Tiểu luận môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Đại học Ngoại Thương

Tiểu luận môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Đại học Ngoại Thương. Tài liệu gồm 27 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
--------***--------
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÁC-LÊNIN
NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN; VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA
THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂN
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Lê Mai Linh
Mã sinh viên: 2012450021
Lớp Anh 02, CLC Kinh tế quốc tế, khóa 59
Lớp tín chỉ: TRIE115CLC.4
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đinh Thị Quỳnh Hà
Hà Nội, 04/2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................5
NỘI DUNG...................................................................................................6
PHẦN I: KHÁI QUÁT NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN
VIỆT NAM...............................................................................................6
1. Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam........................................6
2. Cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta................................8
2.1. Kinh tế nhà nước (KTNN).........................................................8
2.2. Kinh tế tập thể............................................................................9
2.3. Kinh tế tư nhân.........................................................................10
2.4. Kinh tế tư bản nhà nước...........................................................10
2.5. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài............................................12
PHẦN II: VỊ TRÍ, VAI T CỦA THÀNH PHẦN KINH T
NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA............................................................12
1. Kinh tế tư nhân là gì?......................................................................12
2. Các thành phần kinh tế nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta......................................................................13
2.1. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ..........................................13
2.2. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân...........................................14
3. Vị trí của thành phần kinh tế nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta..............................................................15
4. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta.................................................................................17
4.1. Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế............................................17
4.2. Thúc đẩy quá trình chuyển đổi chế quản kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế...........................................................................18
4.3. Mang đến hiệu quả về đầu tư tài chính....................................20
5. Thực trạng kinh tế nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay...................................................................20
6. Phương hướng giải pháp phát triển nền kinh tế tư nhân ở nước ta. 23
KẾT LUẬN.................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................26
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử từ những năm đấu
tranh với những thế lực lớn mạnh để giành độc lập chủ quyền dân tộc đến
những tháng ngày nghèo nàn, lạc hậu. Nền kinh tế trong thời kỳ đó còn yếu
kém và tồn tại dưới hình thức quan liêu, bao cấp. Vì vậy, công cuộc chuyển
đổi nền kinh tế này sang kinh tế thị trường định hướng XHCN một bước
đi sáng suốt của Đảng Nhà nước. Trong quá trình đó, vấn đề phát triển
cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần được đặt ra như một yêu cầu tất yếu.
Kinh tế tư nhân một bộ phận trong cấu ấy đã một thời kỳ bị
xem đối lập với kinh tế định hướng XHCN, vậy còn bị bài trừ xóa
bỏ. Tuy nhiên trải qua thực tiễn cùng việc quan sát từ các quốc gia trên thế
giới, kinh tế nhân đã xuất hiện trở lại nước ta đóng góp một phần
không nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo hướng tích cực.
Đảng Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách khuyến
khích nền kinh tế nhân. Trong bối cảnh các nguồn lực kinh tế của Việt
Nam còn đang hạn chế, xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế
nhân như một động lực phát triển bản một hướng đi hoàn toàn
đúng đắn. Song kinh tế nhân vẫn còn gặp nhiều khó khăn thiếu sót
trong quá trình phát triển. Nhận thức được tính cấp thiết cùng với mong
muốn tìm hiểu thêm những vấn đề kinh tế còn tồn đọng ở nước ta, em chọn
đề tài: Nền kinh tế nhiều thành phần Việt Nam; vị trí, vai trò của
thành phần kinh tế nhân” để làm bài tiểu luận kinh tế chính trị Mác
Lênin. Tuy nhiên, do thời gian hạn nên bài tiểu luận của em còn nhiều
thiếu sót, em hi vọng nhận được sự góp ý và giúp đỡ của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
PHẦN I: KHÁI QUÁT NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở
VIỆT NAM
1. Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam
Tại Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm với nội dung
bản phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng hội
chủ nghĩa. Từ đó đến nay, đất nước ta đã những bước phát triển vượt
bậc, thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế hội luôn đạt mức tăng
trưởng cao. Những thành tựu đó khẳng định tính đúng đắn của đường lối
đổi mới nói chung chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta cũng cần phải
nhận thức những tiêu cực do nền kinh tế nhiều thành phần gây ra, đặc
biệt là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin, sự tồn
tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội
một tất yếu lịch sử. Trong Những nguyên của chủ nghĩa cộng sản,
Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, sau khi giai cấp công nhân giành được chính
quyền thì không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được phải cải
tạo dần dần. Đến Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác
Ph.Ăngghen chỉ rõ, sau khi giành được thắng lợi chính trị, giai cấp sản
sẽ dùng sự thống trị chính tr của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ
bản trong tay giai cấp sản. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa hội Liên
vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX càng khẳng định tính đúng đắn
của việc sử dụng cải tạo dần dần đối với những thành phần kinh tế của
xã hội cũ mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra.
Cơ sở của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, xét đến cùng, là do quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là ở cácớc tiểu nông, do trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất còn nhiều hạn chế và không đồng đều nên
tất yếu còn tồn tại nhiều loại hình sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; hơn
nữa, một số thành phần kinh tế của phương thức sản xuất còn tác
dụng tích cực nhất định đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Điều
đó cho thấy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã giải thích rất
tại sao phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Nền kinh tế nhiều thành phần nước ta hiện nay sản phẩm của quá
trình Đảng nhân dân ta nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lênin, thể hiện duy mới của chúng ta về chủ nghĩa hội con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội VI, khi đề ra đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta chủ
trương đa dạng hoá các loại hình sở hữu, phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng hội chủ nghĩa. Đây bước tiến quan trọng về
duy luận nhận thức thực tiễn. Đảng không chỉ thừa nhận sự tồn tại
như một tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ,
còn nhận thấy sự cần thiết phải chính sách đúng đắn nhằm sử dụng
và phát triển các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhân nhằm thực
hiện những mục tiêu của chủ nghĩa hội. Cùng với sự vận động của thực
tiễn sự phát triển của nhận thức, luận về phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng hội chủ nghĩa tiếp tục được Đảng Cộng sản
Việt Nam bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX X. Tại
Đại hội X (năm 2006), Đảng ta xác định cấu nền kinh tế nước ta gồm
năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế nhân,
kinh tế bản nhà ớc, kinh tế vốn đầu nước ngoài. Văn kiện Đại
hội X cũng khẳng định các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành của
nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa nước ta, các thành
phần kinh tế bình đẳng với nhau. Điều này tác dụng tích cực tạo sự yên
tâm phát triển sản xuất kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp trong các
thành phần kinh tế phi nhà nước.
2. Cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
2.1. Kinh tế nhà nước (KTNN)
Việt Nam, KTNN ngày càng khẳng định vai trò, vị thế của mình
trong các thành phần kinh tế. Do bản chất mục đích hoạt động, nên
thành phần KTNN vai trò chính trị - hội to lớn. Các doanh nghiệp
trong thành phần KTNN luôn tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; đóng vai trò quan trọng trong một số ngành, lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế, như viễn thông, than, điện, xăng dầu, khai
khoáng, tài chính, ngân hàng các dịch vụ công thiết yếu bảo đảm nhu
cầu tiêu dùng, sản xuất trong nước và xuất khẩu.
Các DNNN vừa chủ thể kinh doanh, vừa là lực lượng kinh tế nòng
cốt do Nhà nước sử dụng trong tác động tham gia các hoạt động kinh tế. Là
chủ thể kinh doanh, các DNNN phải thực hiện hạch toán kinh tế, tự chủ về
tài chính, hoạt động có hiệu quả để bảo đảm quá trình tái sản xuất mở rộng,
bảo đảm gia tăng nguồn lực kinh tế Nhà nước đã đầu cho các DN
này. Là lực lượng tham gia các hoạt động kinh tế như một công cụ của Nhà
nước, các DNNN cần góp phần tạo ra sự ổn định kinh tế - xã hội, giúp Nhà
nước đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.
Tuy nhiên, khi Nhà nước nắm trong tay một khối lượng sở hữu khổng
lồ thì chính những bất lợi (khuyết tật) của sở hữu nhà ớc bắt nguồn từ
đặc điểm của hình thức sở hữu này ngày càng bộc lộ tạo nên xu hướng
làm giảm tính hiệu quả của thành phần kinh tế này, kéo theo sự sụt giảm
hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
Chúng ta đang cấu lại khu vực DNNN, theo đó tập trung vào
những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng an ninh -
quốc phòng, những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác không đầu tư. DNNN tiến tới phải thật sự hoạt động theo chế thị
trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu; tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác theo quy định pháp luật.
2.2. Kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể tồn tại phát triển dựa trên hình thức sở hữu tập thể
sở hữu của các thành viên. Sự phát triển theo định hướng hội chủ
nghĩa nước ta đòi hỏi phát triển mạnh mẽ vững chắc thành phần kinh
tế này, bởi như V.I.Lênin đã nhấn mạnh, đó là mô hình dễ tiếp thu nhất của
những người nông dân để tiến lên sản xuất lớn hội chủ nghĩa. Rút bài
học kinh nghiệm sâu sắc từ phong trào tập thể hoá trước đổi mới thực tế
những năm đổi mới vừa qua, Đảng Nhà nước ta rất quan tâm đến việc
phát triển thành phần kinh tế này, chủ trương xây dựng các hợp tác kiểu
mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và nhu cầu của các chủ thể
sản xuất.
Những năm qua, mặc được xác định cùng với kinh tế nhà nước
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, song sự
phát triển của kinh tế tập thể còn nhiều hạn chế: hoạt động chưa hiệu
quả, sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, tỷ trọng GDP liên tục giảm. Do
vậy, cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc
dân, chúng ta cần những biện pháp tích cực để kinh tế tập thể phát triển
từng bước, vững chắc.
2.3. Kinh tế tư nhân
Kinh tế nhân thành phần kinh tế thuộc cấu kinh tế của một
quốc gia, được hình thành phát triển dựa trên sự sở hữu của nhân về
tư liệu sản xuất cũng như lợi ích cá nhân.
Đối tượng sở hữu kinh tế nhân đó các thể hoặc một nhóm
người thuộc về nhân đứng lên. Kinh tế nhân bao gồm kinh tế thể,
tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Về lĩnh vực sản xuất kinh doanh kinh tế nhân bao gồm các hộ gia
đình, các doanh nghiệp nhân tham gia vào các quá trình, hoạt động sản
xuất kinh doanh các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, vận tải, nông
lâm thủy sản, thương mại, dịch vụ,...
Về hình tổ chức: kinh tế nhân bao gồm các hộ kinh doanh
thể các doanh nghiệp nhân được tổ chức dưới các loại hình nhân,
trách nhiệm hữu hạn, cổ phần, hợp danh,...
2.4. Kinh tế tư bản nhà nước
Kinh tế bản nhà nước, đó "hình thức tổ chức liên kết kinh tế
bản tư nhân, kinh tế nhân với nhà nước hội chủ nghĩa; hình thức kinh
tế hiện đại để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thành kinh tế thị
trường theo định hướnghội chủ nghĩa; hình thức kinh tế kết hợp nội lực
với ngoại lực".
nước ta, các nhân tố định hướng hội chủ nghĩa bằng kinh tế bao
gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác kinh tế bản nhà nước.
Trong đó, định hướng trực tiếp cho sự phát triển kinh tế nhân bản
nhân kinh tế bản nhà nước. Với ý nghĩa đó, VI. Lê-nin đã coi kinh
tế bản nhà nước khâu trung gian, một bước tiến, là một thắng lợi
lớn trên con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội. Thành phần kinh tế tư bản nhà
nước nhân tố quan trọng để liên kết ngay từ đầu giữa công nghiệp với
nông nghiệp sở xuất phát lâu dài của phát triển kinh tế thị trường;
một trong những bộ phận phát triển cao nhất. đó trình độ phát triển
lực lượng sản xuất cao nhất, cách tổ chức kinh tế hiệu quả nhất, nên sẽ
đóng góp nhiều hơn cho tăng trưởng tiến bộ hội. Do đó, một
trong những động lực chính của tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thành phần kinh tế bản nhà nước nhu cầu liên kết với nền nông
nghiệp nhỏ, thúc đẩy sản xuất hàng hoá (cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp). Phát triển thành phần kinh tế bản nhà nước, với sức mạnh kinh
tế và tổ chức của nó là nhân tố quan trọng để kết hợp công nghiệp với nông
nghiệp trên phạm vi vùng, hình thành cấu vùng kinh tế. Nhờ đó,
sở để khắc phục dần chủ nghĩa địa phương cục bộ trong quản địa
phương, quản ngành. Thành phần kinh tế bản nhà nước mang tính tập
trung sản xuất quản hiện đại của một hệ thống mở. Nhờ sự phát triển
của thể khắc phục dần tình trạng manh mún, phân tán, chia cắt
trong sản xuất trong quản nước ta. Phát triển thành phần kinh tế
bản nhà nước sẽ tạo sở cho hình thành một hệ thống kiểm kê, kiểm soát
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. là nhân tố chủ yếu để khắc phục xu
hướng tự phát chính phủ trong kinh tế, nhất là trong nông nghiệp,
thương mại, dịch vụ. cũng tạo sở cho việc đẩy lùi ngăn chặn
những tiêu cực như hối lộ, tham nhũng, lãng phí… trong các sở kinh tế,
nhất là trong kinh tế nhà nước.
Trong khu vực đầu nước ngoài, kinh tế bản nhà nước không chỉ
đem lại nguồn vốn, chuyển giao công nghệ, còn đem vào cách quản
kinh tế thị trường hiện đại, đang điểm yếu nhất trong công tác quản
của nhà nước ta. nước ta, nếu biết học hỏi vận dụng sáng tạo cách
quản lý hiện đại, Nhà nước sẽ đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý, tạo ra
những điều kiện để quản lý quá trình mở cửa và hội nhập.
2.5. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Thành phần kinh tế vốn đầu nước ngoài thuật ngữ chỉ các
doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài, mới được sử dụng phổ biến trong
vài thập niên gần đây, khu làn sóng đầu từ quốc gia này sang quốc gia
khác tăng lên nhanh chóng. Việt Nam, thành phần kinh tế vốn đầu
nước ngoài mới được xác định từ văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX là thành phần kinh tế bao gồm:
- Các doanh nghiệp, công ty 100% vốn nước ngoài.
- Các doanh nghiệp, công ty liên doanh.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thành phần kinh tế này không đồng nhất với các thành phần kinh tế
trong nước cả về mục tiêu chế vận hành. Kinh tế vốn đầu nước
ngoài có đóng góp rất to lớn đối với quốc gia, đặc biệtmột nước đang có
tiềm năng phát triển như nước ta. Doanh nghiệp của khu vực đầu nước
ngoài góp phần làm tăng thêm của cải nâng cao sức cạnh tranh của các
mặt hàng trong nước, đẩy mạnh chuyển đổi công nghệ để nâng cao năng
suất, chất lượng sản phẩm của các cấu ngành nghề trong nước, giải
quyết một số lượng lớn việc làm của người lao động trong nước.
PHẦN II: VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ
NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA
1. Kinh tế tư nhân là gì?
Kinh tế nhân, hiểu cách khái quát chung, khu vực kinh tế nằm
ngoài quốc doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm các doanh
nghiệp trong ngoài nước, trong đó nhân nắm trên 50% vốn đầu .
Kinh tế nhân tất cả các sở sản xuất kinh doanh không dựa trên sở
hữu nhà nước về các yếu tố của quá trình sản xuất. Hiểucấp độ hẹp, kinh
tế nhân khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở hữu nhân, bao
gồm kinh tế thể, tiểu chủ kinh tế bản nhân dựa trên sở hữu
nhân về liệu sản xuất. Kinh tế nhân tồn tại dưới các hình thức như:
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các
hộ kinh doanh thể.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Nhà ớc ta đã nhận thức được vị trí, vai
trò của kinh tế nhân trong chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. Nhờ vậy, kinh tế tư nhân không ngừng lớn mạnh, trở thành một trong
những nhân tố chính tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh. Trải qua hơn 30
năm đổi mới, kinh tế nhân đã không chỉ dần được phục hồi còn
những bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt là sau Đại hội
X (năm 2006), khi kinh tế nhân được xác định chính thức thành phần
kinh tế được khuyến khích phát triển, không hạn chế về quy mô. Kinh tế
nhân đã có những đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hộihội
nhập quốc tế.
Việt Nam hiện khoảng 600 nghìn doanh nghiệp, trong đó gần 500
nghìn doanh nghiệp nhân. Trong số này có tới hơn 96% doanh nghiệp
nhỏ và vừa, 2% doanh nghiệp quy mô vừa2% doanh nghiệp lớn. Doanh
nghiệp nhân tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm, đóng góp hơn 40% tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) mỗi năm
2. Các thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta
2.1. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ
Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên hữu nhỏ về liệu sản
xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động.
Kinh tế tiểu chủ cũng chính hình thức kinh tế dựa trên hữu nhỏ
về liệu sản xuất nhưng thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn
chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành
nghề nông thôn thành thị, điều kiện phát huy nhanh tiềm năng về
vốn sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do đó,
việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế thể tiểu chủ cần được
khuyến khích.
Hiện nay, nước ta, thành phần kinh tế này phần lớn hoạt động dưới
hình thức hộ gia đình, đang một bộ phận đông đảo, tiềm năng to lớn,
vị trí quan trọng, lâu dài. Đối với nước ta, cần phát triển mạnh mẽ thành
phần kinh tế này để vừa góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho hội,
vừa giải quyết nhiều việc làm cho người lao động - một vấn đề bức bách
hiện nay của đời sống kinh tế hội. Trong những năm gần đây, thành
phần kinh tế này phát triển nhanh chóng trong nông lâm ngư nghiệp
thương mại, dịch vụ. đã góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế
hội. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, kinh tế thể tiểu chủ cố gắng
đến bao nhiêu cũng không loại bỏ được những hạn chế vốn như: tính tự
phát, hạn chế về kỹ thuật... Do đó Đảng ta chỉ rõ: cần giúp đỡ kinh tế
thể, tiểu chủ, giải quyết các vấn đề khó khăn về vốn, về khoa học kỹ thuật
công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX viết: “Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển,
khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các
doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn”.
2.2. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân
Kinh tế bản nhân thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh
dựa trên sở chiếm hữu nhân tư bản chủ nghĩa về liệu sản xuất
bóc lột sức lao động làm thuê.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội nước ta hiện nay, thành
phần này vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản
xuất, xã hội hoá sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề
hội. Đây cũng thành phần kinh tế rất năng động nhạy bén với kinh tế thị
trường, do đó sẽ những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng
kinh tế của đất nước. Hiện nay, kinh tế bản tư nhân bước đầu sự phát
triển, nhưng phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ kinh
doanh bất động sản; đầu vào sản xuất con ít chủ yếu quy vừa
nhỏ.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đoạn viết:” Khuyến
khích phát triển kinh tế bản nhân rộng rãi trong các ngành nghề sản
xuất, kinh doanh pháp luật không cấm. Tạo môi trưòng kinh doanh
thuận lợi về chính sách pháp để kinh tế ư bản nhân phát triển trên
những định hướng ưu tên của Nhà ớc, kể cả đầu ra nước ngoài;
khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phiếu cho người
lao động, liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể kinh tế nhà
nước, xây dựng quan hệ tốt với chủ doanh nghiệp và người lao động”.
3. Vị trí của thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta
Quan niệm kinh tế nhân (KTTN) một động lực quan trọng của
nền kinh tế tại Đại hội XII cho thấy bước đột phá về nhận thức của Đảng
ta so với giai đoạn trước, khi chúng ta chỉ coi KTTN một trong những
động lực của nền kinh tế. Hội nghị lần thứ Ban Chấp hành Trung ương
khóa XII tiếp tục yêu cầu phải phát triển mạnh khu vực KTTN cả về số
lượng và chất lượng, để thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền
kinh tế. Trong những năm qua, khu vực KTTN đã làm nên sự phát triển
năng động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong tạo việc làm, nâng
cao thu nhập của người dân, mạnh dạn đột phá đi đầu trong nhiều lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh mới. Do đó, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khu
vực KTTN phát triển cũng chính tạo điều kiện để giải phóng các nguồn
lực phát triển trong xã hội, để nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN) phát huy tối đa các tiềm năng to lớn của nó.
Chủ trương phát triển KTTN gắn liền với chủ trương phát triển KTTT
định hướng XHCN ở nước ta. Đảng ta đã nhận định hết sức đúng đắn rằng:
KTTT sản phẩm của văn minh nhân loại, thể tồn tại thích ứng với
nhiều hình thái hội khác nhau; KTTT phát triển với trình độ cao dưới
chủ nghĩa tư bản (CNTB), song không đồng nhất với CNTB và cũng không
đối lập với chủ nghĩa hội (CNXH). Một quốc gia dựa trên nền tảng thị
trường để phát triển kinh tế có thể chưa chắc nhanh chóng thành công, song
một quốc gia không nền KTTT đầy đủ, hiện đại chắc chắn sẽ không thể
phát triển trong dài hạn. Tự thân KTTT không mang lại CNXH, nhưng
muốn xây dựng CNXH thành công dứt khoát phải phát triển KTTT.
Kinh tế nhân chủ thể quan trọng nhất trong nền KTTT hiện đại.
Mặc quy của khu vực nhân thể khác nhau trong các hình
KTTT đa dạng, song một điều chắc chắn rằng, nếu không khu vực
KTTN thì sẽ không nền KTTT theo đúng nghĩa của nó. không hoàn
hảo, song KTTT vẫn chứng tỏ một chế huy động, phân bổ nguồn lực,
thúc đẩy sáng tạo phát triển được coi tốt nhất hiện nay. Chính hoạt
động của khu vực KTTN giúp vận hành chế đó. Một khu vực KTTN
phát triển chưa chắc mang lại một nền KTTT hoàn hảo. Tự thân khu vực
KTTN không giúp khắc phục những khiếm khuyết “thất bại” của thị
trường. Tuy nhiên, nếu không phát triển KTTN sẽ không thể phát huy hết
thế mạnh của KTTT, không thể khai thác hết nguồn lực phát triển to lớn
của xã hội.
Từ tinh thần của Đại hội XII cũng cần nhấn mạnh làm rõ, việc xác
định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo KTTN một động lực quan
trọng trong nền kinh tế không hàm ý phân biệt đối xử, với ý nghĩa
tùy thuộc vào chức năng của mỗi thành phần kinh tế để xác định vai trò của
chúng. Nhà nước với các nguồn lực, công cụ, chính sách sẽ đóng vai trò
chủ đạo trong việc định hướng và điều tiết nền kinh tế, bảo đảm các cân đối
lớn cho nền kinh tế, kiểm soát các nguồn tài nguyên chiến lược, phát triển
kết cấu hạ tầng dịch vụ công vốn đầu lớn, luân chuyển chậm, lợi
nhuận không cao, rất cần thiết cho nền kinh tế - hộikhu vực nhân
không sẵn sàng đảm nhận; các lĩnh vực quốc phòng - an ninh, một số hoạt
động đầu tư mạo hiểm...
4. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta
4.1. Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
Theo Sách Trắng Việt Nam 2019, khu vực kinh tế nhân trong nước
đang tạo ra khoảng 42% GDP, 30% thu ngân sách Nhàớc. Khối tư nhân
cũng đang thu hút khoảng 85% lực lượng lao động cả nước. Nghĩa cứ
100 lao động, thì 85 người làm việc trong khối tư nhân.
Kinh tế bản nhân cung cấp cho hội sản phẩm vật chất dịch
vụ để thoả mãn nhu cầu về đời sống, nhu cầu cho quá trình tái sản xuất của
hội. Với ưu thế nổi trội của khu vực kinh tế bản nhân: suất đầu
thấp, dễ chuyển đổi phương hướng sản xuất cho phù hợp với nhu cầu của
thị trường, quy nhỏ phù hợp với năng lực quản của các hộ gia đình,
nên đã thu hút được đông đảo các tầng lớp dân cư. Tốc độ tăng trưởng của
khu vực kinh tế tư bản tư nhân khá ổn định.
