









Preview text:
  lOMoAR cPSD| 48302938 
Phần 1 : CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ HỢP LÝ  I.Cơ cấu đầu tư: 
1. Khái niệm và bản chất : 
Hãy đi từ khái niệm đầu tiên. Cơ cấu là gì? Từ “cơ” nằm chung nghĩa với từ “hữu cơ”, còn 
từ “cấu” nằm chung nghĩa với từ “cấu tạo”. Tựu chung lại, cơ cấu của một “cái gì đó” vừa 
thể hiện thành phần cấu tạo của nó, lại vừa thể hiện mối quan hệ hữu cơ giữa các thành 
phần cấu tạo lên nó. Như vậy, cơ cấu vừa đề cập đến mối quan hệ về số lượng, lại vừa đề 
cập đến mối quan hệ về chất lượng giữa các yếu tố cấu thành lên nó. 
Sau khi làm rõ khái niệm cơ cấu, chúng ta có thể định nghĩa khá dễ dàng khái niệm cơ cấu 
đầu tư. Cơ cấu đầu tư là một phạm trù phản ảnh mối quan hệ về chất lượng & số lượng 
giữa các yếu tố cấu thành bên trong của hoạt động đầu tư cũng như giữa các yếu tố tổng 
thể các mối quan hệ hoạt động kinh tế khác trong quá trình tái sản xuất xã hội. Cơ cấu đầu 
tư cũng được định nghĩa là cơ cấu các yếu tố cấu thành đầu tư như cơ cấu vốn, cơ cấu huy 
động và sử dụng vốn… quan hệ hữu cơ, tương tác qua lại giữa các bộ phận trong không 
gian & thời gian, vận động theo hướng hình thành lên một cơ cấu đầu tư hợp lý & tạo ra 
tiềm lực lớn hơn về mọi mặt kinh tế xã hội.  2. Phân loại : 
Có rất nhiều cách phân loại cơ cấu đầu tư. Cơ bản thì có 4 cách như sau. 
Đầu tiên là cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn. Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn là cơ cấu đầu tư 
thể hiện quan hệ tỷ lệ của từng loại nguồn vốn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Có 5 
thành phần vốn cấu tạo lên cơ cấu này, bao gồm: vốn đầu tư theo NSNN, vốn tín dụng nhà 
nước, vốn đầu tư của DNNN, vốn của dân cư & tư nhân, vốn đầu tư & hỗ trợ của nước 
ngoài. Các nguồn vốn này vận động theo hướng ngày càng đa dạng hơn, phù hợp hơn với 
chính sách kinh tế thị trường nhiều thành phần và chính sách huy động mọi nguồn nhân 
lực cho đầu tư phát triển. Cơ cấu đầu tư hợp lý lúc này là cơ cấu phản ánh khả năng huy 
động tối đa của mọi nguồn lục cho đầu tư, theo hướng giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư từ 
NSNN, tăng tỷ trọng vốn tín dụng ưu đãi, vốn dân cư & tư nhân 
Thứ hai là cơ cấu theo vốn đầu tư. Cơ cấu theo vốn đầu tư thể hiện quan hệ tỷ lệ giữa từng 
loại vốn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, vốn đầu tư của từng doanh nghiệp hoặc của một 
dự án. . Một cơ cấu vốn đầu tư hợp lý là cơ cấu mà vốn đầu tư được ưu tiên cho bộ phận      lOMoAR cPSD| 48302938 
quan trọng nhất, phù hợp với yêu cầu & mục tiêu đầu tư và nó thường chiếm một tỷ trọng  khá cao. 
Thứ ba là cơ cấu đầu tư phân theo ngành. Cơ cấu đầu tư theo ngành là cơ cấu đầu tư thực 
hiện đầu tư cho từng ngành kinh tế quốc dân cũng như từng tiểu ngành. Cách phân loại này 
rất quen thuộc, bao gồm 3 bộ phận: nông – lâm – ngư nghiệp, công nghiệp & xây dựng, 
dịch vụ. Cơ cấu đầu tư hợp lý theo ngành thể hiện việc thực hiện chính sách ưu tiên đầu tư 
phát triển đối với từng ngành trong thời kỳ nhất định 
Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương, vùng lãnh thổ. Cơ cấu đầu tư theo địa phương 
và vùng lãnh thổ là cơ cấu đầu tư theo không gian, phản ánh tình hình sử dụng nguồn lực 
địa phương & việc phát huy lợi thế cạnh tranh từng vùng. Một cơ cấu đầu tư theo địa 
phương hay vùng lãnh thổ đuược xem là hợp lý nếu nó phù hợp với yêu cầu, chiến lược 
phát triển kinh tế xã hội, phát huy lợi thế sẵn có của vùng trong khi vẫn đảm bảo hỗ trợ, 
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chung của các vùng khác, đảm bảo sự thống nhất 
& những cân đối lớn trong phạm vi quốc gia và giữa các vùng. Thông thường, vốn đầu tư 
được tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm, nhằm tạo động lực phát triển cho toàn bộ  nền kinh tế. 
