-
Thông tin
-
Quiz
TIỂU LUẬN Môn: KINH TẾ PHÁT TRIỂN | Học viện Hành chính Quốc gia
VAI TRÒ CỦA VỐN FDI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾVÀ THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG, PHÂN BỔ, SỬ DỤNG VỐN FDI ỞVIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020
Quản lí công 172 tài liệu
Học viện Hành chính Quốc gia 768 tài liệu
TIỂU LUẬN Môn: KINH TẾ PHÁT TRIỂN | Học viện Hành chính Quốc gia
VAI TRÒ CỦA VỐN FDI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾVÀ THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG, PHÂN BỔ, SỬ DỤNG VỐN FDI ỞVIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020
Môn: Quản lí công 172 tài liệu
Trường: Học viện Hành chính Quốc gia 768 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Hành chính Quốc gia
Preview text:
lOMoARcPSD|49633413
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VIỆN KINH TẾ TIỂU LUẬN
Môn: KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Đề tài: VAI TRÒ CỦA VỐN FDI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VÀ THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG, PHÂN BỔ, SỬ DỤNG VỐN FDI Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020
Họ tên học viên: Trương Sỹ Bảo Duy Mã học viên: MF29150095
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Cơ quan/Đơn vị công tác: Tổng cục Dự trữ Nhà nước, Bộ Tài chính
Vị trí công tác: Chuyên viên, Thư ký tổng hợp Hà Nội - 2023 lOMoARcPSD|49633413 MỤC LỤ
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
NỘI DUNG .......................................................................................................... 1
1. Giới thiệu chung về đề tài .............................................................................. 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 2
1.5. Tính mới của đề tài ........................................................................................ 2
1.6. Cấu trúc bài tiểu luận ..................................................................................... 2
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................... 2
2.1. Cơ sở lý thuyết .............................................................................................. 3
2.2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................... 5
2.3. Kết luận chung rút ra từ tình hình nghiên cứu đề tài....................................10
.............................................................................................................................. 6
3. Xây dựng mô hình kinh tế lượng .................................................................. 7
3.1. Mô hình hồi quy ............................................................................................ 7
3.2. Mô tả số liệu .................................................................................................. 7
3.3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 8
3.4. Kết quả nghiên cứu ...................................................................................... 10
4. Kết luận và kiến nghị ................................................................................... 17
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 20 lOMoARcPSD|49633413
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 21 lOMoARcPSD|49633413 LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh đã đưa bộ môn Kinh tế lượng vào chương trình học tập và giảng dạy.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn đến các giảng viên, đã tận tình giảng dạy và
truyền đạt cho chúng em những kiến thức quý báu về môn học. Trong thời gian
tham gia lớp học, em đã được tiếp cận với rất nhiều kiến thức bổ ích và cần thiết
cho quá trình học tập và làm việc sau này. Tuy nhiên, với kiến thức và kỹ năng về
môn học vẫn còn nhiều hạn chế, do đó bài tiểu luận của em khó tránh khỏi những
sai sót. Kính mong thầy/cô xem xét và góp ý giúp bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn! lOMoARcPSD|49633413 LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, Việt Nam là một nước có nền văn minh lúa nước từ
lâu đời. Từ xa xưa, trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Việt Nam
chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp để phát triển, trong đó gạo là lương thực chính
và khó có thể thay thế, lúa gạo là thức ăn căn bản của người dân Việt Nam. Theo
tài liệu của Chương trình điều tra mức sống của dân Việt Nam sống trong nước
trong năm 1992-1993, cơm là thức ăn chính của 99.9% hộ dân Việt Nam và gạo
đóng góp đến gần ba phần tư số năng lượng thức ăn của người Việt Nam (GSO,
1995). Khoảng 80% trong số 11 triệu hộ nông dân Việt Nam tham gia sản xuất lúa
gạo và chủ yếu dựa vào phương thức thủ công truyền thống. Gạo không những
đáp ứng đủ nhu cầu lương thực thực phẩm trong nước mà còn là sản phẩm xuất
khẩu chủ lực, đem lại nguồn GDP lớn hàng năm cho nước ta. Ngày nay, trong bối
cảnh hoạt động kinh tế thế giới diễn ra ngày càng mạnh mẽ, hoạt động thương mại
giữa các quốc gia ngày càng được đẩy mạnh đòi hỏi mỗi quốc gia phải chủ động
tham gia khai thác lợi thế của mình trong phân công lao động và trao đổi thương
mại quốc tế. Việt Nam, với thế mạnh là một nước nông nghiệp có nền sản xuất
lúa nước lâu đời, trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế
giới. Từ đây, việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sản lượng gạo xuất khẩu
ra các nước của Việt Nam trở nên cần thiết và nhận được nhiều sự quan tâm từ
các nhà nghiên cứu cả trong và ngoài nước. Trong một vài năm trở lại đây, do diễn
biến hết sức phức tạp của tình hình dịch bệnh Covid-19, hoạt động xuất khẩu nói
chung và xuất khẩu gạo nói riêng gặp không ít khó khăn, thách thức. Vì vậy, việc
nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam để
đưa ra chiến lược phát triển hợp lý là vô cùng quan trọng. Với thị trường quen
thuộc là các nước thuộc khối Asean, chúng ta có niềm tin rằng sẽ đưa mặt hàng
gạo Việt Nam sẽ tạo được vị thế xuất khẩu và vươn xa hơn trên thị trường thế giới.
Với lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới sản lượng
gạo xuất khẩu của Việt Nam đến một số nước Châu Á giai đoạn 2005-2020”
làm đề tài nghiên cứu. NỘI DUNG
1. Giới thiệu chung về đề tài
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá, mỗi nước đều chọn cho mình
một hướng đi thích hợp để cùng tiến tới một mục tiêu kinh tế là: ổn định và phát
triển lâu dài nền kinh tế. Một hướng đi mà nhiều nước lựa chọn là “Công nghiệp
hoá hướng về xuất khẩu”. Xét về điều kiện kinh tế, Việt Nam là một nước nông
nghiệp có tới hơn 80% dân số làm việc trong ngành này, do đó hoạt động xuất
khẩu của Việt Nam ngoài dầu mỏ và than thì chủ yếu là hàng nông sản trong đó
mặt hàng gạo chiếm tỷ trọng lớn nhất của Việt Nam. Từ năm 1997, Việt Nam đã 1 lOMoARcPSD|49633413
đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu,
phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới sản lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam để từ
đó đề ra những giải pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo ở
Việt Nam trong thời gian tới là hết sức cần thiết. Xuất phát từ thực tiễn đó tác giả
chọn đề tài tiểu luận là: “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới sản lượng gạo xuất
khẩu của Việt Nam đến một số nước Châu Á giai đoạn 2005-2020” làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng xuất khẩu gạo Việt Nam hiện nay.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới sản lượng gạo xuất khẩu.
- Đề xuất các giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả cho xuất khẩu gạo Việt Nam.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của bài tiểu luận là sản lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu là sản lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị
trường một số nước Châu Á giai đoạn 2005-2020.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu: Nhóm sử dụng bộ dữ liệu được thu thập tại
những nguồn dữ liệu đáng tin cậy của Ngân hàng thế giới – World Bank,
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, Trade map, Tổng cục thống kê Việt Nam.
- Phương pháp xây dựng mô hình: Thông qua phần mềm Gretl.
1.5. Tính mới của đề tài
Hiện chưa có công trình nghiên cứu nào đánh giá và phân tích sâu về tình
hình xuất khẩu gạo tại Việt Nam, đặc biệt là tình hình xuất khẩu gạo sang các
nước Châu Á trong một giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nhóm đã có một số tư liệu và
nguồn thông tin cần thiết để hình thành hiểu biết giúp tiếp cận và đi sâu về vấn
đề: “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam
đến một số nước Châu Á giai đoạn 2005-2020” nhằm phân tích, đánh giá mức
độ tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến sản lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam.
1.6. Cấu trúc bài tiểu luận
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, nội dung bài tiểu luận gồm:
1: Giới thiệu chung về đề tài
2: Tổng quan tình hình nghiên cứu
3: Xây dựng nô hình kinh tế lượng
4: Kết luận và kiến nghị 2 lOMoARcPSD|49633413
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
Việc xuất khẩu gạo nói riêng cũng như xuất khẩu hàng hóa nói chung là một
phần nằm trong thương mại quốc tế. Đối với phần lớn các nước trên thế giới,
thương mại quốc tế tương đương với một tỷ lệ lớn trong GDP. Nhiều nhà kinh tế
học đã đưa ra những mô hình khác nhau để dự đoán cơ cấu trao đổi thương mại
quốc tế và phân tích ảnh hưởng của các yếu tố đến xuất khẩu.
2.1.1. Lý thuyết Thương mại mới
Người được ví là “cha đẻ” của trường phái “Học thuyết thương mại mới”
Paul Krugman (sinh năm 1953, người Mỹ), năm 1979 (khi mới 26 tuổi) đã đưa ra
học thuyết mới về thương mại so với các học thuyết trước đó. Thuyết này giải
thích quan hệ thương mại nội bộ ngành dựa trên lợi thế nhờ quy mô, theo đó việc
sản xuất hiện quy mô lớn làm giảm chi phí sản xuất, do quá trình chuyên môn hóa
đưa lại. Trong học thuyết của mình, Paul Krugman dựa trên giả định người tiêu
dùng quan tâm tới tính đa dạng sản phẩm.
Học thuyết của Paul Krugman được đánh giá là điểm sáng của kinh tế học
hiện đại, khi có cách tiếp cận hoàn toàn mới so với các học thuyết cổ điển và tân
cổ điển. Cùng với thời gian, sự khác biệt về trình độ công nghệ, vốn, kĩ thuật...
của các nước công nghiệp phát triển đang dần được thu hẹp. Lợi thế so sánh trong
nội bộ ngành công nghiệp thường không rõ rệt, do vậy, lợi thế kinh tế nhờ quy mô
đã thúc đẩy quá trình thương mại quốc tế được tiến hành dưới dạng trao đổi hai
chiều trong nội bộ các ngành, quá trình trao đổi thương mại hai chiều không chỉ
mang tính bổ trợ nhau mà đó là những hàng hóa tương tự nhau, nhưng lại đáp ứng
được thị hiếu của những người tiêu dùng khác nhau. Như vậy là thương mại đã
tạo cơ hội cho các bên cùng có lợi ngay cả khi các nước không hề có sự khác biệt
về mức độ sẵn có các nguồn lực 5 hay công nghệ. Lý thuyết thương mại mới đề
cao vai trò của các hiệp định thương mại liên kết các quốc gia trong việc xuất
khẩu hàng hóa nói riêng và thương mại nói chung.
2.1.2. Lý thuyết Heckscher-Ohlin
Mô hình Heckscher-Ohlin, nhiều khi được gọi tắt là Mô hình H-O, là một
mô hình toán cân bằng tổng thể trong lý thuyết thương mại quốc tế và phân công
lao động quốc tế dùng để dự báo xem quốc gia nào sẽ sản xuất mặt hàng nào trên
cơ sở những yếu tố sản xuất sẵn có của quốc gia. Eli Heckscher và Bertil Ohlin
của Thụy Điển là hai người đầu tiên xây dựng mô hình này, nên mô hình mang
tên họ, dù sau này có nhiều người khác tham gia phát triển mô hình. Mô hình dựa
vào lý luận về lợi thế so sánh của David Ricardo. Tuy nhiên, khác với lý thuyết
của Ricardo, lý thuyết H-O lại lập luận rằng mô hình thương mại quốc tế được
xác định bởi sự khác biệt về mức độ sẵn có của các nhân tố sản xuất hơn là bởi sự
khác biệt về năng suất lao động.
Lý thuyết H-O được xem là một trong các lý thuyết có mức độ ảnh hưởng
rộng lớn trong kinh tế học quốc tế. Hầu hết các nhà kinh tế học đều thích áp dụng 3 lOMoARcPSD|49633413
lý thuyết này hơn so với lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo bởi vì nó sử dụng ít
giả thiết đơn giản hóa hơn. Vận dụng lý thuyết H-O, Việt Nam có vốn diện tích
đất nông nghiệp lớn, khí hậu nóng ẩm quanh năm và nguồn lao động dồi dào thuộc
top các nước có sản lượng gạo xuất khẩu lớn nhất trên thế giới. 2.1.3.
Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh trong thương mại
Adam Smith là người đầu tiên đưa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của hoạt
động ngoại thương. Trong cuốn “Sự giàu có của các quốc gia” Smith (1776), A.
Smith đã coi các quốc gia giống như các hộ gia đình. Mỗi hộ gia đình đều thấy có
lợi khi chỉ sản xuất một vài mặt hàng đáp ứng nhu cầu của họ và mua những hàng
hóa của người khác, các quốc gia cũng như vậy. Những người chủ gia đình khôn
ngoan sẽ không bao giờ cố gắng tự sản xuất ra mặt hàng nào mà chi phí bỏ ra để
sản xuất lớn hơn giá phải trả để mua mặt hàng đó. Như vậy, lợi thế tuyệt đối là lợi
thế có được trong điều kiện so sánh chi phí sản xuất để sản xuất ra cùng một loại
sản phẩm, khi một nước sản xuất sản phẩm có chi phí cao hơn có thể nhập sản
phẩm đó từ nước khác có chi phí sản xuất thấp hơn. Các quốc gia tập trung chuyên
môn hóa vào sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối, sau đó trao đổi với
các quốc gia khác và kết quả là tất cả các bên hưởng lợi từ thương mại quốc tế.
Bên cạnh đó, Lý thuyết về lợi thế so sánh của D.Ricardo cho rằng “một quốc
gia, cũng như một người, thu được lợi ích từ thương mại bằng cách xuất khẩu
hàng hóa hoặc dịch vụ mà quốc gia đó có thể sản xuất với lợi thế so sánh lớn nhất,
và nhập khẩu những hàng hóa mà quốc gia đó có lợi thế so sánh nhỏ nhất” Ricardo
(1817). Lý thuyết lợi thế so sánh đã chứng minh được rằng một quốc gia có thể
thu được lợi từ thương mại cho dù quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối hay không. Lý
thuyết lợi thế so sánh là khái niệm trọng yếu trong nghiên cứu thương mại quốc
tế. Nhà kinh tế học được giải thưởng Nobel năm 1970 Paul Samuelson đã viết:
“mặc dù có những hạn chế, lý thuyết lợi thế so sánh vẫn là một trong những chân
lý sâu sắc nhất của mọi môn kinh tế học. Các quốc gia không quan tâm đến lợi
thế so sánh đều phải trả một cái giá rất đắt bằng mức sống và tăng trưởng của chính mình”.
2.1.4. Mô hình trọng lực
Mô hình trọng lực hay còn gọi là mô hình lực hấp dẫn (GM – Gravity model)
là mô hình kinh tế lượng, đồng thời là một công cụ hữu hiệu trong việc giải thích
khối lượng và chiều hướng thương mại song phương giữa các quốc gia và được
sử dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế. Mô hình lực hấp dẫn thương mại trong
thương mại quốc tế đầu tiên được sử dụng để đo lường giá trị xuất khẩu giữa hai
quốc gia với nhau, do hai nhà khoa học Timbergen (1962) và Poyhonen (1963)
xây dựng và phát triển.
So với các mô hình lý thuyết trên, mô hình lực hấp dẫn (Gravity model)
nghiêng về phân tích định lượng hơn. Ở dạng đơn giản, mô hình lực hấp dẫn dự
đoán rằng trao đổi thương mại phụ thuộc vào khoảng cách giữa hai nước và quy
mô của hai nền kinh tế. Mô hình đã được chứng minh rằng nó có tính định lượng
tương đối mạnh thông qua các phân tích kinh tế lượng. 4 lOMoARcPSD|49633413
2.2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới đã có khá nhiều nghiên cứu tập trung làm rõ các nhân tố ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu đã chứng minh được sự thành công
của việc áp dụng mô hình trọng lực trong việc giải thích các nhân tố ảnh hưởng
đến hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia.
Việc đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình xuất nhập khẩu nói chung
và sản lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam nói riêng được tìm thấy trong các nghiên
cứu thực nghiệm đã công bố bao gồm các nhân tố vĩ mô và nhân tố cơ bản liên
quan đến tình hình nhập khẩu gạo từ Việt Nam của từng nước nhập khẩu. Do
không thể liệt kê tất cả các nghiên cứu có liên quan nên trong phần này nên tác
giả chỉ liệt kê một vài nghiên cứu tiêu biểu làm cơ sở cho nghiên cứu của mình.
Trước tiên là nghiên cứu của Francesco Goletti, Nicholas Minot, and Philippe
Berry về “Marketing constraints on rice exports from Viet Nam”. Bằng phương
pháp định tính, tác giả này đã chỉ ra rằng các yếu tố sản lượng gạo tính trên mỗi
người, chất lượng gạo, dân số nước nhập khẩu, thu nhập có tác động cùng chiều
đến sản lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam. Thêm vào đó, yếu tố tốc độ đô thị hóa
được cho là có tác động ngược chiều vì hộ gia đình thành thị có xu hướng ăn uống
thanh đạm và ít tinh bột hơn hộ gia đình nông thôn.
Nghiên cứu của Zhang & Wang (2015) chỉ ra xuất khẩu của Trung Quốc vào
các quốc gia Asean chịu ảnh hưởng của các yếu tố GDP các nước, khoảng cách
địa lý, đường biên giới chung, ngôn ngữ sử dụng, và sự tham gia vào các FTA.
Camacho (2013) nghiên cứu hoạt động thương mại của Bồ Đào Nha với thế
giới trong bối cảnh hội nhập, ngoài các biến trong mô hình hấp dẫn thương mại
truyền thống, tác giả đã kiểm định thêm được các biến về đường biên giới chung
và ngôn ngữ sử dụng cũng có tác động nhất định lên luồng thương mại của quốc gia này.
Khiyav & cộng sự (2013) kết luận GDP, tỷ giá, khoảng cách, sự tham gia vào
các tổ chức thương mại là những yếu tố tác động đến xuất khẩu nông sản của
những quốc gia đang phát triển. Trong khi đó, các yếu tố tác GNP, dân số, mối
quan hệ láng giềng, ngôn ngữ sử dụng và quốc gia nhập khẩu có giáp biển lại tác
động đến xuất khẩu nho khô của Thổ Nhĩ Kỳ (Miran, 2013).
Nghiên cứu của Weckström (2013) sử dụng mô hình trọng lực hấp dẫn để
kiểm định và đo lường mức độ tác động của các yếu tố lên xuất khẩu chung của
Nga và một số lĩnh vực riêng như xuất khẩu dầu và khí ga. Kết quả nghiên cứu
chỉ ra khoảng cách giữa các quốc gia không có ý nghĩa trong mô hình và biến tỷ
giá hối đoái thực lại có tác động dương lên xuất khẩu.
