao động còn nhiều hạn chế, bất cập
như chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn,
kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành
nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần lao động từ
nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Bên cạch đó, trình độ văn hóa và tay
nghề của người lao động dù đã được cải thiện, song vẫn còn thấp, điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến việc tiếp thu khoa học - kỹ thuật, đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1 . Giáo trình Triết học Mác Lê-nin ( Bộ GD&ĐT , Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật )
2. Nhóm PV (Vietnam+), 2021, Cách mạng 4.0 sẽ thay đổi công việc lao động trong 5
năm tới, Vietnam+, https://link.gov.vn/drVNagkZ.
3. V.I. Leenin : Toàn tập ( trọn bộ 55 tập ) , Nxb . Chính trị quốc gia , Hà Nội , 2005
Document Outline
- 1.Đôi nét về phương thức sản xuất, lực lượng sản xuấ
- 2.Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
- 3.Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
- 4.Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
- 5.Vai trò của người lao động trong cách mạng 4.0 :
- a , Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trên th
- b, Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt N