Tiểu luận môn Lịch sử Đảng đề tài "Phân tích tầm nhìn của Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam qua cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng"

Tiểu luận môn Lịch sử Đảng đề tài "Phân tích tầm nhìn của Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam qua cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng" giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD|36625228
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 1
I. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................... 1
II. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................................. 1
III. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN
(2/1930) ....................................................................................................................................... 2
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ..................................................................................... 2
I. Tình hình Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản thành lập ...................................................... 2
1. Bối cảnh ra đời .................................................................................................................. 2
2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện để thành lập Đảng ............................................. 3
II. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ............... 7
1. Các tổ chức cộng sản ra đời .............................................................................................. 7
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ................................................................... 9
III. Nội dung cương lĩnh chính trị ........................................................................................... 10
IV. Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên ........................................................................ 13
CHƯƠNG 2: TẦM NHÌN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI TIẾN TRÌNH CÁCH
MẠNG VIỆT NAM .................................................................................................................. 14
I. Những thay đổi mới ở Việt Nam và thế giới trong những năm đầu thế kỷ XX .................. 14
II. Tầm nhìn vượt thời đại của Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên ........... 15
1. Cái nhìn đúng đắn tiến bộ của Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng cộng sản Việt Nam .............................................................................................. 15
2. Giá trị to lớn của Cương lĩnh 2/1930 và Lý luận giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam từ 1930 - 1945 ................................... 18
III. Bài học chiến lược cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam ................... 21
C. KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 25
TƯ LIỆU THAM KHẢO
lOMoARcPSD|36625228
1
A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận sáng tạo của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh trở thành tấm gương sáng trong việc kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tinh hoa của nhân loại, tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin trên tinh
thần độc lập, tự chủ và sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh thực tế nước ta
1
. Hơn 90 năm kể từ
khi Đảng thành lập và Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930) được thông qua, đất nước ta đã
vận dụng một cách thành công trên từng bước đường phát triển của đất nước. 90 năm là một
hành trình dài của một đất nước có nhiều biến thiên lịch sử, nhưng ng đủ chứng minh tầm
nhìn của Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam khi thông qua bản Cương lĩnh chính
trị đầu tiên.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (2/1930) là văn kiện có giá
trị lịch sử ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với lịch sử Đảng ta. Lịch sử Đảng gắn liền
với lịch sử dân tộc các phong trào cách mạng, chỉ huy bởi một Đảng cầm quyền. lẽ đó,
Cương lĩnh chính trđầu tiên mang trên mình giá trị lịch sử to lớn bởi thể hiện được tưởng
giải phóng dân tộc, cứu nước của đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi y. Ý chí độc lập dân tộc
và khát vọng tự do cho nhân dân là điểm xuất phát của Nguyễn Ái Quốc, Cương lĩnh chính
trị đầu tiên là nền tảng tạo nên những giá trị bền vững cho dân tộc Việt Nam, có ảnh hưởng
đến lịch sử thế giới.
Với đề tài “Phân tích tầm nhìn của Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam qua
Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930) của Đảng”, nhóm nghiên cứu nhận định được ý nghĩa
của cương lĩnh, từ đó phân tích tầm nhìn của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình hình thành
Cương lĩnh chính trị đầu tiên.
II. Mục tiêu nghiên cứu
Tầm nhìn của Nguyễn Ái Quốc Đảng Cộng sản Việt Nam qua Cương lĩnh chính trị
đầu tiên. Từ đó khẳng định tầm nhìn ng suốt hệ thống lý luận chính trị ràng của
Nguyễn Ái Quốc trước bước ngoặt đại của dân tộc, giá trị ơng lĩnh với tiến trình lịch
sử cách mạng Việt Nam nói chung và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.
III. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930) của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ bối
cảnh lịch sử, khẳng định ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh cùng tầm nhìn vượt thời đại của
Nguyễn Ái Quốc trước thế vận của dân tộc. Cương lĩnh chính trị đầu tiên trở thành kim ch
1
Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 1, trang 8.
lOMoARcPSD|36625228
2
nam cho hoạt động cách mạng, nền tảng cho mọi quyết định trong đại của quốc gia, dân tộc
trong Đảng.
B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CƯƠNG LĨNH ĐẦU
TIÊN (2/1930)
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. Tình hình Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản thành lập
1. Bối cảnh ra đời
Tình hình thế giới: Từ nửa sau thế kỷ XIX, c nước tư bản Âu - Mỹ có những chuyển
biến mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa), đẩy
mạnh quá trình xâm chiếm dịch các ớc nhỏ, yếu châu Á, châu Phi khu vực
MỹLatinh, biến các quốc gia này thành thuộc địa của các nước đế quốc. Trước bối cảnh đó,
nhân dân các dân tộc bị áp bức đã đứng n đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân, đế
quốc, tạo thành phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp, nhất là ở châu Á. Phong
trào giải phóng dân tộc các nước châu Á đầu thế kỷ XX phát triển rộng khắp, tác động
mạnh mẽ đến phong trào yêu nước Việt Nam. Trong bối cảnh đó, thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười Nga m 1917 đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng ời Nga không chỉ ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp
sản đối với các nước bản, còn tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc
các thuộc địa. Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản, do V.I.Lênin đứng đầu, được thành lập,
trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng sản thế giới.
Cùng với việc nghiên cứu và hoàn thiện chiến lược và sách lược về vấn đề dân tộc và thuộc
địa, Quốc tế Cộng sản đã tiến hành hoạt động truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản thúc
đẩy phong trào đấu tranh ở khu vực y đi theo khuynh hướng sản. Đại hội II của Quốc
tế Cộng sản (1920) đã thông qua luận cương về dân tộc thuộc địa do V.I.Lênin khởi
xướng. Cách mạng Tháng Mười những hoạt động cách mạng của Quốc tế Cộng sản đã
ảnh hưởng mạnh mẽ và thức tỉnh phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, trong
đó có Việt Nam và Đông Dương.
Tình hình Việt Nam các phong trào yêu nước trước khi Đảng: Là quốc gia Đông
Nam Á nằm ở vị trí địa chính trị quan trọng của châu Á, Việt Nam trở thành đối tượng nằm
trong mưu đồ xâm lược của thực dân Pháp trong cuộc chạy đua với nhiều đế quốc khác. Sau
một quá trình điều tra thám sát lâu dài, thâm nhập kiên trì của các giáo thương nhân
Pháp, ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng và từ đó từng
bước thôn tính Việt Nam. Đó là thời điểm chế độ phong kiến Việt Nam (dưới triều đại phong
kiến nhà Nguyễn) đã lâm vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Trước hành động xâm ợc
lOMoARcPSD|36625228
3
của Pháp, Triều đình nhà Nguyễn từng bước thỏa hiệp (Hiệp ước 1862, 1874, 1883) và đến
ngày 6-6-1884 với Hiệp ước Patơnốt (Patenotre) đã đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp, Việt
Nam trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo ới gót
sắt của kẻ thù hung ác”
2
.
Tuy triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng thực dân Pháp, nhưng nhân dân Việt Nam vẫn
không chịu khuất phục, thực dân Pháp dùng vũ lực để bình định, đàn áp sự nổi dậy của nhân
dân. Đồng thời với việc dùng lực đàn áp đẫm máu đối với các phong trào yêu nước của
nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa, bên
cạnh đó vẫn duy trì chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai. Pháp thực hiện chính sách
“chia để trị” nhằm phá vỡ khối đoàn kết cộng đồng quốc gia dân tộc: chia ba k(Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ) với các chế đchính trị khác nhau nằm trong Liên bang Đông Dương
thuộc Pháp (Union Indochinoise)
3
được thành lập ngày 17-10-1887 theo sắc lệnh của Tổng
thống Pháp.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã có sự biến đổi rất quan trọng cả về chính
trị, kinh tế, hội. Chính sách cai trị khai thác bóc lột của thực dân Pháp đã làm phân hóa
những giai cấp vốn của chế độ phong kiến (địa chủ, nông dân) đồng thời tạo nên những
giai cấp, tầng lớp mới (công nhân, sản dân tộc, tiểu tư sản) với thái độ chính trị khác nhau.
Những mâu thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất hiện. Trong đó, mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến phản động trở thành mâu thuẫn chủ yếu
nhất và ngày càng gay gắt.
2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện để thành lập Đảng
Trước yêu cầu cấp thiết giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, với nhiệt huyết cứu
nước, với nhãn quan chính trị sắc bén, vượt lên trên hạn chế của các bậc yêu nước đương
thời, năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân
tộc. Qua trải nghiệm thực tế qua nhiều nước, Người đã nhận thức được rằng một cách rạch
ròi: “dù màu da khác nhau, trên đời y chỉ hai giống người: giống người bóc lột
giống người bị bóc lột”, từ đó xác định kẻ thù lực lượng đồng minh của nhân dân các
dân tộc bị áp bức.
Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ tới nhận
thức của Nguyễn Tất Thành - đây là cuộc “cách mạng đến nơi”. Người từ nước Anh trở lại
nước Pháp tham gia các hoạt động chính trị hướng về tìm hiểu con đường Cách mạng
Tháng Mười Nga, về V.I.Lênin.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ
nhất lúc đó Pháp. Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến tranh
2
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, trang 401.
3
Bao gồm: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên, Ai Lao.
lOMoARcPSD|36625228
4
thế giới thứ nhất họp Versailles (Pháp), Tổng thống MWoodrow Wilson tuyên bố bảo
đảm về quyền dân tộc tquyết cho các nước thuộc địa. Nguyễn Tất Thành lấy n Nguyễn
Ái Quốc thay mặt Hội những người An Nam yêu nước Pháp gửi tới Hội nghị bản Yêu sách
của nhân dân An Nam (gồm tám điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam) ngày 18-6-
1919. Nhóm người Việt Nam tiêu biểu cho tinh thần yêu nước Pháp, gồm: Phan Chu Trinh,
Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Ái Quốc. Những yêu
sách đó không được Hội nghị đáp ứng, những sự kiện này đã tạo nên tiếng vang lớn trong
dư luận quốc tế và Nguyễn Ái Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực dân.
Tháng 7-1920, Người đọc bản thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L'Humanité (Nhân đạo), số ra ny 16
17-7-1920. Những luận điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những
vấn đề bản chdẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.
luận của V.I.Lênin lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng
các dân tộc thuộc địa là sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập
Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng hội Pháp (12-1920) tại thành ph
Tua (Tour). Tại Đại hội y, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế
Cộng sản do V.I.Lênin thành lập).
Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán thành Quốc tế
Cộng sản đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản-tức là Đảng Cộng sản
Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng
Cộng sản Pháp người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến
quyết định trong tưởng lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Trong những năm
1919-1921 Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp Albert Sarraut (An be xa ) nhiều lần gặp Nguyễn
Ái Quốc mua chuộc đe dọa. Ngày 30-6-1923, Nguyễn Ái Quốc tới Liên làm việc
tại Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva, tham gia nhiều hoạt động, đặc biệt là dự đọc tham luận
tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (17-6 - 8-7-1924), làm việc trực tiếp Ban Phương Đông
của Quốc tế Cộng sản.
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục khảo
sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạng sản, đồng thời tích cực
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam.
Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng
Về tưởng: Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các ớc
thuộc địa khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập
tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Người viết nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống
công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế,...
lOMoARcPSD|36625228
5
Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập, Nguyễn
Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương. Vừa nghiên cứu
luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, dưới
nhiều phương thức phong phú, Nguyễn Ái Quốc tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc
lột, dịch của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa kêu gọi, thức
tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân,
xác định chủ nghĩa thực dân kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời, Người tiến hành tuyên truyền tư tưởng
về con đường cách mạng sản, con đường cách mạng theo luận Mác-Lênin, y dựng
mối quan hệ gắn giữa những người cộng sản nhân dân lao động Pháp với các nước
thuộc địa và phụ thuộc.
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm
cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”
3
. Đảng mà không có ch
nghĩa cũng giống như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Phải truyền bá
tư tưởng vô sản, lý luận Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam.
Về chính trị. Xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế giới và đặc điểm của phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, kế thừa và phát triển quan điểm của V.I.Lênin về cách
mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đưa ra những luận điểm quan trọng về cách
mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân tộc bị
áp bức giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ thể
sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Đường lối chính trị của Đảng cách mạng phải hướng tới
giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào, hướng tới y dựng nhà nước
mang lại quyền và lợi ích cho nhân dân.
Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ
phận của cách mạng sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng n tộc các nước thuộc
địa với cách mng sản ở “chính quốc” mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau,
nhưng cách mạng giải phóng dân tộc nước thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng
sản ở “chính quốc” mà có thể thành công trước cách mạng vô sản ở “chính quốc”, góp phần
tích cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”.
Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: trong nước nông nghiệp lạc hậu,
nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, vì vậy
phải thu phục lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên minh công nông làm động
lực cách mạng: “công nông là gốc của cách mệnh; còn học trò nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ...
3
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, trang 289.
lOMoARcPSD|36625228
6
bầu bạn cách mệnh của công nông”
4
. Do vậy, Người c định rằng, cách mạng “là việc
chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người”
5
.
Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc
bị áp bức vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng vững cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
Phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên phát
động từ ngày 29-9-1928 đã góp phần truyền tưởng sản, rèn luyện cán bộ y
dựng phát triển tổ chức của công nhân.
Về tổ chức. Sau khi lựa chọn con đường cứu nước-con đường cách mạng vô sản-cho dân
tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ
chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”
6
. vậy, sau một thời gian
hoạt động Liên để m hiểu, khảo sát thực tế về cách mạng sản, tháng 11-1924,
Người đến Quảng Châu (Trung Quốc)-nơi có đông người Việt Nam yêu nước hoạt động-để
xúc tiến các công việc tổ chức thành lập đảng cộng sản. Tháng 2-1925, Người lựa chọn một
số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tại
Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt Cộng sản đoàn. Hội đã công bố chương trình, điều
lệ của Hội, mục đích: để làm cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ
sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc thực hiện chủ nghĩa cộng
sản). Hệ thống tổ chức của Hội gồm 5 cấp: trung ương bộ, kbộ, tỉnh bộ hay thành bộ, huyện
bộ và chi bộ. Tổng bộ là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ đại hội. Trụ sở đặt tại Quảng
Châu.
Hội đã xuất bản tờ báo Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập trực tiếp chỉ đạo),
tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin phương hướng
phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam. Báo in bằng tiếng Việt ra hằng
tuần, mỗi số in khoảng 100 bản. Ngày 21-6-1925 ra số đầu tiên, đến tháng 4-1927, báo do
Nguyễn Ái Quốc phụ trách ra được 88 số. Sau khi Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu (4-
1927) đi Liên Xô, những đồng chí khác trong Tổng bộ vẫn tiếp tục việc xuất bản hoạt
động cho đến tháng 2-1930 với 202 số (từ số 89 trở đi, trụ sở o chuyển về Thượng Hải).
Một số lượng lớn báo Thanh niên được bí mật đưa về nước tới các trung tâm phong trào
yêu nước của người Việt Nam ở nước ngoài. Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời của báo chí
cách mạng Việt Nam.
4
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, trang 288.
5
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, trang 283.
6
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 1, trang 209.
lOMoARcPSD|36625228
7
Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp
phụ trách, phái người về nước vận động, lựa chọn đưa một số thanh niên tích cực sang
Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Từ giữa m 1925 đến tháng 4-1927,
Hội đã tổ chức được trên 10 lớp huấn luyện tại nhà số 13 và 13 B đường Văn Minh, Quảng
Châu (nay nhà số 248 250). Sau khi được đào tạo, các hội viên được cử về nước y
dựng phát triển phong trào cách mạng theo khuynh hướng sản. Trong số học viên được
đào tạo ở Quảng Châu, có nhiều đồng chí được cử đi học trường Đại học Cộng sản phương
Đông (Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố (Trung Quốc).
Sau sự biến chính trị ở Quảng Châu (4 - 1927), Nguyễn Ái Quốc trở lại Mátxcơva và
sau đó được Quốc tế Cộng sản cử đi công tác ở nhiều nước Châu Âu. Năm 1928, Người trở
về Châu Á và hoạt động ở Xiêm (tức Thái Lan).
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những người
Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông
xuất bản thành cuốn Đường Cách mệnh. Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng
Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt ở vị trí hàng đầu đối với
cuộc vận động cách mạng đối với đảng cách mạng tiên phong. Đường Cách mệnh xác
định con đường, mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh của cách mạng. Tác phẩm
thể hiện tư tưởng nổi bật của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào đặc điểm của Việt Nam. Những điều kiện về tưởng, lý luận, chính
trị và tổ chức để thành lập Đảng đã được thể hiện rõ trong tác phẩm.
trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã bắt đầu phát
triển sở trong nước, đến đầu năm 1927 các kbộ được thành lập. Hội còn chú trọng
xây dựng sở trong Việt kiều Xiêm (Thái Lan). Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
chưa phải là chính đảng cộng sản, nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan điểm, lập
trường của giai cấp công nhân, tổ chức tiền thân dẫn tới ra đời các tổ chức cộng sản Việt
Nam. Hội tổ chức trực tiếp truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam cũng sự
chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp công nhân
Việt Nam. Những hoạt động của Hội ảnh hưởng thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến
của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928-1929 theo xu
hướng cách mạng vô sản. Đó là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
II. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1. Các tổ chức cộng sản ra đời
Với sự nỗ lực cố gắng truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân
phong trào yêu nước Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc những hoạt động tích cực của các
cấp bộ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên trên cả nước đã có tác dụng thúc
đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao ý thức
lOMoARcPSD|36625228
8
giác ngộ lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Những cuộc đấu tranh của th
thuyền khắp ba kỳ với nhịp độ, quy mô ngày càng lớn, nội dung chính trị ngày càng sâu sắc.
Số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân trong năm 1928-1929 tăng gấp 2,5 lần so với 2
năm 1926-1927
Đến m 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam, tổ
chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên không còn thích hợp đủ sức lãnh đạo phong
trào. Trước tình hình đó, tháng 3-1929, những người lãnh đạo Kbộ Bắc K(Trần Văn
Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu...) họp tại số nhà 5D, phố m
Long, Nội, quyết định lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên Việt Nam. Ngày 17-6-1929, đại
biểu của các tổ chức cộng sản Bắc Kỳ họp tại số nhà 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội), quyết
định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ đỏ búa
liềm là Đảng kỳ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận.
Trước ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng, những thanh niên yêu nước ở Nam
Kỳ theo xu hướng cộng sản, lần lượt tổ chức nững chi bộ cộng sản. Tháng 11-1929, trên cơ
sở các chi bộ cộng sản Nam Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập tại Khánh Hội,
Sài Gòn, công bố Điều lệ, quyết định xuất bản Tạp chí Bônsơvích.
Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng đảng (là một tổ chức thanh niên yêu ớc cả
Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai…) chịu c động mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách mạng
thanh niên-đã đi theo khuynh hướng cách mạng sản. Tháng 9-1929, những người tiên tiến
trong Tân Việt Cách mạng đảng họp bàn việc thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn
và ra Tuyên đạt, khẳng định: “…những người giác ngộ cộng sản chân chính trong Tân Việt
Cách mệnh Đảng trịnh trọng tuyên ngôn cùng toàn thể đảng viên Tân Việt Cách mệnh Đảng,
toàn thể thợ thuyền dân cày lao khổ biết rằng chúng tôi đã chánh thức lập ra Đông Dương
Cộng sản Liên đoànMuốn làm tròn nhiệm vụ thì trước mắt của Đông Dương Cộng sản
liên đoàn một mặt phải y dựng sở chi bộ của Liên đoàn tức thực hành cải tổ Tân
Việt Cách mạng Đảng thành đoàn thể cách mạng chân chính…”
7
. Đến cuối tháng 121929,
tại Đại hội các đại biểu liên tỉnh tại nhà đồng chí Nguyễn Xuân Thanh-y viên Ban Chấp
hành liên tỉnh (ga Chợ Thượng, huyện Đức Thọ, tỉnh Tĩnh), nhất trí quyết định “Bỏ tên
gọi Tân Việt. Đặt tên mới là Đông Dương Cộng sản liên đoàn”. Khi đang Đại hội, sợ bị lộ,
các đại biểu di chuyển đến địa điểm mới thì bị địch bắt vào sáng ngày 1-1-1930. “Có thể coi
những ngày cuối tháng 12-1929 là thời điểm hoàn tất quá trình thành lập Đông Dương Cộng
sản liên đoàn được khởi đầu từ sự kiện công bố Tuyên đạt tháng 9-1929”
9
.
Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nửa cuối năm 1929 đã
khẳng định bước phát triển về chất của phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng
7
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 1, trang 404.
9
Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 1, trang 319.
lOMoARcPSD|36625228
9
cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên,
sự ra đời ba tổ chức cộng sản ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi
Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính,
không tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức trên cả nước.
Sự chuyển biến mạnh mẽ các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân ngày càng
lên cao, nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lượng toàn
dân tộc đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ngày càng trở nên bức
thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên
của Quốc tế Cộng sản, ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc đến Hồng Kông (Trung Quốc)
triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng An Nam Cộng sản Đảng đến họp tại
Cửu Long (Hồng Kông) tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính
đảng duy nhất của Việt Nam.
Thời gian Hội nghị từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930. (Sau này Đảng quyết nghị lấy ngày
3 tháng 2 dương lịch làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng)
8
. Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng
sản, ngày 18-2-1930, Nguyễn Ái Quốc viết: “Chúng tôi họp o ngày mồng 6-1. Với ch
phái viên của Quốc tế Cộng sản đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến
phong trào cách mạng Đông ơng, tôi nói cho họ biết những sai lầm họ phải m gì.
Họ đồng ý thống nhất vào một đảng. Chúng tôi cùng nhau xác định cương lĩnh chiến lược
theo đường lối của Quốc tế Cộng sản... Các đại biểu trở về An Nam ngày 8-2”
9
.
Thành phần dự Hội nghị: gồm 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình
Cửu Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (Châu Văn Liêm
Nguyễn Thiệu), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - đại biểu của Quốc tế Cộng
sản.
Chương trình nghị sự của Hội nghị:
1. Đại biểu của Quốc tế Cộng sản nói lý do cuộc hội nghị;
2. Thảo luận ý kiến của đại biểu Quốc tế Cộng sản về: a) Việc hợp nhất tất cả các
nhóm cộng sản thành một tổ chức chung, tổ chức y sẽ là một Đảng Cộng sản chân chính;
b) Kế hoạch thành lập tổ chức đó.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu ra năm điểm lớn cần thảo luận và thống nhất:
8
Sau y, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) quyết nghị: “... tnay sẽ lấy ngày 3 tháng 2
dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng”.
9
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 19-20.
12
Đảng Cộng sản Việt Nam: n kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 2.
lOMoARcPSD|36625228
10
“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản
Đông Dương;
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược;
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời...”
12
.
Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thông qua các văn
kiện quan trọng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách
lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Hội nghị xác định rõ n chỉ mục đích của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra
để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa,
làm cho thực hiện xã hội cộng sản”. Quy định điều kiện vào Đảng: là những người “tin theo
chủ nghĩa cộng sản, chương trình đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hy
sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận đảng”
10
.
Hội nghị chủ trương các đại biểu về nước phải tổ chức một Trung ương lâm thời để lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Hệ thống tổ chức Đảng từ chi bộ, huyên bộ, thị bộ hay khu bộ,
tỉnh bộ, thành bộ hay đặc biệt bộ và Trung ương.
Ngoài ra, Hội nghị còn quyết định chủ trương xây dựng các tổ chức công hội, nông hội,
cứu tế, tổ chức phản đế và xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền của Đảng.
Đến ngày 24-2-1930, việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy
nhất được hoàn thành với Quyết nghị của Lâm thời chấp y Đảng Cộng sản Việt Nam, chấp
nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghthành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc có giá trị như một Đại hội Đảng. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc ra Lời kêu gọi nhân
dịp thành lập Đảng. Mđầu Lời kêu gọi, Người viết: “Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản
giải quyết vấn đề cách mạng nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”.
III. Nội dung cương lĩnh chính trị
Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng, có hai văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt của Đảng Sách lược vắn
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 7-8.
lOMoARcPSD|36625228
11
tắt của Đảng
11
đã phản ánh về đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến
lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hai văn kiện trên là Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
15
.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến ợc của cách mạng Việt Nam:
Từ việc phân tích thực trạng mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam-một xã hội thuộc địa nửa
phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân, nông dân với đế quốc
ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam “chủ trương làm sản dân quyền cách mạng thổ địa cách mạng để đi tới
hội cộng sản”. Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng đã làm nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng
sản.
Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Cương nh
đã xác định: Chống đế quốc chống phong kiến nhiệm vụ bản để giành độc lập cho
dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc được
đặt ở vị trí hàng đầu.
Về phương diện hội, Cương lĩnh xác định rõ: “a) Dân chúng được tự do tổ chức. b)
Nam nữ bình quyền, v.v… c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá”. Về phương diện
kinh tế, ơng lĩnh c định: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn (như
công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính
phủ công nông binh quản lý; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa m của công chia
cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân y nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp;
thi hành luật ngày m tám giờ… Những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam về phương diện
hội phương diện kinh tế nêu trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh tế, hội, cần được
giải quyết ở Việt Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, toàn diện, triệt để là xóa bỏ tận gốc ách
thống trị, bóc lột hà khắc của ngoại bang, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, đặc biệt là giải phóng cho hai giai cấp công nhân và nông dân.
Xác định lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân-đây là lực lượng cơ
bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp,
các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc tay sai. Do vậy, Đảng “phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”, “phải thu phục cho được đại bộ phận dân
cày,… hết sức liên lạc với tiểu sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi vào phe sản
giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ bản An Nam chưa mặt
11
Đảng Cộng sản Việt Nam: n kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 2-5.
15
Theo
Thông báo Kết luận của BChính trị số 31-TB/TW, ngày 1-6-2011, về một số vấn đề trong bản thảo Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam tập I (1930-1954).
lOMoARcPSD|36625228
12
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”. Đây sở của
tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, y dựng khối đại đoàn kết rộng rãi các giai
cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước các tổ chức yêu nước,cách mạng, trên sở đánh
giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.
Xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng định
phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng , trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng
không được thỏa hiệp “không khi nào nhượng một chút lợi ích của công nông mà đi vào
đường thoả hiệp”. sách lược đấu tranh ch mạng thích hợp để lôi kéo tiểu sản, trí
thức, trung nông về phía giai cấp sản, nhưng kiên quyết: “bộ phận nào đã ra mặt phản
cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”.
Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế, Cương nh chỉ trong khi thực hiện nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp
sản thế giới, nhất giai cấp sản Pháp. Cương lĩnh nêu cách mạng Việt Nam liên
lạc mật thiết một bộ phận của cách mạng sản thế giới: “trong khi tuyên truyền cái
khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp
bức dân tộc sản giai cấp thế giới”. Như vậy, ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai cấp công nhân.
Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được n
chúng”
12
. “Đảng đội tiên phong của đạo quân sản gồm một số lớn của giai cấp công
nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”
13
.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ
bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo
trong việc đánh giá đặc điểm, nh chất hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong
những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ những mâu thuẫn bản chủ yếu của dân tộc Việt
Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng xã hội đối với
nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định đường lối chiến lược và sách
của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng
và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra.
Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử cách mạng Việt Nam cần phải thống nhất các tổ chức
cộng sản trong nước, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy tín chính trị
phương thức hợp nhất phù hợp, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời triệu tập và chủ trì hợp nhất các
tổ chức cộng sản. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp nhất “vắn tắt”,
12
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 4.
13
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 6.
18
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, trang 406.
lOMoARcPSD|36625228
13
nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa
cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới.
IV. Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu
nước, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử đại: cách mạng Việt Nam
trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng sản thế giới. Đó kết quả của sự vận
động phát triển và thống nhất của phong trào cách mạng trong cả nước, sự chuẩn bị tích cực,
sáng tạo, bản lĩnh của lãnh tụ Nguyn Ái Quốc, sự đoàn kết, nhất trí của những chiến sĩ cách
mạng tiên phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa MácLênin,
tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân phong trào yêu nước Việt Nam. Đó cũng
là kết quả của sự phát triển cao thống nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân phong trào yêu nước đã
dẫn tới việc thành lập Đảng, Việc thành lập Đảng một bước ngoặt cùng quan trọng
trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. chứng tỏ rằng giai cấp sản ta đã trưởng thành
và đủ sức lãnh đạo cách mạng”
18
.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương
lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu
cầu bản cấp bách của hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng
chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Đường lối đó là kết
quả của sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách
đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định
sự lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam-con đường cách mạng vô sản. Con
đường duy nhất đúng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp giải phóng con người. Sự
lựa chọn con đường cách mạng vô sản phù hợp với nội dung và xu thế của thời đại mới được
mở ra từ Cách mạng Tháng ời Nga đại: “Đối với nước ta, không còn con đường nào
khác để độc lập dân tộc thật sự tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng
đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ m 1930 với sự ra đời của
Đảng ta”
14
.
14
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 51, trang 13-14.
lOMoARcPSD|36625228
14
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển của dân tộc
Việt Nam, trở thành nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác.
CHƯƠNG 2: TẦM NHÌN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI TIẾN TRÌNH CÁCH
MẠNG VIỆT NAM
I. Những thay đổi mới ở Việt Nam và thế giới trong những năm đầu thế kỷ XX
Từ những năm đầu tiên của thế kỷ XX, đất nước ta dưới sự cai trị của thực dân Pháp đã
những chuyển biến không ngừng về mặt kinh tế, hội. Bên cạnh đó, với sự phát triển
của hệ thống báo chí mà thực dân Pháp gây dựng đã giúp cho nhân dân thuộc địa tiếp nhận
được các vấn đề của thế giới. Những xuớng đấu tranh, hệ tư tưởng mới đang ngày càng
phát triển tạo sức ảnh hưởng không nhỏ đến với tầng lớp quần chúng nhân dân chịu ách đô
hộ, tạo nên những làn sóng đấu tranh mới. Khiến cho thực dân cai trị phải đưa ra nhiều
phương án để đối phó hòng dập tắt tinh thần đấu tranh đang sôi sục ấy.
Trải qua hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp (lần I từ năm 1897 - 1914 và
lần II 1917-1927) hội Việt Nam những thay đổi đáng kể về mọi mặt. Nhắc đến điểm
sáng của cả hai công cuộc khai thác y, ắt hẳn phải nói đến việc thay đổi nền kinh tế từ
canh tác lúa nước lạc hậu bước đầu tiến sang sản xuất công nghiệp. Thế nhưng, thực dân
Pháp chẳng dại lại cho đầu tư các ngành công nghiệp nặng quan trọng trên đất thuộc địa,
chúng chủ yếu đầu vào khai thác sản xuất sản phẩm tại chỗ, tận dụng nguồn tài
nguyên và thị trường dồi dào đang sẵn có trên đất Việt Nam làm nguồn lợi hun đúc sự phát
triển của chính quốc, bù đắp lại những khoản chi phí tốnm chúng đã mất trong công
cuộc bình định đất nước ta và chiến phí trong cuộc chiến tranh thế giới lần I. Tình hình xã
hội Việt Nam chịu tác động rệt từ sự đầu phát triển kinh tế này, nhất khi trải qua cuộc
khai thác lần hai, công nghiệp hóa thuộc địa diễn ra mạnh hơn với quy mô lớn hơn, các giai
cấp mới trong xã hội từ đó mà được định hình rõ rệt hơn.
Giai cấp công nhân xuất thân từ nông dân bị mất hết tài sản, buộc phải bán mình cho tư
bản để làm công cụ sống trong dây chuyền sản xuất của chúng. Giai cấp tiểu tư sản với xuất
thân những nhà buôn bán nhỏ, chủ các cửa hàng, thương hiệu nhỏ lẻ hoặc các tri thức.
Giai cấp sản hai bộ mặt: sản mại bản tức người Pháp sống tại Việt Nam, các nhà
hoạt động chính trị Pháp, những người làm việc trong môi trường của Pháp, hưởng lương và
quyền lợi của chính quyền cai trị; tư sản dân tộc là bộ phận người Việt có tiền có địa vị trong
chế độ cai trị, phần nào giữ được tinh thần yêu nước không cam chịu ách độ hộ kìm kẹp của
chính quyền thực dân, bộ phận y tuy yêu nước nhưng lại dễ dàng thỏa hiệp nếu đ
quyền lợi.
Hai giai cấp còn lại trong hội đã xuất hiện từ rất lâu nông dân địa chủ phong
kiến. Trong số các giai cấp trên, công nhân và nông dân sẽ là hai giai cấp có thể mang lại sự
lOMoARcPSD|36625228
15
thay đổi lớn trong tương lai, đặc biệt là giai cấp công nhân. Trong giai đoạn đầu của thế k,
nhiều nhà yêu nước, các tri thức, sĩ phu có cơ hội được tiếp nhận nhiều hơn những tư tưởng
mới tiến bộ của nước ngoài để mang về Việt Nam mới ước nguyện thay đổi y dựng
một Việt Nam mới, giai đoạn y đất nước ta diễn ra sôi sục các cuộc cải cách những
phong trào tiến bộ của các nhà yêu nước từ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái
Học hay Lương Văn Can, đó sự nỗ lực đáng ghi nhận trong ng cuộc khai mở dân trí
trong lịch sử nước ta. Chính những cố gắng trên đã tạo tiền đề tốt cho việc sau y người
chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc thực hiện việc tuyên truyền chủ nghĩa cứu nước mới cho
dân tộc, mở ra thời đại đấu tranh không ngừng quyền được ởng độc lập tự do của
người dân Việt Nam
Bên cạnh những chuyển biến trong nước, thế giới lúc y cũng những thay đổi không
kém khi đầu thế XX, tưởng sản xuất hiện nhà nước hội chủ nghĩa đầu tiên
ra đời lại Nga vào năm 1917. Đây là dấu mốc cực kỳ trọng đại đối với lịch sử của thế giới,
lần đầu tiên một nhà nước quyền lợi tự chủ được trao về tay nhân dân lao động, các
giai cấp nhỏ trong hội tiếng nói cao cả, tạo cơ hội để hội phát triển công bằng,
xóa bỏ bất công của nhà nước quân chủ chuyên chế nền sản xuất bản chủ nghĩa. S
kiện thành công của Cách mạng tháng mười Nga đã y rúng động đối với các nước đế quốc,
buộc chúng phải ra đối sách xóa sổ nền chính trị non nớt này. Liên quân 14 nước đế quốc ra
kế hoạch tấn công Liên bang Xô viết nhưng đã thất bại, và thế là nhà nước chủ nghĩa xã hội
ấy phát triển tồn tại lâu dài đến tận cuối thế kỷ XX. Liên bang viết ra đời cổ tinh
thần cho các dân tộc bị bóc lột cai trị trên thế giới, tạo niềm tin cho nhân dân thuộc địa
đứng lên giải phóng chính mình.
các nước bản thế giới lúc này xuất hiện các Đảng Cộng sản hoạt động mạnh mẽ
ngay tại chính quốc, các cuộc mít tinh biểu tình diễn ra, các khẩu hiệu đình công, đòi quyền
lợi về công việc và tiền lương của công nhân diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, để lại nhiều bài
học trong công cuộc giải phóng mình của các dân tộc thuộc địa. Đây là cơ hội lớn cho nhân
dân các nước thuộc địa bản, Việt Nam chính một trong snhững nước thừa hưởng được
giá trị quý báu đó. Người chiến cộng sản Nguyễn Ái Quốc với ơng Lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng cộng sản Việt Nam đã mang tạo ra con đường giải phóng dân tộc mới cho
riêng người dân Việt Nam, khuynh hướng sản phát triển điều tất yếu phải xảy ra,
người dân Việt Nam sẽ có cơ hội trở mình khỏi ách đô hộ trong tương lai mới.
II. Tầm nhìn vượt thời đại của Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
1. Cái nhìn đúng đắn và tiến bộ của Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng cộng sản Việt Nam.
Với tư cách một đặc phái viên của Quốc tế cộng sản tại Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc
đầy đủ uy tín để đưa ra quyết định về các vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng
Đông Dương. Người thông qua chỉ thị của Quốc tế cộng sản, đưa ra được những sai phạm
lOMoARcPSD| 36625228
16
khi hoạt động riêng lẻ của các tổ chức Đảng phái có mặt tại Việt Nam lúc bấy giờ. Một quốc
gia thống nhất không thể để tình trạng các Đảng phái chính trị có cùng hệ tư tưởng đấu tranh
giành quyền ảnh hưởng với nhau như thế, đấy không phải là phương hướng hoạt động đích
thực của chủ nghĩa cộng sản mà là của chủ nghĩa tư bản, điều này gây mất đi tinh thần đoàn
kết dân tộc lại dễ bị kẻ thù chia rẽ khi được hưởng quyền lợi nhất định về quyền lực. Theo
chỉ thị của Quốc tế cộng sản về việc thống nhất hoạt động cách mạng Đông Dương, Nguyễn
Ái Quốc đã những quyết định khác khi người cho thành lập Đảng cộng sản Việt Nam,
hoạt động dẫn dắt phong trào cách mạng tại Việt Nam thay vì Đảng cộng sản Đông Dương,
thực hiện dẫn dắt phong trào cách mạng cho toàn Đông Dương. Đây là điểm nhìn khác biệt
của Nguyễn Ái Quốc đối với tình hình lúc bấy giờ của Việt Nam nói riêng và của khối liên
hiệp thuộc địa Pháp nói chúng, tuy nhiên vsau, Quốc tế cộng sản không thừa nhận tên Đảng
“Việt Nam” cùng các “chính cương” và “điều lệ” nên đã đưa chỉ thị cho đồng chí Trần Phú
thực hiện “cải tổ”, sửa đổi tên Đảng thành Đảng cộng sản Đông Dương và đề ra Luận cương
mới. thể dễ hiểu ý định của Quốc tế cộng sản sao không thừa nhận, bởi lúc y khối
liên bang Đông Dương chung một gông m xiềng cổ thế nên cần phải liên kết lại để y
dựng khối liên minh công ng chung cho cả ba nước Lào, Việt Nam Campuchia. Thế
nhưng thời điểm năm 1930, chỉ Việt Nam là có nền móng của chnghĩa sản từ sớm,
thế nên trước tiên để nh vác trọng trách cứu nguy cho cả Đông Dương thì phải tự đứng lên
xây dựng tổ chức cho mình một hệ thống vững mạnh. Đây chính là bài học lớn cho cuộc đấu
tranh về sau của Việt Nam, Lào Campuchia khi thực dân Pháp quay lại vào cuối năm
1945, ba nước tiến hành tách ra thực việc kế hoạch dẫn dắt riêng, khi đã ổn định sẽ tạo được
cơ sở để phát triển chung. Trong thảo luận tại Hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã
lời giải thích: Cái tĐông Dương rất rộng theo nguyên của chủ nghĩa Mác - Lênin,
vấn đề dân tộc vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể bắt buộc các dân tộc khác gia
nhập Đảng, làm như thế trái với nguyên của chủ nghĩa nin. Còn cái từ An Nam thì
hẹp, mà nước ta có ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Do đó, từ Việt Nam hợp với cả ba
miền và cũng không trái với nguyên của chủ nghĩa Lênin về vấn đề dân tộc”. Thực tế đã
cho thấy việc làm này là hoàn toàn phù hợp, chỉ vài tháng sau khi Đảng cộng sản Việt Nam
ra đời, sự dẫn dắt tiên phong y đã đem đến thắng lợi bước đầu trong phong trào đấu tranh
1930-1931 với đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh. Khối liên minh công nông được hình thành
vững chắc hơn, sự lãnh đạo của Đảng được nhân dân tin tưởng, nâng cao uy tín Đảng trong
lòng quần chúng nhân dân.
Đánh giá về nội dung của Cương lĩnh chính trị bao gồm Chánh cương vắn tắt Sách
lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc biên soạn thì đây là văn kiện quan trọng có sức ảnh hưởng
to lớn trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong vòng 15 năm. Các văn kiện ấy đã
làm được hầu hết c vấn đề đang n dang dở dẫn đến cách mạng Việt Nam chưa thể
thành hình bùng phát. Các quyết định quan trọng trong đường lối chiến lược, lực lượng
lOMoARcPSD| 36625228
17
tham gia, đối ợng kẻ thù đều được vạch ra ràng trở thành bài học lâu dài cho quá
trình chuẩn bị đến ngày tổng tiến công giải phóng.
Trong phương hướng chiến lược, Nguyễn Ái Quốc xác định rõ các mâu thuẫn đang tồn
tại trong hội Việt Nam để từ đó đưa ra con đường tiên quyết cho cách mạng Việt Nam.
Quá trình phân hóa hội sâu sắc đã đưa đến nhiều mâu thuẫn, nhưng chủ yếu các vấn
đề như sau: Địa chủ bóc lột nông dân chiếm đoạt ruộng đất, sản bóc lột công nhân cắt
giảm tiền lương, đày làm khổ sai hai vấn đề trên dẫn đến mâu thuẫn về giai cấp trong xã hội
giữa kẻ bóc lột người bị bóc lột; Thực dân Pháp m lược gây ra những điều tàn ác, tức
đi quyền lợi dân tộc của người dân Việt Nam, đây là mâu thuẫn lớn nhất tronghội, u
thuẫn dân tộc, cần phải giải quyết triệt để. Trong hai mâu thuẫn trên không thể xem nhẹ cái
nào, cũng không thể đặt nặng vấn đề nào cao nhất mà phải xem hai vấn đề là nguồn cơn độc
lập để thực hiện cách mạng. Từ đó Nguyễn Ái Quốc đề ra phương hướng chiến lược
“thực hiện cuộc cách mạng sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới hội cộng sản”.
Đây là nhiệm vụ lâu dài của toàn Đảng, toàn dân. Bên cạnh đó dựa trên tình hình xã hội
xoay chuyển định hướng phù hợp với tình hình trước mắt của cuộc cách mạng. Nhiệm vụ
trước mắt của cách mạng Việt Nam được xác định là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp
bọn phong kiến để làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”. Cương lĩnh xác định: Chống đế
quốc (xóa bỏ mâu thuẫn dân tộc) và chống phong kiến (xóa bỏ mâu thuẫn giai cấp) nhiệm
vụ cơ bản để giành lại độc lập dân tộc và ruộng cày cho dân, trong đó chống đế quốc giành
độc lập dân tộc phải đề lên hàng đầu.
Nguyễn Ái Quốc ánh nhìn cực kỳ khách quan đối với tất cả các giai tầng trong
hội, nhận xét rất rõ nhiệm vụ cách mạng của từng thành phần giai cấp từ đó đề ra lực lượng
chủ yếu cho cách mạng Việt Nam. Thứ nhất là thành lập khối liên minh công nông, y dựng
tình đoàn kết dân tộc cho toàn thể người dân Việt Nam. Xét về phẩm chất, nông dân công
nhân đều có những phẩm chất tốt đẹp được lưu giữ qua hàng trăm năm nay, mang tinh thần
yêu ớc sẵn của ông cha ta từ ngàn đời trước. Xét trên cương vị tiềm năng, giai cấp nông
dân quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, kiến thức được nhờ o kinh
nghiệm u đời, tinh thần yêu nước nhưng dễ thỏa mãn bởi những điều kiện được trao
tặng, giai cấp y tuy đông nhưng lại không đủ ý thức chính trị để đứng lên m lực ợng
dẫn đầu chỉ có thể trở thành bộ phận tham gia đông đảo mà thôi. Ngược lại giai cấp công
nhân như đã nói, quan hệ gần như “máu mủ ruột rà” với nông dân, thừa hưởng tất cả
phẩm chất mà người nông dân ngàn đời có được, nhưng với kiến thức hiện đại được học khi
làm việc nhà máy, xưởng chế tác của tư sản, học tập tưởng tiến bộ từ bên ngoài đã khiến
cho ý thức chính trị của giai cấp công nhân trnên sâu sắc, đủ khả năng vươn lên tr
thành lực lượng nòng cốt lãnh đạo cách mạng dưới sự dẫn dắt tiên phong của Đảng cộng sản
Việt Nam. Các giai cấp còn lại trong xã hội được chia ra làm nhiều thành phần để thỏa hiệp,
sản và tiểu sản yêu nước có khả năng tham gia cách mạng cao, nhưng với tính chất “cải
lOMoARcPSD|36625228
18
lương” thì khó mà đưa cuộc cách mạng sớm đến ngày kết thúc. Các trung, tiểu địa chủ nếu
thể thỏa hiệp thì cố gắng m cho họ ớng ánh nhìn yêu nước vphía cách mạng, trở
thành hậu thuẫn cho ch mạng phát triển, n không thì giữ mức độ trung lập, nếu ý
định khác nh hưởng quyền lợi n tộc thì quy về kẻ thù tiêu diệt, “bộ phận nào ý
định phản cách mạng tphải đánh đổ”. Các đại địa chủ bọn sản Pháp tầm ngắm
chính của cách mạng, phải diệt tận gốc.
Phương pháp thực hiện cách mạng phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần
chúng nhân dân,trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được phép thỏa hiệp. Quá khứ
đã cho thấy rõ việc nhân nhượng và thỏa hiệp với thực dân chỉ có một kết cục là kéo dài thời
gian để chúng đủ khả năng lật ngược lại nh thế lấn tới thực hiện m cướp nước
một cách mạnh mẽ hơn. Không một giờ phút nào cách mạng Việt Nam phải đề ra cách thức
thỏa hiệp làm ảnh hưởng đến quyền lợi của công nông, một chút cũng không. Bởi với tính
cách của thực dân, khi đã dễ dàng thỏa hiệp thì với quyền lực quân sự, chính trị và kinh tế,
chúng sẽ đưa ra cách thức để m chết cách mạng nhanh chóng gọn gàng, ncách
chúng đã dùng để chiếm lấy toàn bộ Nam Kỳ và đặt ách bảo hộ lên toàn cõi Bắc, Trung K
mà không tốn quá nhiều sinh mạng và súng đạn ngày trước.
Theo nguyên của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản ra đời sản phẩm của sự
kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Vận dụng sáng tạo quy luật
này ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nghèo nàn lạc hậu như Việt Nam, Hồ Chí
Minh khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân phong trào
yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây chính là sáng tạo nổi bật
nhất của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng và đề ra các chủ trương
cho cách mạng Việt Nam. Người trung thành với nguyên của chủ nghĩa Mác - Lênin về
quy luật ra đời của Đảng, đồng thời bổ sung và sáng tạo dựa trên quy luật y với những điều
kiện cụ thể của Việt Nam, cụ thể phong trào yêu ớc của toàn thể dân tộc. Nguyễn Ái
Quốc phân tích rất ktính chất hội, cấu giai cấp của hội Việt Nam để chỉ ra quy
luật này.