Phạm Văn Nhớ và Vũ Thanh Hương (2014) đã dựa trên mô hình trọng lực 1
để xác định và đo lường mức độ tác động của các yếu tố GDP của Việt Nam và
các đối tác, khoảng cách địa lý, tỷ giá hối đoái thực, mối quan hệ thuộc địa giữa
Việt Nam với các thành viên Châu Âu và các nước Châu Âu có là thành viên của 5 lOMoARcPSD|49633413
Hội đồng tương trợ kinh tế lên dòng thương mại dịch vụ của Việt Nam và liên minh Châu Âu.
Tác giả Mai Phương (2014) trong khóa luận với đề tài “Nghiên cứu các nhân
tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam” đã cho thấy các yếu tố
tổng sản lượng gạo trong nước, diện tích trồng lúa, đơn giá một tấn gạo xuất khẩu
đều có tác động dương lên biến phụ thuộc là sản lượng xuất khẩu gạo của Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu có tồn tại mâu thuẫn khi đơn giá một tấn gạo có tác
động dương đến biến sản lượng xuất khẩu, có nghĩa là khi Việt Nam tăng giá gạo
thì lượng gạo xuất khẩu đi sẽ tăng, điều này đi ngược lại với quy luật cung cầu
đối với hàng hóa thông thường.
Phan Anh Tú và Phạm Thị Như Hảo (2017) với đề tài “Nghiên cứu các nhân
tố ảnh hưởng đến thương mại song phương giữa Việt Nam và các đối tác thương
mại bằng mô hình lực hấp dẫn” nhằm phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thương
mại song phương giữa Việt Nam và 52 quốc gia từ năm 2001 đến năm 2011. Kết
quả ước lượng tìm thấy quy mô nền kinh tế Việt Nam, quy mô nền kinh tế nước
đối tác, khoảng cách văn hóa, khoảng cách kinh tế, mức độ cải tiến công nghệ của
Việt Nam, độ mở cửa nền kinh tế, quy mô dân số Việt Nam,tỷ giá hối đoái và
đường biên giới chung có ảnh hưởng đến thương mại song phương giữa Việt Nam
và 52 quốc gia này. Hơn nữa, áp dụng phương pháp tính tốc độ hội tụ, nghiên cứu
còn tìm thấy các đối tác thương mại tiềm năng mới của Việt Nam như Châu Phi và Tây Nam Á.
Võ Văn Dứt (2017) với đề tài “Các yếu tố khoảng cách quốc gia ảnh hưởng
như thế nào đến xuất khẩu của nền kinh tế Việt Nam?”. Sử dụng phương pháp ước
lượng bình phương nhỏ nhất, kết quả chỉ ra rằng, khoảng cách địa lý có mối tương
quan nghịch chiều và khoảng cách kinh tế có mối tương quan thuận chiều đối với
xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, khoảng cách văn hóa và khoảng cách thể chế
lại không có ảnh hưởng đến xuất khẩu.
Trần Thị Bạch Yến và Trương Thị Thanh Thảo (2017) trong nghiên cứu các
nhân tố tác động đến kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường ASEAN
trong giai đoạn 2000-2015 đã chỉ ra rằng các yếu tố tổng sản phẩm quốc nội Việt
Nam (GDP), khoảng cách địa lý, lạm phát của Việt Nam, diện tích đất trồng lúa
của Việt Nam có ảnh hưởng tích cực, cùng chiều đến giá trị kim ngạch gạo xuất
khẩu của Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu. Trái lại, các yếu tố khoảng cách
kinh tế thì có tác động ngược chiều với giá trị kim ngạch xuất khẩu gạo trong giai đoạn 2000-2015.
2.3. Kết luận chung rút ra từ tình hình nghiên cứu đề tài
Các đề tài khác nhau dựa trên các góc nhìn khác nhau của tác giả. Trong khi
nghiên cứu của Francesco Goletti và các đồng sự tập trung vào nhóm các yếu tố
ảnh hưởng đến cầu nhập khẩu tại các nước nhập khẩu thì tác giả Trần Thị Bạch
Yến và Trương Thị Thanh Thảo lại chú trọng hơn vào các nhóm các yếu tố ảnh
hưởng đến cung của nước xuất khẩu gạo là Việt Nam. Tuy nhiên về cơ bản, tác
giả đều nhất trí trong việc các yếu tố chi phối đến sản lượng gạo xuất khẩu của 6 lOMoARcPSD|49633413
Việt Nam ra các nước đến từ nhiều nguyên nhân cả phía nước xuất khẩu, nước
nhập khẩu và các yếu tố thuộc nhóm bôi trơn hoặc cản trở. Một số biến ảnh hưởng
được nhiều tác giả đưa vào mô hình như tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản
lượng gạo, dân số,... về cơ bản có tác động lớn đến sản lượng gạo xuất khẩu.