II. Cơ cấu đầu tư hợp lý:   1. Khái niệm : 
Định nghĩa thứ 2 về cơ cấu đầu tư có đề cập đến cơ cấu đầu tư hợp lý. Theo đó, cơ cấu đầu 
tư luôn vận động theo xu hướng tiến dần đến cơ cấu đầu tư hợp lý. Vậy cơ cấu đầu tư hợp 
lý là gì? Hiểu nôm na, phạm trù cơ cấu đầu tư hợp lý gần giống như phạm trù giá trị – trong 
mối quan hệ giá trị & giá cả. Giá cả dù có giao động thế nào thì cũng luôn luôn có xu hướng 
tiến về giá trị thật của nó. Tương tự, cơ cấu đầu tư dù có giao động ra sao thì cũng luôn có 
xu hướng tiến về cơ cấu đầu tư hợp lý. Cơ cấu đầu tư hợp lý là một khái niệm tương đối, 
khó xác định, giống như khái niệm giá trị thật. 
Về mặt định nghĩa, cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu đầu tư phù hợp với các quy luật khách 
quan, các điều kiện kinh tế xã hội, lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn, phù hợp & phục vụ 
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của từng cơ sở ngành, vùng & toàn bộ nền kinh tế. Cơ 
cấu đầu tư hợp lý có tác động tích cực đến việc đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng ngày 
càng hợp lý hơn, khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực trong nước, đáp ứng yêu cầu 
hội nhập, phù hợp với xu thế kinh tế – chính trị của thế giới và khu vực. 
2. Vai trò của cơ cấu đầu tư hợp lý với nền kinh tế: 
Cơ cấu đầu tư hợp lý là nhằm hướng tới một cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu đầu tư và cơ 
cấu kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ, thể hiện ở chỗ: nếu cơ cấu kinh tế hướng vào việc      lOMoAR cPSD| 48302938 
thực hiện mục tiêu của nền kinh tế thì cơ cấu đầu tư chính là phương tiện để đảm bảo cơ 
cấu kinh tế được hình thành hợp lý theo mục đích hướng tới của nó. Cơ cấu kinh tế và cơ 
cấu đầu tư là điều kiện cần và đủ để thực hiện mục tiêu kinh tế trong từng giai đoạn cụ  thể. 
- Sự thay đổi cuả cơ cấu đầu tư và sự tác động của nó đến cơ cấu kinh tế diễn ra một cách 
thường xuyên, lặp đi lặp lại. Thông qua việc nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc cơ 
chế tác động của các quy luât kinh tế, mà nhà nước có thể định hướng, điều tiết quá trình 
thay đổi cơ cấu đầu tư hướng vào mục tiêu kinh tế xã hội đã trù định. 
Khai thác và sử dụng hợp lí các nguồn lực trong nước, đáp ứng nhu cầu hội nhập, phù hợp 
với xu thế kinh tế - chính trị của thế giới và khu vực. Một khi xác định được cơ cấu đầu tư 
hợp lí thì quốc gia đó sẽ có định hướng đúng đắn cho sự tăng trưởng kinh tế đảm bảo 
nhanh và bền vững, Xét về lâu dài, nếu không có sự điều chỉnh cơ cấu đầu tư một cách 
hợp lý thì chúng ta sẽ không nâng cao được sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong 
nước do đó khó có thể xuất khẩu, không đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế của nền 
kinh tế, cho nên nền kinh tế đã lạc hậu lại càng tụt hậu. 