Theo tính toán của các nhà thống kê, để tăng trưởng 1% GDP của Việt
Nam cần tăng trưởng tiêu dùng 2,1 đến 2,2% (kể cả tiêu dùng cho sản xuất
tiêu dùng cho đời sống). Khu vực kinh tế bản nhân phát triển sẽ
làm tổng cầu tăng nhanh, thực hiện được chủ trương kích cầu của Nhà
nước do mở rộng sản xuất làm cho nhu cầu các yếu tố đầu vào gia tăng,
đồng thời thu nhập của người lao động tăng do sản xuất phát triển và số lao
động được huy động vào làm tăng thêm. Đây chủ yếu tầng lớp thu
nhập thấp nên tỷ lệ tiêu dùng cận biên (MPC) lớn, tỷ lệ tiết kiệm cận biên
(MPS) nhỏ hơn so với tầng lớp có thu nhập cao.
Trong những năm gần đây khu vực kinh tế bản nhân tăng rất
nhanh về mặt số lượng, nhiều doanh nghiệp được hình thành vì thế việc sản
xuất hàng hoá với nhiều mặt hàng trở nên rất đa dạng phong phú. Việc
tiêu dùng của người dân cũng như của các doanh nghiệp tăng nhanh rệt,
doanh nghiệp thì cần sử dụng nhiều nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất,
người tiêu dùng do nhu cầu đời sống ngày càng cao, kèm theo mặt hàng trở
nên phong phú đa dạng cho nên mức tiêu dùng của toàn hội tăng rất
nhanh thế xét trên giác độ tổng cầu thì khu vực kinh tế nhân đã đóng
vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa.
4.2. Thúc đẩy quá trình chuyển đổi chế quản kinh tế, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế
a) Quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế
Sự phát triển của kinh tế bản tư nhân đã đặt ra những yêu cầu
mới thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa. Đã xuất hiện nhiều doanh nhân kinh doanh thành đạt, đưa doanh
nghiệp của mình phát triển, cải thiện được đời sống người lao động, đóng
góp ngày càng nhiều cho xã hội, được xã hội tôn vinh.
Trình độ sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế bản nhân
ngày càng tiến bộ hơn, số lượng hàng hoá tham gia xuất khẩu ngày càng
tăng. Nhiều sản phẩm của khu vực kinh tế bản nhân được xuất khẩu
uỷ thác qua doanh nghiệp nhà nước doanh nghiệp vốn đầu nước
ngoài. Khu vực kinh tế bản nhân còn tham gia nhiều công đoạn trong
quá trình sản xuất hàng xuất khẩu. Xuất khẩu trực tiếp của khu vực kinh tế
bản nhân đến nay đã ngày càng tăng. Nhiều doanh nghiệp nhân đã
xuất khẩu được những sản phẩm từ hàng thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế
biến (như khô đi Nhật Bản, kho tộ đi Mỹ…), đến cả rơm sạch
những mặt hàng mà các doanh nghiệp nhà nước chưa quan tâm đến.
Các doanh nghiệp, công ty đăng ký sản xuất kinh doanh theo pháp luật
được tự do sản xuất kinh doanh tự do chọn mặt hàng sản xuất hay kinh
doanh. Thị trường Việt Nam với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế
bản nhân đã tạo ra môi trường hợp tác trên sở 2 bên cùng lợi
cạnh tranh ới sự quản của nhà nước tạo điều kiện phat triển nhanh
chóng kinh tế Việt Nam, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
b) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự phát triển của khu vực kinh tế bản nhân góp phần thu hút
được nhiều lao động nông thôn vào các ngành phi nông nghiệp, nhất
công nghiệp đã giúp chuyển đổi cấu kinh tế từng địa phương, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đât nước.
Khu vực kinh tế tư bản tư nhân tăng về số lượng và khẳng định vị trí
của mình trong nền kinh tế. Trung bình mỗi năm gần 123.000 doanh
nghiệp gia nhập thị trường với số vốn đăng ký đạt khoảng 1,2 triệu tỷ đồng.
Số doanh nghiệp đã tăng 49,3% về sốợng và 156% về số vốn so với giai
đoạn 2016 -2018 trước đó.
Trước đây kinh tế bản nhân không được thừa nhận, bị coi là đối
tượng của cách mạng XHCN, phải đựơc cải tạo xoá bỏ. Với tưởng như
thế trong giai đoạn đó kinh tế bản nhân vẫn chưa được phát triển
hầu như còn bị vùi dập, kinh tế đất nước với sự hiện diện toàn bộ bởi kinh tế
tập thể với chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Từ đường lối
đổi mới (Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986) khẳng định xây dựng phát
triển nền kinh tế nước ta với cấu nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế tồn tại lâu dài thì kinh tế bản nhân đựơc phát triển rất
mạnh mẽ, tạo cho cấu kinh tế xu hướng chuyển dịch cân bằng giữa
kinh tế tư bản tư nhân với kinh tế tập thể.
cấu kinh tế xu hướng chuyển dịch cân bằng không chỉ thể hiện
về số lượng giữa kinh tế bản nhân kinh tế tập thể, còn thể hiện
rất trong sự phát triển của các vùng lãnh thổ, giữa các ngành. Các
doanh nghiệp đăng hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh thương
mại chiếm 42% tổng số doanh nghiệp, công nghiệp xây dựng 31%, dịch
vụ khác 22%, nông nghiệp chỉ chiếm 5%. Trình độ sản xuất của khu vực
kinh tê tư nhân ngày càng tiến bộ, với máy móc trang thiết bị ngày càng hiện
đại thế sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều, mẫu phong phú chất
lượng dần được cải thiện.
4.3. Mang đến hiệu quả về đầu tư tài chính
Vấn đề hiệu quả đầu tài chính của các kinh tế tư nhân phải kể tới
chính sự thất bại hay làm việc không hiệu quả của khu vực kinh tế nhà
nước. rất nhiều các công trình chậm tiến độ, dẫn đến đội vốn cao như dự
án tuyến đường sắt trên cao Cát Linh Đông đã chậm tiến độ rất nhiều
năm so với dự kiến, dẫn đến đội vốn đến 10 nghìn tỉ, cho tới gần đây mới
hoàn thiện xong chuẩn bị đưa vào hoạt động thử. Tuy nhiên, xét về các
công trình của khu vực kinh tế nhân như tuyến đường trên cao đoạn
đường Trường Chinh dự án của doanh nghiệp nhân tập đoàn
Vingroup, đã và đang hoàn thiện với tiến độ rất nhanh và được đánh giá hiệu
quả hơn rất nhiều so với kinh tế nhà nước.
5. Thực trạng kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay
Những năm qua, khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) phát triển mạnh mẽ,
đóng góp ngày càng lớn hơn vào sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế -
hội của đất nước với gần 45% GDP, 1/3 thu ngân sách nhà nước, trên
40% vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội.
Theo Báo cáo Phát triển bền vững khu vực doanh nghiệp nhân do
Bộ Kế hoạch Đầu trình Thủ tướng Chính phủ năm 2018, tốc độ tăng
năng suất lao động của khu vực KTTN, trong đó chủ yếu doanh nghiệp
nhân (DNTN), tương đối ổn định hơn so với các khu vực kinh tế nhà
nước khu vực vốn đầu trực tiếp nước ngoài (FDI), dao động xung
quanh mức 4,8% - 5,8% trong các năm 2015 - 2016. Cũng trong thời gian
này, trung bình mỗi năm, khu vực DNTN tạo ra hơn 500.000 việc làm,
chiếm khoảng 62% tổng số việc làm trong toàn bộ khối doanh nghiệp
(DN). Thu nhập bình quân/lao động trong khu vực này cũng tăng dần theo
các năm, từ 46 triệu đồng/năm/lao động (năm 2011) lên khoảng 76 triệu
đồng/năm/lao động (năm 2016). Số liệu của Tổng cục Thống cho thấy,
năm 2018, KTTN đóng góp 42,1% GDP. Tỷ trọng vốn đầu của khu vực
KTTN trong tổng vốn đầu toàn hội tăng nhanh, như năm 2017
2018 đạt lần lượt là 40,6% và 43,27%.