3. Xây dựng mô hình kinh tế lượng
3.1. Mô hình hồi quy Mô hình gồm 3 biến:
- Biến phụ thuộc: Tỷ giá hối đoái – TyGia (Đơn vị tính: VNĐ/USD ) - Biến độc lập:
+ Xuất khẩu - XuatKhau (Đơn vị tính: Triệu USD)
+ Nhập khẩu - NhapKhau (Đơn vị tính: Triệu USD ) TyGia
= β0 + β1 XuatKhau + β2NhapKhau + u
3.2. Mô tả số liệu
- Số liệu bao gồm: Tổng giá trị Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giaiđoạn 2005-2020.
- Nguồn số liệu tìm được từ Tổng cục thống kê Việt Nam. - Bảng số liệu: 7 lOMoARcPSD|49633413 Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Tỷ giá (Triệu USD) (Triệu USD) (VNĐ/USD) 2005 32447.10 36761.10 15859.00 2006 39826.20 44891.10 15994.00 2007 48561.40 62764.70 16195.00 2008 62685.10 80713.80 16302.00 2009 57096.30 69948.80 17065.00 2010 72236.70 84838.60 18613.00 2011 96905.70 106749.80 20510.00
2012 114529.20 111640.27 20828.00
2013 132175.00 132032.60 20935.00 2014 150217.10 147849.10 21151.00 2015 162016.70 165775.90 21683.00 2016 176580.80 174978.40 21932.00 2017 215118.60 213215.30 22373.00 2018 243696.80 237241.60 22606.00 2019 264189.40 253355.80 22958.00 2020 281500.00 262400.00 23131.00
3.3. Phương pháp nghiên cứu -
Dựa vào kết quả các nghiên cứu trước đây, tác giả xác định tác động
đếnsản lượng xuất khẩu gạo ra từng nước nhập khẩu của Việt Nam có rất nhiều
nhân tố khác nhau. Trong đó, có những nhân tố thuộc về bản thân nước xuất
khẩu song lại có những nhân tố thuộc về đối tác hoặc cũng có thể là các nhân
tố từ bên ngoài tác động đến. Do đó, vận dụng sáng tạo mô hình lý thuyết và
kết quả của các nghiên cứu đi trước, tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu những yếu
tố ảnh hưởng chính, có tác động mạnh mẽ đến sản lượng gạo xuất khẩu ra các
nước của Việt Nam bao gồm nhóm yếu tố ảnh hưởng đến cầu nhập khẩu và
nhóm yếu tố cản trở, hấp dẫn. -
Nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến cầu nhập khẩu gạo của nước nhập khẩu:
+ Tổng sản phẩm quốc nội của các nước nhập khẩu gạo:
Xét về nước nhập khẩu, nếu GDP của một nước lớn thường đi kèm với thu
nhập của quốc gia đó cao, điều này đồng nghĩa với việc nước đó có khả năng chi
trả nhiều hơn cho hàng hóa của các nước khác, điều này khiến cho giá trị xuất
khẩu vào nước đó tăng lên. GDP nước nhập khẩu càng lớn thì khả năng sản xuất
của nước đó càng cao, nước đó sẽ càng có khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong 8 lOMoARcPSD|49633413
nước và sản xuất được hàng hóa thay thế nhập khẩu. Do vậy sẽ càng gây khó khăn
cho các mặt hàng của nước xuất khẩu trong việc xâm nhập thị trường.
Không chỉ có thế, tác động của thu nhập quốc dân tới cầu xuất khẩu còn phụ thuộc
vào từng loại hàng hóa. Các nhóm hàng khác nhau sẽ có độ co giãn theo thu nhập
không giống nhau. Đối với những mặt hàng trở thành hàng hóa thứ cấp khi mức
sống tăng cao do thu nhập thì khi thu nhập tăng sẽ chỉ khiến cầu của những hàng
hóa này giảm. Đối với hàng hóa thông thường cầu sẽ tăng khi thu nhập tăng lên.
Tuy vậy, những mặt hàng cần thiết thì thu nhập tăng cao sẽ chỉ đem đến một mức
tăng vừa phải trong khi đối với những hàng hóa xa xỉ, thì thu nhập tăng ở mức
cao kéo theo cầu tăng mạnh. Mặc dù vậy, việc hàng hóa nào là xa xỉ, hàng hóa
nào là cần thiết hay thứ cấp còn tùy thuộc vào những đặc điểm riêng, sự phù hợp
và khác biệt giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. Tuy nhiên, do gạo là mặt
hàng thiết yếu và việc sản xuất gạo là tương đối thủ công nên khi GDP nước nhập
khẩu tăng lên thì mức sống người dân đã tăng lên một cách tương đối và các hoạt
động về thủ công nông nghiệp giảm - đồng nghĩa với nhu cầu nhập khẩu gạo tăng
lên. Khi đó, tác độn/g của quy mô nền kinh tế nước nhập khẩu tới kim ngạch xuất
khẩu là tác động cùng chiều.