3. Các tiêu chí để đánh giá cơ cấu đầu tư hợp lý: 
- Một cơ cấu đầu tư hợp lý trước hết phải được xây dựng trên cơ sở các quy luật khách 
quan của nền kinh tế - xã hội, các quy luật tự nhiên. Mỗi vùng, mỗi quốc gia đều có điều 
kiện kinh tế - xã hội riêng, do đó cơ cấu đầu tư hợp lý trước hết phải xây dựng dựa trên 
lợi thế so sánh của mỗi quốc gia, mỗi địa phương, đồng thời phải gắn với quy hoạch từng 
vùng, quy hoạch lãnh thổ, đồng thời 
 Với mỗi cách phân loại cơ cấu đầu tư hợp lý cũng có sự khác nhau: 
 a. Cơ cấu đầu tư hợp lý theo nguồn vốn:  - 
Trên tổng vốn đầu tư xã hội: cơ cấu đầu tư hợp lý phản ánh việc huy động tối đa và 
sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển toàn xã hội.Cần có các biện 
pháp để quản lý và kiểm soát việc sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả, đặc biệt là vốn 
ngân sách nhà nước. Nhà nước nên chỉ tập trung phân bổ vốn vào những khu vực mà thị 
trường không thể hoặc không muốn hoạt động, tránh đầu tư dàn trải, kém hiệu quả.  - 
Xu hướng chuyển dịch của cơ cấu nguồn vốn: chuyển dịch theo hướng tỷ trọng 
nguồn vốn khu vực nhà nước giảm, trong khi tỷ trọng nguồn vốn ngoài nhà nước và đầu 
tư nước ngoài tăng, đồng thời tăng tỷ trọng nguồn vốn tín dụng ưu đãi và nguồn vốn của 
dân cư, Tuy chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn theo xu hướng trên nhưng vẫn cần phải có      lOMoAR cPSD| 48302938 
nguồn vốn đầu tư vào ngành mũi nhọn, nhằm dẫn dắt nền kinh tế theo hướng công nghiệp  hóa, hiện đại hóa;  - 
Trên nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp và dự án: phản ánh tỷ lệ giữa các loại 
nguồn vốn trong doanh nghiệp:vốn chủ sở hữu và vốn đi vay, sao cho đạt hiệu quả đầu tư 
cao và tận dụng được tối đa các nguồn lực của doanh nghiệp.Tỷ lệ này thuộc vào từng lĩnh 
vực hoạt động của doanh nghiệp cũng như chiến lược phát triển, do đó ở mỗi doanh nghiệp 
khác nhau, tỷ lệ này cũng khác nhau. 
b. Cơ cấu vốn đầu tư hợp lý: Vốn đầu tư hợp lý được đánh giá thông qua danh mục và 
hiệu quả của các bộ phận mà doanh nghiệp hoặc dự án đầu tư. Một cơ cấu vốn đầu tư 
hợp lý là cơ cấu mà vốn đầu tư được ưu tiên cho bộ phận quan trọng nhất, phù hợp với 
yêu cầu, mục tiêu đầu tư và nó thường chiếm một tỷ trọng khá. 
Tùy vào từng giai đoạn cụ thể cũng như chiến lược phát triển ngắn hạn và dài hạn của mỗi 
quốc gia, vốn đầu tư được ưu tiên cho nhưng bộ phận quan trọng khác nhau. Đặc biệt là 
ưu tiên các ngành có thế mạnh trong phát triển dài hạn như phát triển con người, giáo dục 
đào tạo, khoa học – công nghệ… 
c. Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành hợp lý: 
- Cơ cấu đầu tư theo ngành hợp lý được đánh giá dựa trên chính sách chiến lước phát triển 
kinh tế từng giai đoạn cụ thể để xem: Cơ cấu ngành được chuyển biến như thế đã theo 
hướng tích cực chưa? Xem đã phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế chưa? Đặc biệt cơ cấu 
đầu tư theo ngành cần phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế để tránh làm méo  mó nền kinh tế. 
-Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, cơ cấu đầu tư ngành hợp lý là cơ cấu chuyển dịch theo 
hướng đẩy mạnh công nghiệp, phát triển các ngành dịch vụ và ưu tiên nông nghiệp nông 
thôn, phát triển hạ tầng cơ sở cũng như các lĩnh vực xã hội nhằm hướng tới mục tiêu công 
nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước. 
 d. Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương, vùng lãnh thổ hợp lý: Một cơ cấu đầu tư theo 
địa phương hay vùng lãnh thổ được xem là hợp lý nếu nó phù hợp với yêu cầu, chiến lược 
phát triển kinh tế - xã hội, phát huy lợi thế sẵn có của vùng trong khi vẫn đảm bảo hỗ trợ, 
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chung của các vùng khác, đảm bảo sự phát triển 
thống nhất và những cân đối trong phạm vi quốc gia và giữa các ngành. Dựa trên định 
hướng phát triển dài hạn của quốc gia, của từng vùng mà phân bổ vốn sao cho có hiệu quả 
nhất.Tránh tình trạng đầu tư chồng chéo, đầu tư không phù hợp với đặc điểm riêng của 
mỗi vùng, mỗi địa phương gây thất thoát lãng phí vốn      lOMoAR cPSD| 48302938 
 - - Cơ cấu đầu tư chịu tác động của nhiều nhân tố chủ quan cũng như khách quan. Các 
nhân tổ chủ quan có thể kể đến như là: thị trường nhu cầu tiêu dùng của xã hội, trình độ 
phát triển của lực lượng sản xuất, dân số & lao động, quan điểm – chiến lược – mục tiêu 
phát triển kinh tế xã hội của đất nước mỗi giai đoạn, môi trường thể chế chính trị & cơ chế 
quản lý của nhà nước. Nhân tố khách quan chủ yếu là sự vận động của các xu thế chính trị 
& kinh tế của khu vực và trên thế giới, qua đó ảnh hưởng đến lực lượng sản xuất, khoa học 
kỹ thuật cũng như thị trường quốc tế. 
1. Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn 
Tỷ trọng vốn đầu tư của Nhà nước có xu hướng giảm dần, tạo dư địa cho đầu tư từ nguồn 
FDI và khu vực tư nhân. Nếu như tỷ trọng vốn đầu tư khu vực nhà nước giai đoạn 2001 - 
2010 chiếm trên 50% thì giai đoạn 2011 - 2020 chỉ còn 37%, trong đó giai đoạn 2016 2020 
chỉ đạt 34%. Trong khi đó, khu vực ngoài nhà nước và khu vực FDI chiếm khoảng 
35% và 18% trong giai đoạn 2001 - 2010, sau đó tăng lên khoảng 21 - 23% ở giai đoạn 
2011 - 2020. Với sự dịch chuyển tích cực trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư thì vai trò của 
vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đối với tăng 
trưởng kinh tế ngày càng tăng lên 
Báo cáo của World Bank cho rằng, các doanh nghiệp tư nhân đã có sự tăng trưởng nhanh 
chóng trong 20 năm qua. Số lượng doanh nghiệp đăng ký đang hoạt động tại Việt Nam 
tăng từ 42.300 năm 2000 (kể từ khi Luật Doanh nghiệp 1999 có hiệu lực), lên đến 
758.610 năm 2019. Đây cũng xem là một trong những lý do giải thích cho sự tăng trưởng 
liên tục của nguồn vốn khu vực ngoài nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.Mặc dù 
chịu ảnh hưởng nặng nề do Đại dịch Covid 19, tuy nhiên tổng lượng vốn đầu tư khu vực 
ngoài nhà nước không có dấu hiệu chững lại mà lại tăng lên về số lượng và chất lượng khi 
đầu tư mạnh vào các ngành như y tế (sản xuất vaccine), công nghệ (chế tạo, lắp ráp ô tô,      lOMoAR cPSD| 48302938 
linh kiện: thương hiệu xe Vinfast), công nghiệp chế biến và đặc biệt là ngành thương mại  điện tử… 
Cùng với đó là dòng vốn FDI có tăng lên về số lượng và đóng góp tích cực cho tăng trưởng 
kinh tế, Vốn FDI chủ yếu được đầu tư cho các ngành công nghiệp chế biến và chế tạo, Xây 
dựng, dịch vụ lưu trú và ăn uống, bất động sản,...tác động tích cực tới cơ cấu kinh tế theo 
ngành, nâng cao tỉ trọng dịch vụ và công nghiệp, giảm tỉ trọng nông nghiệp, sử dụng các 
công nghệ cao trong khai thác, xây dựng, trồng trọt, quản lý… Theo thống kê,những năm 
gần đây lĩnh vực chế biến, chế tạo đang vượt trội về độ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, thu 
hút được nhiều vốn từ khu vực này nhất, thay thế vị trí của kinh doanh bất động sản, lĩnh  vực lưu trú ăn uống. 
Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản không ngừng tăng lên cả về giá trị tương đối. Chỉ trong 
vòng 10 năm từ năm 2001 đến năm 2010 kết cấu hạ tầng phát triển khá; hệ thống đường 
giao thông được cải thiện, bảo đảm giao thông thông suốt trong cả nước; hệ thống đường 
sắt được nâng cấp bảo đảm an toàn chạy tàu; một số cảng biển quan trong được mở rộng 
và hiện đại hoá; sân bay quốc tế và một số sân bay nội địa được mở rộng và nâng cấp đáp 
ứng nhu cầu vận tải hành khác quốc tế. 
Trong những năm qua, Cơ cấu đầu tư theo ngành nói chung đã có chuyển biến tích cực 
theo hướng công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đầu tư đã tập trung vào một số 
ngành có hiệu quả kinh tế cao, có tỷ trọng lớn trong GDP; vào kết cấu hạ tầng, giao thông 
và các dịch vụ công ích khác. cơ cấu đã dịch chuyển phù hợp với định hướng phát triển 
của Việt Nam trở thành một nước công nhiệp hiện đại, giảm dần tỷ trọng đầu tư dành cho 
nông nghiệp, tăng đầu tư cho khu vực công nghiệp và dịch vụ.Tuy ngành nông nghiệp 
chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu đầu tư nhưng về mặt trị tuyệt đối có sự gia tăng qua các 
năm và từng bước đóng góp đáng kể vào tổng GDP của toàn xã hội. Hiện nay chúng ta 
không những đáp ứng đủ nhu cầu lương thực trong nước mà còn xuất khẩu nhiều mặt hàng 
nông sản, đồng thời áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào nông nghiệp,từng bước 
chuyên môn hóa, cơ giới hóa sản xuất. 
Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương, vùng lãnh thổ: Cơ cấu đầu tư đã có trọng tâm, 
đạt hiệu quả: Trọng tâm cơ cấu đầu tư theo vùng ở Việt nam chính 3 khu vực kinh tế trọng 
điểm. Trong mỗi khu vực lại chọn ra các tỉnh, thành phố có khả năng nhất làm hạt nhân. 
Đầu tư đã gớp phần hình thành nên những vùng chuyên môn hóa tập trung, những khu kinh 
tế trọng điểm và phát huy được lợi thế so sánh trong từng vùng. 
Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư thời gian qua cũng thể hiện những bất cập:      lOMoAR cPSD| 48302938 
Thứ hai, chất lượng dòng vốn FDI còn thấp: (i) Quy mô vốn bình quân của một dự án thấp; 
(ii) Tính chất của dòng vốn đầu tư chủ yếu hướng vào lĩnh vực gia công và khai thác tài 
nguyên; (iii) Tỷ lệ vốn FDI công nghệ cao, công nghệ nguồn chưa đạt được như kỳ vọng; 
(iv) Hiệu ứng lan tỏa, tính liên kết của khu vực FDI đối với khu vực trong nước chưa cao 
và bắt đầu xuất hiện những biểu hiện tiêu cực về tài chính (dòng USD chảy ra nhanh) và 
hiệu quả nhận được từ Việt Nam thấp; (v) Một số dự án được cấp phép nhưng chưa bảo 
đảm tính bền vững, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng; (vi) Tỷ 
lệ giải ngân vốn FDI chiếm khoảng 55% tổng vốn đăng ký, chưa tương xứng với kỳ vọng 
và nhu cầu của nền kinh tế. 
Thứ nhất, Xét về cơ cấu nguồn vốn đầu tư có thể thấy, mặc dù tỷ trọng vốn đầu tư từ khu 
vực ngoài nhà nước tăng lên, nhưng vẫn thấp hơn so với mục tiêu đặt ra trong giai đoạn 
2011 - 2020 (chiếm khoảng 45 - 47% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội). So sánh cơ cấu 
các nguồn lực tài chính phát triển của Việt Nam với mức bình quân của ASEAN cho thấy, 
tỷ trọng vốn của khu vực dân cư và doanh nghiệp tư nhân trong GDP ở Việt Nam là tương 
đối thấp so với các nước trong quá trình thực hiện tăng trưởng nhanh thành công đạt được  . 