Tinh thần khởi nghiệp lan tỏa rộng rãi trong hội sự phát triển
mạnh mẽ của KTTN trong một số lĩnh vực, như xây dựng, chế biến, chế
tạo, công nghiệp ô-tô, vận tải hàng không, tài chính, ngân hàng, ... góp
phần không nhỏ trong phát triển thương hiệu quốc gia Việt Nam trong
những ngành, lĩnh vực nhiều tiềm năng, thế mạnh. Xuớng phát triển
các mô hình kinh doanh khởi nghiệp sáng tạo diễn ra sôi động; hiện có hơn
3.000 công ty khởi nghiệp sáng tạo đang hoạt động, trong đó nhiều DN
đã thành công.
| 1/27

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --------***--------
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN; VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA
THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂN
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Lê Mai Linh
Mã sinh viên: 2012450021
Lớp Anh 02, CLC Kinh tế quốc tế, khóa 59
Lớp tín chỉ: TRIE115CLC.4
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đinh Thị Quỳnh Hà
Hà Nội, 04/2021 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................5
NỘI DUNG...................................................................................................6
PHẦN I: KHÁI QUÁT NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở
VIỆT NAM...............................................................................................6
1. Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam........................................6
2. Cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta................................8
2.1. Kinh tế nhà nước (KTNN).........................................................8
2.2. Kinh tế tập thể............................................................................9
2.3. Kinh tế tư nhân.........................................................................10
2.4. Kinh tế tư bản nhà nước...........................................................10
2.5. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài............................................12
PHẦN II: VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ
NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA............................................................12
1. Kinh tế tư nhân là gì?......................................................................12
2. Các thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta......................................................................13
2.1. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ..........................................13
2.2. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân...........................................14
3. Vị trí của thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta..............................................................15
4. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta.................................................................................17
4.1. Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế............................................17
4.2. Thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế...........................................................................18
4.3. Mang đến hiệu quả về đầu tư tài chính....................................20
5. Thực trạng kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay...................................................................20
6. Phương hướng giải pháp phát triển nền kinh tế tư nhân ở nước ta. 23
KẾT LUẬN.................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................26 LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử từ những năm đấu
tranh với những thế lực lớn mạnh để giành độc lập chủ quyền dân tộc đến
những tháng ngày nghèo nàn, lạc hậu. Nền kinh tế trong thời kỳ đó còn yếu
kém và tồn tại dưới hình thức quan liêu, bao cấp. Vì vậy, công cuộc chuyển
đổi nền kinh tế này sang kinh tế thị trường định hướng XHCN là một bước
đi sáng suốt của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình đó, vấn đề phát triển
cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần được đặt ra như một yêu cầu tất yếu.
Kinh tế tư nhân là một bộ phận trong cơ cấu ấy đã có một thời kỳ bị
xem là đối lập với kinh tế định hướng XHCN, vì vậy còn bị bài trừ và xóa
bỏ. Tuy nhiên trải qua thực tiễn cùng việc quan sát từ các quốc gia trên thế
giới, kinh tế tư nhân đã xuất hiện trở lại ở nước ta và đóng góp một phần
không nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo hướng tích cực.
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách khuyến
khích nền kinh tế tư nhân. Trong bối cảnh các nguồn lực kinh tế của Việt
Nam còn đang hạn chế, xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế
tư nhân như một động lực phát triển cơ bản là một hướng đi hoàn toàn
đúng đắn. Song kinh tế tư nhân vẫn còn gặp nhiều khó khăn và thiếu sót
trong quá trình phát triển. Nhận thức được tính cấp thiết cùng với mong
muốn tìm hiểu thêm những vấn đề kinh tế còn tồn đọng ở nước ta, em chọn
đề tài: “ Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam; vị trí, vai trò của
thành phần kinh tế tư nhân” để làm bài tiểu luận kinh tế chính trị Mác –
Lênin. Tuy nhiên, do thời gian có hạn nên bài tiểu luận của em còn nhiều
thiếu sót, em hi vọng nhận được sự góp ý và giúp đỡ của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG
PHẦN I: KHÁI QUÁT NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM
1. Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam
Tại Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm với nội dung
cơ bản là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Từ đó đến nay, đất nước ta đã có những bước phát triển vượt
bậc, thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội và luôn đạt mức tăng
trưởng cao. Những thành tựu đó khẳng định tính đúng đắn của đường lối
đổi mới nói chung và chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta cũng cần phải
nhận thức rõ những tiêu cực do nền kinh tế nhiều thành phần gây ra, đặc
biệt là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin, sự tồn
tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là một tất yếu lịch sử. Trong Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản,
Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, sau khi giai cấp công nhân giành được chính
quyền thì không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được mà phải cải
tạo nó dần dần. Đến Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ rõ, sau khi giành được thắng lợi chính trị, giai cấp vô sản
sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư
bản trong tay giai cấp tư sản. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX càng khẳng định tính đúng đắn
của việc sử dụng và cải tạo dần dần đối với những thành phần kinh tế của
xã hội cũ mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra.
Cơ sở của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, xét đến cùng, là do quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là ở các nước tiểu nông, do trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất còn nhiều hạn chế và không đồng đều nên
tất yếu còn tồn tại nhiều loại hình sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; hơn
nữa, một số thành phần kinh tế của phương thức sản xuất cũ còn có tác
dụng tích cực nhất định đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Điều
đó cho thấy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giải thích rất
rõ tại sao phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay là sản phẩm của quá
trình Đảng và nhân dân ta nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin, thể hiện tư duy mới của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội VI, khi đề ra đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta chủ
trương đa dạng hoá các loại hình sở hữu, phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước tiến quan trọng về tư
duy lý luận và nhận thức thực tiễn. Đảng không chỉ thừa nhận sự tồn tại
như một tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ,
mà còn nhận thấy sự cần thiết phải có chính sách đúng đắn nhằm sử dụng
và phát triển các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân nhằm thực
hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Cùng với sự vận động của thực
tiễn và sự phát triển của nhận thức, lý luận về phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được Đảng Cộng sản
Việt Nam bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX và X. Tại
Đại hội X (năm 2006), Đảng ta xác định cơ cấu nền kinh tế nước ta gồm
năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Văn kiện Đại
hội X cũng khẳng định các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thành
phần kinh tế bình đẳng với nhau. Điều này có tác dụng tích cực tạo sự yên
tâm phát triển sản xuất kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp trong các
thành phần kinh tế phi nhà nước.
2. Cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
2.1. Kinh tế nhà nước (KTNN)
Ở Việt Nam, KTNN ngày càng khẳng định vai trò, vị thế của mình
trong các thành phần kinh tế. Do bản chất và mục đích hoạt động, nên
thành phần KTNN có vai trò chính trị - xã hội to lớn. Các doanh nghiệp
trong thành phần KTNN luôn tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; đóng vai trò quan trọng trong một số ngành, lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế, như viễn thông, than, điện, xăng dầu, khai
khoáng, tài chính, ngân hàng và các dịch vụ công thiết yếu bảo đảm nhu
cầu tiêu dùng, sản xuất trong nước và xuất khẩu.
Các DNNN vừa là chủ thể kinh doanh, vừa là lực lượng kinh tế nòng
cốt do Nhà nước sử dụng trong tác động tham gia các hoạt động kinh tế. Là
chủ thể kinh doanh, các DNNN phải thực hiện hạch toán kinh tế, tự chủ về
tài chính, hoạt động có hiệu quả để bảo đảm quá trình tái sản xuất mở rộng,
bảo đảm gia tăng nguồn lực kinh tế mà Nhà nước đã đầu tư cho các DN
này. Là lực lượng tham gia các hoạt động kinh tế như một công cụ của Nhà
nước, các DNNN cần góp phần tạo ra sự ổn định kinh tế - xã hội, giúp Nhà
nước đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.