+ Dân số của các nước nhập khẩu:
Khi quy mô dân số tăng sẽ kéo theo cầu hàng hóa mà đặc biệt là các mặt
hàng thiết yếu như gạo tăng lên, gây ra những ảnh hưởng nhất định đến kim ngạch
xuất khẩu của quốc gia đối tác. Tuy vậy, mức độ tác động của nhân tố này là cùng
chiều hay ngược chiều lại phụ thuộc vào điều kiện cụ thể cũng như chất lượng
nguồn lao động của mỗi quốc gia. Cụ thể: (i) Dân số tăng cũng tức là lượng cầu
tăng khiến cho nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng tức là khả năng xuất khẩu của
đối tác tăng. (ii) Dân số tăng khiến quy mô lao động trong nước tăng làm tăng khả
năng sản xuất dẫn tới tăng quy mô và kết quả sản xuất. Khi đó, sản xuất trong
nước cũng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước dẫn đến khả
năng xuất khẩu hàng hóa giảm (cũng tức là khả năng xuất khẩu của quốc gia đối tác giảm).
+ Diện tích thu hoạch lúa hàng năm của các nước nhập khẩu:
Xét trên khía cạnh cung – cầu, diện tích lúa thu hoạch của các nước nhập
khẩu đại diện cho tình hình tự cung cấp gạo của các nước nhập khẩu. Nếu diện
tích này thấp, tức là cung về gạo của các nước nhập khẩu giảm, như vậy cầu về
gạo của họ sẽ tăng. Điều này thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt Nam. Qua phân
tích, diện tích lúa thu hoạch của các nước nhập khẩu có ảnh hưởng ngược chiều đến biến phụ thuộc.
- Nhóm các yếu tố cản trở, hấp dẫn:
+ Khoảng cách địa lí giữa 2 quốc gia:
Khoảng cách địa lý giữa hai quốc gia ảnh hưởng tới cước phí vận chuyển,
rủi ro trong quá trình vận chuyển… Khoảng cách càng gần thì cước phí càng nhỏ,
rủi ro đối với hàng hóa trong quá trình vận chuyển càng giảm, như thế càng góp
phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Đó là lý do tại sao các nước hay chú 9 lOMoARcPSD|49633413
trọng đến giao lưu thương mại đối với các nước có cùng đường biên giới hay các
nước trong cùng khu vực. Khoảng cách có ảnh hưởng trực tiếp tới thời gian cũng
như phương thức vận chuyển hàng hóa. Do vậy, với từng nhóm hàng khác nhau
thì yếu tố khoảng cách cũng có thể gây nên những tác động khác biệt. Song với
gạo thì khoảng cách địa lý có ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu gạo của một quốc gia.
+ Khoảng cách kinh tế giữa các quốc gia:
Khoảng cách kinh tế đã được nhiều nhà nghiên cứu nhắc đến trong kinh
doanh quốc tế. Sự giàu có hay thu nhập của người tiêu dùng là một trong những
yếu tố tạo nên khoảng cách kinh tế giữa các nước và có ảnh hưởng đến mức độ
thương mại giữa các nước. Hiện nay, các nước có nền kinh tế phát triển chủ yếu
tập trung phát triển các công nghệ hiện đại và chuyển giao sang các nước đang
phát triển với chi phí thấp hơn để thực hiện sản xuất và nhập khẩu trở lại các loại
hàng hóa sau khi đã sản xuất hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, các nước có nền kinh tế
thịnh vượng và phát triển thường có xu hướng quan hệ thương mại với các nước
tương đồng về kinh tế với họ nhiều hơn. Trong khi đó, các nước có nền kinh tế
kém phát triển thường có quan hệ thương mại với các nước giàu hơn. Điều này
được giải thích bởi lợi thế cạnh tranh, mà ở đây là giá cả và chi phí. Các nước có
nền kinh tế phát triển sản xuất những sản phẩm công nghệ cao, đạt chuẩn quốc tế
sẽ thực hiện kinh doanh tại thị trường tương đồng để duy trì lợi thế cạnh tranh.
Khoảng cách kinh tế giữa hai quốc gia càng lớn thì xuất khẩu của Việt Nam sang quốc gia đó càng giảm. -
Xác định mối tương quan, tác động của xuất, nhập khẩu đến tỷ giá
giaiđoạn 2005-2020 bằng mô hình kinh tế lượng. -
Sử dụng phương pháp phân tích hồi quy với phần mềm Gretl.