Thứ ba, Tuy rằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản góp phần không nhỏ trong việc phát triển cơ 
sở hạ tầng, nhưng việc quản lý và triển khai thực hiện các dự án trong những năm quan 
còn nhiều hạn chế và yếu kém xảy ra ở tất cả các khâu giả quá trình đầu tư từ chủ trương 
đầu tư, chuẩn bị đầu tư… cho đến khi nghiệm thu và bàn giao công, dẫn đến thất thoát, 
lãng phí vốn đầu tư, hiệu quả đầu tư kém, làm giảm chất lượng tăng trưởng kinh tế 
Thứ tư, Trong nông nghiệp, mới chỉ chú trọng nhiều đến số lượng, chưa chú trọng đến chất 
lượng của sản phẩm, sản phẩm nông nghiệp chất lượng còn chưa cao do đó giá trị gia tăng 
của các hàng hóa nông sản còn thấp. Tình trạng thất thoát vốn trong nông nghiệp vẫn còn 
phổ biến, do đó vốn ưu đãi của nhà nước trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp không đến 
được tay của người nông dân. Chưa có sự kết hợp giữa ba “nhà”: nhà nước, nhà nông và 
nhà khoa học. Tình trạng phát triển ồ ạt, không theo quy hoạch tổng thể chung của từng 
vùng, địa phương, không có sự hướng dẫn của các chuyên gia, từ đó dẫn đến tình trạng 
cung vượt cầu,luôn gặp phải tình trạng “được mùa rớt giá” và ngược lại, làm cho người 
nông dân thiệt hại rất lớn khi sản phẩm làm ra không có nơi tiêu thụ. 
Chuyển dịch chậm, nhất là trong nội bộ ngành công nghiệp, Nhiều ngành kinh tế quan 
trọng, có lợi thế cạnh tranh, hiệu quả cao, độ lan tỏa lớn lại không được đầu tư đúng mức, 
hoặc không được đầu tư đáng kể.Chưa thực sự tạo ra được ngành công nghiệp mũi nhọn  cho đất nước      lOMoAR cPSD| 48302938 
Một số giải pháp thiết lập cơ cấu đầu tư hợp lý ở Việt Nam thời gian tới 
Như vậy, cơ cấu đầu tư trong thời gian tới cần có những đổi mới 
Rà soát, giảm thiểu các thủ tục đầu tư không cần thiết, rút ngắn thời gian hoàn thiện thủ 
tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, nhà 
đầu tư, nhà tài trợ triển khai nhanh các dự án đầu tư, không để chậm trễ trong giải ngân  vốn đầu tư công. 
- Hoàn thiện thể chế đầu tư theo hình thức PPP theo hướng minh bạch, ổn định, bình đẳng, 
kiểm soát chặt chẽ hiệu quả đầu tư, rút gọn thủ tục đầu tư, tạo chính sách ưu đãi, điều kiện 
thuận lợi để tăng tính hấp dẫn, thu hút các nhà đầu tư. 
Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư của nền kinh tế theo cơ chế 
thị trường, tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu, phục vụ 
cho việc thực hiện các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.. Đối với vốn đầu tư 
ngân sách nhà nước: bảo đảm đầu tư tập trung, hiệu quả, khắc phục tình trạng phân tán, 
dàn trải. Đối với các nguồn vốn vay để đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội: phải được 
kiểm soát một cách chặt chẽ về mục tiêu, hiệu quả đầu tư. Mở rộng các hình thức đầu tư, 
khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư kinh doanh, đặc biệt trong 
lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. 
Phân bổ vốn đầu tư hợp lý, kết hợp hài hòa giữa ngành, lĩnh vực đáp ứng định hướng lớn 
trong phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, giải quyết vấn đề bất cập mất cân đối giữa các 
ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ. Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo 
vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng cường liên kết 
giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của 
từng vùng, từng địa phương và ứng phó hiệu quả với thiên tai, biến đổi khí hậu; tạo không 
gian phát triển thống nhất trong vùng và cả nước. 
Công khai, minh bạch thông tin và tăng cường giám sát, đánh giá, kiểm tra, thanh tra trong 
quá trình đầu tư công; chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí trong đầu tư công. Trong đó, 
đặc biệt đề cao vai trò tham gia giám sát của cộng đồng dân cư trong các vùng ảnh hưởng 
của dự án, nâng cao trách nhiệm giải trình của chủ đầu tư và các bên liên quan đến dự án. 