Tuy nhiên, khi Nhà nước nắm trong tay một khối lượng sở hữu khổng
lồ thì chính những bất lợi (khuyết tật) của sở hữu nhà nước bắt nguồn từ
đặc điểm của hình thức sở hữu này ngày càng bộc lộ và tạo nên xu hướng
làm giảm tính hiệu quả của thành phần kinh tế này, kéo theo sự sụt giảm
hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
Chúng ta đang cơ cấu lại khu vực DNNN, theo đó tập trung vào
những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và an ninh -
quốc phòng, những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác không đầu tư. DNNN tiến tới phải thật sự hoạt động theo cơ chế thị
trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu; tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác theo quy định pháp luật.
2.2. Kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể tồn tại và phát triển dựa trên hình thức sở hữu tập thể
và sở hữu của các thành viên. Sự phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đòi hỏi phát triển mạnh mẽ và vững chắc thành phần kinh
tế này, bởi như V.I.Lênin đã nhấn mạnh, đó là mô hình dễ tiếp thu nhất của
những người nông dân để tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Rút bài
học kinh nghiệm sâu sắc từ phong trào tập thể hoá trước đổi mới và thực tế
những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc
phát triển thành phần kinh tế này, chủ trương xây dựng các hợp tác xã kiểu
mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và nhu cầu của các chủ thể sản xuất.
Những năm qua, mặc dù được xác định là cùng với kinh tế nhà nước
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, song sự
phát triển của kinh tế tập thể còn nhiều hạn chế: hoạt động chưa có hiệu
quả, cơ sở vật chất – kỹ thuật còn lạc hậu, tỷ trọng GDP liên tục giảm. Do
vậy, cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc
dân, chúng ta cần có những biện pháp tích cực để kinh tế tập thể phát triển từng bước, vững chắc.
2.3. Kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế thuộc cơ cấu kinh tế của một
quốc gia, được hình thành và phát triển dựa trên sự sở hữu của tư nhân về
tư liệu sản xuất cũng như lợi ích cá nhân.
Đối tượng sở hữu kinh tế tư nhân đó là các cá thể hoặc một nhóm
người thuộc về tư nhân đứng lên. Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể,
tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Về lĩnh vực sản xuất kinh doanh kinh tế tư nhân bao gồm các hộ gia
đình, các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các quá trình, hoạt động sản
xuất kinh doanh ở các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, vận tải, nông
lâm thủy sản, thương mại, dịch vụ,...
Về mô hình tổ chức: kinh tế tư nhân bao gồm các hộ kinh doanh cá
thể và các doanh nghiệp tư nhân được tổ chức dưới các loại hình tư nhân,
trách nhiệm hữu hạn, cổ phần, hợp danh,...
2.4. Kinh tế tư bản nhà nước
Kinh tế tư bản nhà nước, đó là "hình thức tổ chức liên kết kinh tế tư
bản tư nhân, kinh tế tư nhân với nhà nước xã hội chủ nghĩa; hình thức kinh
tế hiện đại để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thành kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; hình thức kinh tế kết hợp nội lực với ngoại lực".
Ở nước ta, các nhân tố định hướng xã hội chủ nghĩa bằng kinh tế bao
gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã và kinh tế tư bản nhà nước.
Trong đó, định hướng trực tiếp cho sự phát triển kinh tế tư nhân và tư bản
tư nhân là kinh tế tư bản nhà nước. Với ý nghĩa đó, VI. Lê-nin đã coi kinh
tế tư bản nhà nước là khâu trung gian, là một bước tiến, là một thắng lợi
lớn trên con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội. Thành phần kinh tế tư bản nhà
nước là nhân tố quan trọng để liên kết ngay từ đầu giữa công nghiệp với
nông nghiệp – cơ sở xuất phát và lâu dài của phát triển kinh tế thị trường;
là một trong những bộ phận phát triển cao nhất. Ở đó có trình độ phát triển
lực lượng sản xuất cao nhất, có cách tổ chức kinh tế hiệu quả nhất, nên sẽ
đóng góp nhiều hơn cho tăng trưởng và tiến bộ xã hội. Do đó, nó là một
trong những động lực chính của tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước có nhu cầu liên kết với nền nông
nghiệp nhỏ, thúc đẩy sản xuất hàng hoá (cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp). Phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước, với sức mạnh kinh
tế và tổ chức của nó là nhân tố quan trọng để kết hợp công nghiệp với nông
nghiệp trên phạm vi vùng, hình thành cơ cấu vùng kinh tế. Nhờ đó, có cơ
sở để khắc phục dần chủ nghĩa địa phương cục bộ trong quản lý địa
phương, quản lý ngành. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước mang tính tập
trung sản xuất và quản lý hiện đại của một hệ thống mở. Nhờ sự phát triển
của nó mà có thể khắc phục dần tình trạng manh mún, phân tán, chia cắt
trong sản xuất và trong quản lý ở nước ta. Phát triển thành phần kinh tế tư
bản nhà nước sẽ tạo cơ sở cho hình thành một hệ thống kiểm kê, kiểm soát
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nó là nhân tố chủ yếu để khắc phục xu
hướng tự phát vô chính phủ trong kinh tế, nhất là trong nông nghiệp,
thương mại, dịch vụ. Nó cũng tạo cơ sở cho việc đẩy lùi và ngăn chặn
những tiêu cực như hối lộ, tham nhũng, lãng phí… trong các cơ sở kinh tế,
nhất là trong kinh tế nhà nước.
Trong khu vực đầu tư nước ngoài, kinh tế tư bản nhà nước không chỉ
đem lại nguồn vốn, chuyển giao công nghệ, mà còn đem vào cách quản lý
kinh tế thị trường hiện đại, đang là điểm yếu nhất trong công tác quản lý
của nhà nước ta. Ở nước ta, nếu biết học hỏi và vận dụng sáng tạo cách
quản lý hiện đại, Nhà nước sẽ đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý, tạo ra
những điều kiện để quản lý quá trình mở cửa và hội nhập.
2.5. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thuật ngữ chỉ các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mới được sử dụng phổ biến trong
vài thập niên gần đây, khu làn sóng đầu tư từ quốc gia này sang quốc gia
khác tăng lên nhanh chóng. Ở Việt Nam, thành phần kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài mới được xác định từ văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX là thành phần kinh tế bao gồm:
- Các doanh nghiệp, công ty 100% vốn nước ngoài.
- Các doanh nghiệp, công ty liên doanh.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thành phần kinh tế này không đồng nhất với các thành phần kinh tế
trong nước cả về mục tiêu và cơ chế vận hành. Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài có đóng góp rất to lớn đối với quốc gia, đặc biệt là một nước đang có
tiềm năng phát triển như nước ta. Doanh nghiệp của khu vực đầu tư nước
ngoài góp phần làm tăng thêm của cải và nâng cao sức cạnh tranh của các
mặt hàng trong nước, đẩy mạnh chuyển đổi công nghệ để nâng cao năng
suất, chất lượng sản phẩm của các cơ cấu ngành nghề trong nước, giải
quyết một số lượng lớn việc làm của người lao động trong nước.
PHẦN II: VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ
NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA
1. Kinh tế tư nhân là gì?
Kinh tế tư nhân, hiểu cách khái quát chung, là khu vực kinh tế nằm
ngoài quốc doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm các doanh
nghiệp trong và ngoài nước, trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư.
Kinh tế tư nhân là tất cả các cơ sở sản xuất kinh doanh không dựa trên sở
hữu nhà nước về các yếu tố của quá trình sản xuất. Hiểu ở cấp độ hẹp, kinh
tế tư nhân là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở hữu tư nhân, bao
gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất. Kinh tế tư nhân tồn tại dưới các hình thức như:
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các hộ kinh doanh cá thể.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được vị trí, vai
trò của kinh tế tư nhân trong chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. Nhờ vậy, kinh tế tư nhân không ngừng lớn mạnh, trở thành một trong
những nhân tố chính tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh. Trải qua hơn 30
năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã không chỉ dần được phục hồi mà còn có
những bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt là sau Đại hội
X (năm 2006), khi kinh tế tư nhân được xác định chính thức là thành phần
kinh tế được khuyến khích phát triển, không hạn chế về quy mô. Kinh tế tư
nhân đã có những đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Việt Nam hiện có khoảng 600 nghìn doanh nghiệp, trong đó có gần 500
nghìn doanh nghiệp tư nhân. Trong số này có tới hơn 96% là doanh nghiệp
nhỏ và vừa, 2% doanh nghiệp quy mô vừa và 2% doanh nghiệp lớn. Doanh
nghiệp tư nhân tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm, đóng góp hơn 40% tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) mỗi năm
2. Các thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta
2.1. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ
Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản
xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động.