3.4. Kết quả nghiên cứu
Mở và chạy phần mềm Gretl với tệp số liệu excel: 10 lOMoARcPSD|49633413
Sử dụng phần mềm Gretl, hồi quy mô hình bằng phương pháp bình phương
nhỏ nhất OLS, ta được kết quả như sau:
Kết quả hồi quy kết quả:
TyGia = 12983.8 - 0.77 XuatKhau + 0.125 NhapKhau + u
Mô hình trên thể hiện mối quan hệ nghịch biến giữa xuất khẩu và tỷ giá, quan
hệ đồng biến giữa nhập khẩu và tỷ giá. Cụ thể là:
+ Hệ số β0 = 12983.8, tức là khi các điều kiện khác không đổi, nếu xuất
khẩu và nhập khẩu bằng không thì tỷ giá bằng 12983.8 VND/USD.
+ Hệ số β1 = -0.077.
+ Hệ số β2 = 0.125.
+ Giá trị P (β1 ) = 0.1074 > 0.1 kết quả không có ý nghĩa thống kê.
+ Giá trị P (β2 ) = 0.017 < 0.05 kết quả có ý nghĩa thống kê ở mức 5%.
Tức là khi xuất khẩu tăng thêm 1 triệu USD thì tỷ giá giảm đi –0.077 VND/USD.
+ Hệ số xác định bội R2 = 0.87 cho thấy mức độ phù hợp của mô hình là
rất lớn, thay đổi của xuất khẩu và nhập khẩu giải thích được 87% tỷ giá.
+ Hệ số xác định bội điều chỉnh R2 = 0.86
+ Tổng bình phương nhỏ nhất SSR = 47935324
* Tìm khoảng tin cậy: 11 lOMoARcPSD|49633413 +
Khoảng tin cậy 90% của β1 (-0.156; 0.0018)
Khoảng tin cậy 90% của β2 (-0.41; 0.2) * Kiểm
định đa cộng tuyến:
Kiểm định đa cộng tuyến bằng phương pháp hồi quy phụ.
Phương trình hồi quy phụ:
XuatKhau = α0 + α1 NhapKhau + u
Ta dùng kiểm định F, giả thuyết H0: α0 = α1 = …= 0 Ta có P(F) =4.98 e-29 < 0.01 nênbác bỏgiả 12 lOMoARcPSD|49633413
thuyết H0 ở mức ý nghĩa 1%, do đó mô hình có đa cộng tuyến.
* Kiểm định phương sai sai số thay đổi:
Để kiểm định phương sai sai số thay đổi ta dùng kiểm định White có tích chéo:
Dùng kiểm định Khi bình phương: Vp (TR2) = 0.88 > 0.1 nên không bác bỏ
giả thuyết H0, do đó không có phương sai sai số thay đổi.
* Kiểm định tính dừng:
Để kiểm định tính dừng ta dùng kiểm định nghiệm đơn vị Unit Root Test.
Sử dụng phần mềm Gretl, hồi quy mô hình bằng phương pháp bình phương
nhỏ nhất OLS theo chuỗi thời gian, ta được kết quả như sau:
- Kiểm định tính dừng của chuỗi Tỷ giá: 13 lOMoARcPSD|49633413 Loại Giá trị P Kết luận Không chặn 0.99
> 0.1 là chuỗi không dừng Có chặn 0.77
> 0.1 là chuỗi không dừng Có chặn + xu thế 0.062 < 0.1 là chuỗi dừng
Như vậy, chuỗi tỷ giá là chuỗi không dừng.
- Kiểm định tính dừng của chuỗi Xuất khẩu: 14 lOMoARcPSD|49633413 Loại Giá trị P Kết luận Không chặn 1
> 0.1 là chuỗi không dừng Có chặn 1
> 0.1 là chuỗi không dừng Có chặn + xu thế 0.999
> 0.1 là chuỗi không dừng Như vậy,
chuỗi Xuất khẩu là chuỗi không dừng.
- Kiểm định tính dừng của chuỗi Nhập khẩu: 15 lOMoARcPSD|49633413 Loại Giá trị P Kết luận Không chặn 1
> 0.1 là chuỗi không dừng Có chặn 1
> 0.1 là chuỗi không dừng Có chặn + xu thế 0.99
> 0.1 là chuỗi không dừng
Như vậy, chuỗi Nhập khẩu là chuỗi không dừng.
Từ kết quả phân tích hồi quy, ta thấy:
Thứ nhất, GDP nước nhập khẩu có tác động tích cực tới sản lượng xuất khẩu
gạo của Việt Nam. GDP phần nào chứng tỏ sự phát triển của một nền kinh tế. Xét
về nước nhập khẩu, nếu GDP của một nước lớn thường đi kèm với thu nhập của
quốc gia đó cao, điều này đồng nghĩa với việc nước đó có khả năng chi trả nhiều
hơn cho hàng hóa của các nước khác, điều này khiến cho giá trị xuất khẩu vào
nước đó tăng lên, cụ thể mặt hàng ở đây là gạo Việt Nam. 16