Xác định rõ trách nhiệm trực tiếp của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đối với hiệu quả 
kinh tế - xã hội của các dự án đầu tư. Xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật, tham 
nhũng, gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư công.      lOMoAR cPSD| 48302938 
Đất nước ta sau hơn 35 năm đổi mới trên con đường hội nhập và phát triển, 
nền kinh tế đã có những chuyển biến hết sức tích cực, trong đó cơ cấu đầu tư 
đã có những chuyển biến đáng khích lệ: Nguồn vốn đầu tư phát triển không 
ngừng tăng và thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp 
hoá- hiện đại hóa.Hoạt động đầu tư trong từng ngành kinh tế đã có những 
bước chuyển biến tích cực, chú trọng đầu tư cho những ngành trọng điểm, 
đạt hiệu quả cao tạo nên sự phát triển ngày càng mạnh mẽ cho từng ngành. 
Vốn đầu tư cho các vùng kinh tế trọng điểm tăng nhanh, bên cạnh đó các vùng 
khó khăn tiếp tục được quan tâm đầu tư nhằm thu hẹp dần khoảng cách phát  triển giữa các vùng… 
Tuy nhiên thì bên cạnh đó cơ cấu đầu tư ở Việt Nam hiện nay vẫn còn những 
tồn tại mà chưa thể khắc phục như:qui mô nguồn vốn nhỏ,cơ chế phân bổ 
vốn chưa hợp lí, tình trạng dàn trải trong đầu tư, thất thoát vốn trong đầu tư 
Nhà nước… làm giảm hiệu quả đầu tư xã hội, tác động xấu tới nền kinh tế. 
Hiện nay toàn Đảng, toàn dân đang tích cực hành động để giải quyết dần 
những mặt tồn tại đó.Trong thời gian tới chúng ta có thể lạc quan tin rằng Việt 
Nam sẽ có bước chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng hợp lý qua đó không 
ngừng tăng trưởng kinh tế cao, đạt mục tiêu của tầm nhìn chiến lược 2025 
 Trong mỗi quốc gia thì đầu tư phát triển là một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và giải quyết nhiều 
vấn đề xã hội v Hoạt động đầu tư phát triển có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và do nhiều chủ thể khác 
nhau thực hiện cùng với sự tác động của nhiều nhân tố . Chính sự khác nhau đó tạo nên cơ cấu đầu tư. Vì vậy có thể 
nói cơ cấu đầu tư là khung xương của đầu tư phát triển. Cơ cấu đầu tư có hợp lý và vững chắc thì hoạt động đầu tư 
phát triển mới có thể đạt được hiệu quả cao. Do nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư phát triển cũng 
như cơ cấu đầu tư hợp lý như vậy nên trong những năm vừa qua, việc chuyển dịch CCĐT hợp lý, hiệu 
quả nhằm phát huy lợi thế so sánh của nền kinh tế, là một trong những vấn đề quan trọng, 
chủ yếu trong xây dựng chiến lược phát triển KT – XH của đất nước. Thực hiện đường lối 
của Đảng từ năm 1986 đến nay, rõ nhất là từ năm 1990 và đặc biệt là những năm đầu thế 
kỷ 21, CCĐT nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ trọng đầu tư vào công 
nghiệp dịch vụ tăng nhanh, vào nông nghiệp có xu hướng giảm theo cơ cấu tỷ trọng hợp 
lý. Những sự chuyển biến đó đã và đang tạo đà cho nền kinh tế tăng nhanh và ổn định. Do 
xuất phát điểm nền kinh tế Việt Nam thấp, vốn không phải thế mạnh của Việt Nam.Vì vậy 
cần có một cơ cấu đầu tư hợp lý để đảm bảo vốn đầu tư được phân bổ hợp lý và hiệu 
quả.Bên cạnh đó, cùng với xu thế toàn cầu hóa, thì nhu cầu đặt ra cho mỗi quốc gia phải 
liên tục nghiên cứu điều chỉnh cơ cấu đầu tư để đảm bảo phát triển bền vững.      lOMoAR cPSD| 48302938 
Trong đề tài này chúng em muốn đi sâu nghiên cứu một nội dung của đầu tư 
là cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Qua đó xem tác động của nó tới nền 
kinh tế Việt Nam trong những năm qua từ đó xác định những vấn đề tồn tại 
cũng như một số giải pháp khắc phục nhằm hoàn thiện cơ cấu đầu tư hướng 
đến cơ cấu kinh tế hợp lí