Kinh tế tiểu chủ cũng chính là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ
về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn
chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành
nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh tiềm năng về
vốn sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do đó,
việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể và tiểu chủ cần được khuyến khích.
Hiện nay, ở nước ta, thành phần kinh tế này phần lớn hoạt động dưới
hình thức hộ gia đình, đang là một bộ phận đông đảo, có tiềm năng to lớn,
có vị trí quan trọng, lâu dài. Đối với nước ta, cần phát triển mạnh mẽ thành
phần kinh tế này để vừa góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội,
vừa giải quyết nhiều việc làm cho người lao động - một vấn đề bức bách
hiện nay của đời sống kinh tế xã hội. Trong những năm gần đây, thành
phần kinh tế này phát triển nhanh chóng trong nông lâm ngư nghiệp và
thương mại, dịch vụ. Nó đã góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế
xã hội. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, kinh tế cá thể tiểu chủ dù cố gắng
đến bao nhiêu cũng không loại bỏ được những hạn chế vốn có như: tính tự
phát, hạn chế về kỹ thuật... Do đó Đảng ta chỉ rõ: cần giúp đỡ kinh tế cá
thể, tiểu chủ, giải quyết các vấn đề khó khăn về vốn, về khoa học kỹ thuật
và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX viết: “Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển,
khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các
doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn”.
2.2. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh
dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và
bóc lột sức lao động làm thuê.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, thành
phần này có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản
xuất, xã hội hoá sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã
hội. Đây cũng là thành phần kinh tế rất năng động nhạy bén với kinh tế thị
trường, do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng
kinh tế của đất nước. Hiện nay, kinh tế tư bản tư nhân bước đầu có sự phát
triển, nhưng phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và kinh
doanh bất động sản; đầu tư vào sản xuất con ít và chủ yếu quy mô vừa và nhỏ.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX có đoạn viết:” Khuyến
khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong các ngành nghề sản
xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trưòng kinh doanh
thuận lợi về chính sách pháp lý để kinh tế ư bản tư nhân phát triển trên
những định hướng ưu tên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài;
khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phiếu cho người
lao động, liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà
nước, xây dựng quan hệ tốt với chủ doanh nghiệp và người lao động”.
3. Vị trí của thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta
Quan niệm kinh tế tư nhân (KTTN) là “một động lực quan trọng của
nền kinh tế” tại Đại hội XII cho thấy bước đột phá về nhận thức của Đảng
ta so với giai đoạn trước, khi chúng ta chỉ coi KTTN là một trong những
động lực của nền kinh tế. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
khóa XII tiếp tục yêu cầu phải phát triển mạnh khu vực KTTN cả về số
lượng và chất lượng, để thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền
kinh tế. Trong những năm qua, khu vực KTTN đã làm nên sự phát triển
năng động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong tạo việc làm, nâng
cao thu nhập của người dân, mạnh dạn đột phá và đi đầu trong nhiều lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh mới. Do đó, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khu
vực KTTN phát triển cũng chính là tạo điều kiện để giải phóng các nguồn
lực phát triển trong xã hội, để nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN) phát huy tối đa các tiềm năng to lớn của nó.
Chủ trương phát triển KTTN gắn liền với chủ trương phát triển KTTT
định hướng XHCN ở nước ta. Đảng ta đã nhận định hết sức đúng đắn rằng:
KTTT là sản phẩm của văn minh nhân loại, có thể tồn tại và thích ứng với
nhiều hình thái xã hội khác nhau; KTTT phát triển với trình độ cao dưới
chủ nghĩa tư bản (CNTB), song không đồng nhất với CNTB và cũng không
đối lập với chủ nghĩa xã hội (CNXH). Một quốc gia dựa trên nền tảng thị
trường để phát triển kinh tế có thể chưa chắc nhanh chóng thành công, song
một quốc gia không có nền KTTT đầy đủ, hiện đại chắc chắn sẽ không thể
phát triển trong dài hạn. Tự thân KTTT không mang lại CNXH, nhưng
muốn xây dựng CNXH thành công dứt khoát phải phát triển KTTT.
Kinh tế tư nhân là chủ thể quan trọng nhất trong nền KTTT hiện đại.
Mặc dù quy mô của khu vực tư nhân có thể khác nhau trong các mô hình
KTTT đa dạng, song có một điều chắc chắn rằng, nếu không có khu vực
KTTN thì sẽ không có nền KTTT theo đúng nghĩa của nó. Dù không hoàn
hảo, song KTTT vẫn chứng tỏ là một cơ chế huy động, phân bổ nguồn lực,
thúc đẩy sáng tạo và phát triển được coi là tốt nhất hiện nay. Chính hoạt
động của khu vực KTTN giúp vận hành cơ chế đó. Một khu vực KTTN
phát triển chưa chắc mang lại một nền KTTT hoàn hảo. Tự thân khu vực
KTTN không giúp khắc phục những khiếm khuyết và “thất bại” của thị
trường. Tuy nhiên, nếu không phát triển KTTN sẽ không thể phát huy hết
thế mạnh của KTTT, không thể khai thác hết nguồn lực phát triển to lớn của xã hội.
Từ tinh thần của Đại hội XII cũng cần nhấn mạnh và làm rõ, việc xác
định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và KTTN là một động lực quan
trọng trong nền kinh tế không hàm ý phân biệt đối xử, mà với ý nghĩa là
tùy thuộc vào chức năng của mỗi thành phần kinh tế để xác định vai trò của
chúng. Nhà nước với các nguồn lực, công cụ, chính sách sẽ đóng vai trò
chủ đạo trong việc định hướng và điều tiết nền kinh tế, bảo đảm các cân đối
lớn cho nền kinh tế, kiểm soát các nguồn tài nguyên chiến lược, phát triển
kết cấu hạ tầng và dịch vụ công có vốn đầu tư lớn, luân chuyển chậm, lợi
nhuận không cao, rất cần thiết cho nền kinh tế - xã hội mà khu vực tư nhân
không sẵn sàng đảm nhận; các lĩnh vực quốc phòng - an ninh, một số hoạt
động đầu tư mạo hiểm...
4. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
4.1. Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
Theo Sách Trắng Việt Nam 2019, khu vực kinh tế tư nhân trong nước
đang tạo ra khoảng 42% GDP, 30% thu ngân sách Nhà nước. Khối tư nhân
cũng đang thu hút khoảng 85% lực lượng lao động cả nước. Nghĩa là cứ
100 lao động, thì 85 người làm việc trong khối tư nhân.
Kinh tế tư bản tư nhân cung cấp cho xã hội sản phẩm vật chất và dịch
vụ để thoả mãn nhu cầu về đời sống, nhu cầu cho quá trình tái sản xuất của
xã hội. Với ưu thế nổi trội của khu vực kinh tế tư bản tư nhân: suất đầu tư
thấp, dễ chuyển đổi phương hướng sản xuất cho phù hợp với nhu cầu của
thị trường, quy mô nhỏ phù hợp với năng lực quản lý của các hộ gia đình,
nên đã thu hút được đông đảo các tầng lớp dân cư. Tốc độ tăng trưởng của
khu vực kinh tế tư bản tư nhân khá ổn định.
Theo tính toán của các nhà thống kê, để tăng trưởng 1% GDP của Việt
Nam cần tăng trưởng tiêu dùng 2,1 đến 2,2% (kể cả tiêu dùng cho sản xuất
và tiêu dùng cho đời sống). Khu vực kinh tế tư bản tư nhân phát triển sẽ
làm tổng cầu tăng nhanh, thực hiện được chủ trương kích cầu của Nhà
nước do mở rộng sản xuất làm cho nhu cầu các yếu tố đầu vào gia tăng,
đồng thời thu nhập của người lao động tăng do sản xuất phát triển và số lao
động được huy động vào làm tăng thêm. Đây chủ yếu là tầng lớp có thu
nhập thấp nên tỷ lệ tiêu dùng cận biên (MPC) lớn, tỷ lệ tiết kiệm cận biên
(MPS) nhỏ hơn so với tầng lớp có thu nhập cao.
Trong những năm gần đây khu vực kinh tế tư bản tư nhân tăng rất
nhanh về mặt số lượng, nhiều doanh nghiệp được hình thành vì thế việc sản
xuất hàng hoá với nhiều mặt hàng trở nên rất đa dạng và phong phú. Việc
tiêu dùng của người dân cũng như của các doanh nghiệp tăng nhanh rõ rệt,
doanh nghiệp thì cần sử dụng nhiều nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất,
người tiêu dùng do nhu cầu đời sống ngày càng cao, kèm theo mặt hàng trở
nên phong phú đa dạng cho nên mức tiêu dùng của toàn xã hội tăng rất
nhanh vì thế xét trên giác độ tổng cầu thì khu vực kinh tế tư nhân đã đóng
vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
4.2. Thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế
a) Quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế
Sự phát triển của kinh tế tư bản tư nhân đã đặt ra những yêu cầu
mới thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đã xuất hiện nhiều doanh nhân kinh doanh thành đạt, đưa doanh
nghiệp của mình phát triển, cải thiện được đời sống người lao động, đóng
góp ngày càng nhiều cho xã hội, được xã hội tôn vinh.
Trình độ sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư bản tư nhân
ngày càng tiến bộ hơn, số lượng hàng hoá tham gia xuất khẩu ngày càng
tăng. Nhiều sản phẩm của khu vực kinh tế tư bản tư nhân được xuất khẩu
uỷ thác qua doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Khu vực kinh tế tư bản tư nhân còn tham gia nhiều công đoạn trong
quá trình sản xuất hàng xuất khẩu. Xuất khẩu trực tiếp của khu vực kinh tế
tư bản tư nhân đến nay đã ngày càng tăng. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã
xuất khẩu được những sản phẩm từ hàng thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế
biến (như cá khô đi Nhật Bản, cá kho tộ đi Mỹ…), đến cả rơm sạch là
những mặt hàng mà các doanh nghiệp nhà nước chưa quan tâm đến.
Các doanh nghiệp, công ty đăng ký sản xuất kinh doanh theo pháp luật
và được tự do sản xuất kinh doanh tự do chọn mặt hàng sản xuất hay kinh
doanh. Thị trường Việt Nam với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế tư
bản tư nhân đã tạo ra môi trường hợp tác trên cơ sở 2 bên cùng có lợi và
cạnh tranh dưới sự quản lý của nhà nước tạo điều kiện phat triển nhanh
chóng kinh tế Việt Nam, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
b) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư bản tư nhân góp phần thu hút
được nhiều lao động ở nông thôn vào các ngành phi nông nghiệp, nhất là
công nghiệp đã giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế từng địa phương, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đât nước.
Khu vực kinh tế tư bản tư nhân tăng về số lượng và khẳng định vị trí
của mình trong nền kinh tế. Trung bình mỗi năm có gần 123.000 doanh
nghiệp gia nhập thị trường với số vốn đăng ký đạt khoảng 1,2 triệu tỷ đồng.
Số doanh nghiệp đã tăng 49,3% về số lượng và 156% về số vốn so với giai
đoạn 2016 -2018 trước đó.
Trước đây kinh tế tư bản tư nhân không được thừa nhận, bị coi là đối
tượng của cách mạng XHCN, phải đựơc cải tạo xoá bỏ. Với tư tưởng như
thế trong giai đoạn đó kinh tế tư bản tư nhân vẫn chưa được phát triển mà
hầu như còn bị vùi dập, kinh tế đất nước với sự hiện diện toàn bộ bởi kinh tế
tập thể với cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Từ đường lối
đổi mới (Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986) khẳng định xây dựng phát
triển nền kinh tế nước ta với cơ cấu nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế tồn tại lâu dài thì kinh tế tư bản tư nhân đựơc phát triển rất
mạnh mẽ, tạo cho cơ cấu kinh tế có xu hướng chuyển dịch cân bằng giữa
kinh tế tư bản tư nhân với kinh tế tập thể.
Cơ cấu kinh tế có xu hướng chuyển dịch cân bằng không chỉ thể hiện
về số lượng giữa kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tập thể, mà còn thể hiện
rất rõ trong sự phát triển của các vùng lãnh thổ, và giữa các ngành. Các
doanh nghiệp đăng ký hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh thương
mại chiếm 42% tổng số doanh nghiệp, công nghiệp và xây dựng 31%, dịch
vụ khác 22%, nông nghiệp chỉ chiếm 5%. Trình độ sản xuất của khu vực
kinh tê tư nhân ngày càng tiến bộ, với máy móc trang thiết bị ngày càng hiện
đại vì thế sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều, mẫu mã phong phú và chất
lượng dần được cải thiện.
4.3. Mang đến hiệu quả về đầu tư tài chính
Vấn đề hiệu quả đầu tư tài chính của các kinh tế tư nhân phải kể tới
chính là sự thất bại hay làm việc không hiệu quả của khu vực kinh tế nhà
nước. Có rất nhiều các công trình chậm tiến độ, dẫn đến đội vốn cao như dự
án tuyến đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông đã chậm tiến độ rất nhiều
năm so với dự kiến, dẫn đến đội vốn đến 10 nghìn tỉ, và cho tới gần đây mới
hoàn thiện xong và chuẩn bị đưa vào hoạt động thử. Tuy nhiên, xét về các
công trình của khu vực kinh tế tư nhân như tuyến đường trên cao ở đoạn
đường Trường Chinh – dự án của doanh nghiệp tư nhân là tập đoàn
Vingroup, đã và đang hoàn thiện với tiến độ rất nhanh và được đánh giá hiệu
quả hơn rất nhiều so với kinh tế nhà nước.
5. Thực trạng kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay
Những năm qua, khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) phát triển mạnh mẽ,
đóng góp ngày càng lớn hơn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước với gần 45% GDP, 1/3 thu ngân sách nhà nước, trên
40% vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội.
Theo Báo cáo Phát triển bền vững khu vực doanh nghiệp tư nhân do
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ năm 2018, tốc độ tăng
năng suất lao động của khu vực KTTN, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp
tư nhân (DNTN), tương đối ổn định hơn so với các khu vực kinh tế nhà
nước và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), dao động xung
quanh mức 4,8% - 5,8% trong các năm 2015 - 2016. Cũng trong thời gian
này, trung bình mỗi năm, khu vực DNTN tạo ra hơn 500.000 việc làm,
chiếm khoảng 62% tổng số việc làm trong toàn bộ khối doanh nghiệp
(DN). Thu nhập bình quân/lao động trong khu vực này cũng tăng dần theo
các năm, từ 46 triệu đồng/năm/lao động (năm 2011) lên khoảng 76 triệu
đồng/năm/lao động (năm 2016). Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy,
năm 2018, KTTN đóng góp 42,1% GDP. Tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực
KTTN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng nhanh, như năm 2017 và
2018 đạt lần lượt là 40,6% và 43,27%.
Tinh thần khởi nghiệp lan tỏa rộng rãi trong xã hội và sự phát triển
mạnh mẽ của KTTN trong một số lĩnh vực, như xây dựng, chế biến, chế
tạo, công nghiệp ô-tô, vận tải hàng không, tài chính, ngân hàng, ... góp
phần không nhỏ trong phát triển thương hiệu quốc gia Việt Nam trong
những ngành, lĩnh vực có nhiều tiềm năng, thế mạnh. Xu hướng phát triển
các mô hình kinh doanh khởi nghiệp sáng tạo diễn ra sôi động; hiện có hơn
3.000 công ty khởi nghiệp sáng tạo đang hoạt động, trong đó có nhiều DN đã thành công.