2. Giá trị to lớn của Cương lĩnh 2/1930 và Lý luận giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái
Quốc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam từ 1930 - 1945.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời cùng với Cương lĩnh chính trđúng đắn, nắm quyền
lãnh đạo duy nhất đã “ngay lập tức lãnh đạo cuộc đấu tranh kịch liệt chống lại thực dân
Pháp”. Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Cương lĩnh rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha
của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách
mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc
bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân
- không ngừng củng cố và tăng cường”.
lOMoARcPSD| 36625228
19
Dưới ánh sáng soi đường của Cương lĩnh, Đảng ta đã dẫn dắt toàn n tộc vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi các mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội
đang trên đường xây dựng ớc Việt Nam giàu, mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Dựa trên những nguyên sáng tạo đúng đắn của Cương lĩnh, Đảng và quần chúng nhân dân
được ý thức tưởng chính trị đúng đắn để từ đó m sở để đánh giá tình hình
hội đang diễn ra hằng ngày hằng giờ, những biến động có khả năng làm ảnh hưởng đến cách
mạng, thời điều kiện nảy sinh thúc đẩy mâu thuẫn hội lên cao trào để dẫn đến
cách mạng hội để bùng nổ. Nhận thức được thời cơ chín muồi để tiến đến giải phóng
dân tộc, đây là bài học rút ra được từ khi Đảng vừa ra đời đã lãnh đạo thành công phong trào
giải phóng dân tộc 1930-1931 với cao trào viết Nghệ - Tĩnh. Sau đó tuy phong trào bị
thực dân dập tắt, các đoàn thể cách mạng địa phương giải tán nhưng những gì nó để lại cũng
cùng to lớn. cuộc diễn tập đầu tiên của Đảng quần chúng nhân dân cho công
cuộc đấu tranh lâu dài sau này với thực dân và tay sai.
Trải qua các chặng đường lịch sử đấu tranh, với các giai đoạn cách mạng thực hiện
nhiệm vụ cụ thể trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện ơng lĩnh, Đảng lúc cũng phạm sai
lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách
quan; do nhận thức của Đảng trên một số lĩnh vực còn hạn chế; không ít vấn đề luận và
thực tiễn còn chưa đủ sáng tỏ, những điều quan trọng Đảng ta đã nhận ra, thẳng thắn tự
phê bình và nghiêm túc sửa chữa, khắc phục có kết quả. qua mỗi vấp váp, sai lầm Đảng
thêm trưởng thành. Luận cương tháng 10 của đồng chí Trần Phú chính là một điển hình cho
nhận thức chưa đủ tỏ ờng về nguyên khách quan về thực tiễn hội Việt Nam so với
các đảng phái khác trên thế giới trong lòng sâu của Quốc tế cộng sản. Luận cương xác
định mâu thuẫn giai cấp diễn ra sâu sắc ở Việt Nam, Lào và Cao Miên, đề ra phương hướng
chiến lược “cách mạng tư sản dân quyền”, có “tánh chất của thổ địa và phản đế”, hoàn toàn
bỏ quên mâu thuẫn sâu sắc nhất mâu thuẫn dân tộc của Việt Nam thuộc địa. Lực lượng
chính là giai cấp sản công nông binh, bỏ qua việc đánh giá khách quan các mặt tích cực
khác của các giai cấp còn lại. Các vấn đề về giải quyết mâu thuẫn giai cấp đã đẩy hoạt động
Đảng đi lùi trong vài năm.
Trong những năm 1929-1933, bước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, chủ nghĩa
phát xít mầm mống xuất hiện khi một bộ phận giai cấpsản ở Đức, Italia,... chủ
trương dùng bạo lực đàn áp để chiếm đoạt thị trường, đe dọa đến an ninh hòa bình thế giới.
Tháng 7/1935, Quốc tế cộng sản mở Đại hội VII tại Matxcova (Liên Xô) xác định kẻ thù cho
nhân dân thế giới lúc này là chủ nghĩa phát xít, kêu gọi lực lượng lao động thế giới phản đối
ngăn chặn nguy cơ chiến tranh thế giới mới. Ngày 26/7/1936, BCH TW Đảng họp hội nghị
tại Thượng Hải (Trung Quốc), do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì nhằm thực hiện việc “sửa
chữa những sai lầm” trước đó, đề ra “chính sách mới” dựa theo nghị quyết của Đại hội VII
Quốc tế Cộng sản. Đâybước nhạy bén của Đảng đối với thời cuộc được kế thừa từ nguyên
lOMoARcPSD| 36625228
20
ký chân chính của Cương lĩnh, dựa vào khối liên minh công nông vững chắc thành lập nên
“Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương” (sau đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương).
Nhận thấy Mặt trận nhân dân Pháp đã thắng thế chính quốc, hội nghị đưa ra chủ trương
chuyển từ hoạt động bí mật không hợp pháp sang chủ trương công khai, nữa công khai, hợp
pháp, nửa hợp pháp kết hợp với đó là bí mật và bất hợp pháp.
Văn kiện Chung quanh vấn đề về chính sách mới (10/1936) của Đảng đã nêu quan
điểm nhận thức hết sức ràng về quan điểm đấu tranh điền địa đấu tranh dân tộc trong
giai đoạn này. Thừa nhận sai phạm và hạn chế lớn của Luận cương lúc trước. Dựa trên thời
đang sẵn về việc chính quyền Pháp nới lỏng các vấn đthuộc địa mà tranh thủ đứng
lên đòi các quyền tự do, cơm áo và hòa bình cho dân tộc, bên cạnh đó khẳng định rằng cách
mạng giải phóng dân tộc không nhất thiết phải phụ thuộc vào cách mạng ruộng đất dâny
ngược lại cũng thế. Nếu như cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề ruộng đất lên cao ảnh
hưởng đến đấu tranh giải phóng dân tộc thì phải nhìn nhận đâu điểm thiết yếu nhất. Phải
chọn được đâu là kẻ thù nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng mà đánh cho toàn thắng. Rõ
ràng với cuộc đấu tranh dân chủ m 1936, Đảng và quần chúng nhân dân tranh thủ những
cơ hội có sẵn để mở ra các phong trào đòi hỏi được hưởng quyền lợi đích đáng về cho nhân
dân, đồng thời là bước diễn tập lần hai của Đảng trong công cuộc lãnh đạo phong trào cách
mạng, còn lại vẫn tập trung cao độ cho vấn đề dân tộc cấp bách của đất nước ta. Những nhận
thức chuẩn mực trên đã trở nên chuẩn mc và phù hợp với nguyên lý khách quan mà Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.
Trãi qua một lần sai phạm cùng với bước sửa đổi phù hợp, Đảng đã có được những kinh
nghiệm xương máu để tiếp tục dẫn dắt cách mạng Việt Nam tiến lên trong thời kỳ thế giới
có nhiều thay đổi mới. Năm 1939, chủ nghĩa phát xít bành trướng ra khắp các châu lục, đến
tháng 9 ng năm, cuộc chiến tranh thế giới thứ II chính thức bùng nổ. Tháng 6/1940, Đức
tấn công và chiếm đóng được Pháp, một năm sáu Đức tấn công Liên Xô. Tại Đông Dương,
Toàn quyền ra quyết định thắt chặt kiểm soát tránh tình trạng bạo động thuộc địa, ra quyết
định đặt cộng sản ra ngoài vòng Pháp luật, giải tán đoàn hội, đóng cửa các tòa soạn báo in,
tạp chí, nhà xuất bản, cấm tụ tập đám đông. Tháng 9/1940 Nhật tiến vào Đông Dương, Pháp
nhanh chóng đầu hàng câu kết với Nhật, nhân dân Đông Dương lúc y “một cổ hai
tròng”, chịu đủ mọi áp bức và bóc lột.
Ngay khi cuộc chiến tranh thế giới bùng nổ, Đảng đã kịp thời rút vào hoạt động bí mật,
chuyển hướng trọng tâm về nông thôn làng xã, đồng thời giữ lực lượng đô thị để theo dõi
thông tin cuộc chiến. Ngày 29/9/1939 Trung ương Đảng ra chỉ thị quan trọng: Hoàn cảnh
Đông Dương sẽ tiến đến bước vào vấn đề giải phóng dân tộc”.
Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc về đến Cao Bằng, kết thúc chuyến hành trình 30 m
bôn ba nước ngoài, trực tiếp chủ trì Hội nghị BCH TW Đảng. Tại hội nghị, vấn đề cấp bách
nhất lúc này là phải giải phóng được toàn thể nhân dân Việt Nam, thực hiện cuộc cách mạng
lOMoARcPSD|36625228
21
giải phóng dân tộc. Hội nghị thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng mình, khẩu hiệu
chính Đoàn kết toàn dân, chống Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập hoãn cách mạng
ruộng đất lại. “Quyền lợi của tất cả các dân tộc bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong
không lúc nào bằng”
15
. Cuộc cách mạng Đông ơng lúc này không n là tư sản dân quyền
với hai vấn đề điền địa phản đế nữa phải hoàn thành công cuộc “giải phóng dân
tộc” trong tình thế cấp bách, đây là vấn đề tồn vong của quốc gia. Đảng nhận định rất rõ ràng
nhiệm vụ của mình trong giờ phúty, nếu không giải quyết được vấn đề độc lập tự do cho
toàn dân tộc thì không chỉ dân tộc ta mãi còn chịu kiếp ngựa trâu vấn đề quyền lợi của
các giai cấp vạn năm cũng không đòi lại được. Điều quan trọng bên cạnh định hướng chiến
lược, còn việc là đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trở về khuôn khổ của từng nước ở
Đông Dương, thực thi chính sách “Dân tộc tự quyết” - đây là bài học đã có từ khi Đảng CS
Việt Nam thành lập. Sau khi đánh đuổi được thực dân Pháp, các ớc Đông Dương quyền
thành lập một liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng y ý. Mỗi nước từ đây sẽ
một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, tiến đến đoàn kết khối chung Đông
Dương để chống kẻ thù chung. Trong vấn đề tập hợp lực lượng cũng đã nêu rõ, không màn
bất kể ai là hội viên theo chủ nghĩa cộng sản hay không, cốt yếu họ tinh thần cứu
quốc và tranh đấu vì độc lập dân tộc. Sau khi giành được độc lập sẽ lập nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, không phải nhà nướcviết hay công nông liên hiệp,là chính phủ
dân chủ cộng hòa. Hội nghị xác định rõ việc chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang
là nhiệm vụ của toàn Đảng toàn dân, phải luôn trong tư thế sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận
tiện mà bại kẻ thù. Trong những hoàn cảnh nhất định, dựa vào lực lượng sẵn có mà tổ chức
khởi nghĩa từng phần, trong từng địa phương, tiến đến một cuộc tổng khởi nghĩa giành thắng
lợi hoàn toàn trên cả nước.
Với những quyết định trên của hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 8, ta đã thấy được tầm
ảnh hưởng to lớn mang tính thời đại vô cùng đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng luận giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị đã khắc phục triệt để
những sai sót từ Luận cương chính trị tháng 10/1930, trở thành ngọn cờ dẫn đường cho toàn
thể nhân dân trong công cuộc chuẩn bị lực lượng, tiến lên giải phóng đánh đuổi Nhật - Pháp,
giành độc lập tự do.
III. Bài học chiến lược cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam.
Thực hiện chủ trương đúng đắn của Cương lĩnh năm 1930 trong suốt thời kỳ đấu tranh
chống lại kẻ thù xâm lược, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi
đại: Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân
tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược trở lại của
thực dân Pháp, giải phóng miền Bắc chuyển sang giai đoạn cách mạng hội chủ nghĩa;
15
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 7, trang 68.
lOMoARcPSD| 36625228
22
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả
nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Từ thực tiễn trên, Đảng ta rút ra được những bài học vô cùng quý giá cho công cuộc y
dựng chủ nghĩa hội trong tương lai. Trong cương lĩnh của Đảng năm 1991 đã đcập
đến năm bài học xác đáng nhất trong quá trình lãnh đạo quần chúng nhân dân của Đảng từ
khi sơ khai cho đến lúc vững mạnh. Năm bài học đó bao gồm:
Một, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ba, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân,
đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Bốn, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức
mạnh quốc tế.
Năm, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Suốt hai mươi năm kể từ sau Cương lĩnh 1991 ra đời, năm bài học lớnymột trong
những chủ đề trung tâm trong học tập, nghiên cứu giảng dạy chính trị cho các cán bộ
đảng viên, đoàn viên thanh niên trẻ. Đó là bài học lớn,báu vật trong hành trang lãnh đạo
của Đảng. Chính vì thế, mỗi một cán bộ nhà ớc phải luôn có sự hiểu biết nhất định để vận
dụng chúng o việc hoạch định đường lối, chủ trương chính sách, đồng thời thông qua
thực tiễn mà kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển.
Nhìn một cách tổng quát, m bài học lớn đã nêu lên được đúng tính chất, nội dung,
phương hướng phương thức phát triển của cách mạng Việt Nam đồng thời cũng làm
tính chất, nội dung, phương hướng phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm thắng lợi
của cách mạng trong suốt hơn mấy mươi năm thực hiện công tác lãnh đạo. Cách mạng Việt
Nam đã trải qua nhiều thời kỳ với những nhiệm vụ và tên gọi khác nhau như cách mạng giải
phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng hội chủ nghĩa. Nhưng
bản chất mục tiêu nhất quán của cuộc cách mạng ấy độc lập n tộc chủ nghĩa
hội.
Về sự lãnh đạo của Đảng, trong thời kđấu tranh giành chính quyền, Đảng ta giương
cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Trong kháng chiến chống Pháp, ngọn cờ của chúng ta là dân
tộc dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội. Trong kháng chiến chống Mỹ, với hai chiến
lược cách mạng khác nhau - chiến lược cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc chiến
lược cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam, Đảng ta đồng thời giương cao hai ngọn cờ:
ngọn cờ độc lập dân tộc ngọn cờ chủ nghĩa hội. Từ sau ngày đất nước thống nhất, cả
nước đi lên chủ nghĩa hội cùng chiến lược chung với hai nhiệm vy dựng chủ
lOMoARcPSD| 36625228
23
nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa thì ngọn cờ chiến đấu duy nhất của Đảng
nhân dân ta là ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chính vì vậy, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là bài học lớn đầu
tiên được nêu lên trong Cương lĩnh. Bài học này cho thấy: Độc lập dân tộc là điều kiện tiên
quyết để thực hiện chủ nghĩa hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc
lập dân tộc. Không nắm vững mà để lung lay ngọn cờ này sẽ là lầm lạc chết người về chính
trị.
Thứ hai, cách mạng Việt Nam sự nghiệp của nhân dân, do nhân n nhân dân.
Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Đối với cuộc cách mạng ấy, nhân
dân vừa chthể vừa là đối tượng phục vụ. Chính vì vậy, toàn bộ hoạt động của Đảng phải
xuất phát từ lợi ích nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng sự
gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn
thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Thứ ba, cách mạng Việt Nam cuộc cách mạng đại của nhân n ta trong thời đại
mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Trong toàn bộ
quá trình của cuộc cách mạng y, nhất trong thời y dựng đất ớc quá độ lên chủ
nghĩa xã hội hiện nay, lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc
là thống nhất. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước không phải đấu tranh giai cấp mà là
đại đoàn kết toàn dân tộc trên sở liên minh giữa công nhân với nông dân trí thức. Chính
vậy, Đảng ta đặc biệt trân trọng bài học ''không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn
kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đại đoàn kết sức
mạnh, bài học từng được chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: ''Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết - Thành công, thành công, đại thành công.''
Đảng ta cũng trân trọng bài học: Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. khẳng định: Trong bất cứ hoàn cảnh nào
cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao
độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm bài học lớn phản ánh duy của Đảng ta về cách mạng Việt Nam về sự lãnh
đạo của Đảng đối với cách mạng. m bài học lớn ấy tạo thành một giá trị tổng thể, ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay. Những
thành tựu vĩ đại mà cách mạng nước ta giành được trong hơn 80 năm qua chứng minh rằng
sự lãnh đạo của Đảng đúng đắn. Nhưng n cạnh đó, Đảng lúc cũng phạm sai lầm,
khuyết điểm, những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí,
vi phạm quy luật khách quan. Điều đáng ghi nhận Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa
chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
lOMoARcPSD| 36625228
24
Để bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, bài học thứ 5 nhấn mạnh những nội dung
sau: Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng
phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin tưởng
Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức
năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi
đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.
Phải phòng chống những nguy lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu sự thoái
hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Đại hội X (2006) lấy việc ''nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng'' làm
thành tố quan trọng đầu tiên trong chủ đề của Đại hội. Theo đó, nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng nâng cao năng lực hoạch định đường lối chính sách; năng lực tổ chức chỉ đạo
thực hiện; năng lực tổng kết lý luận - thực tiễn, tạo thống nhất nhận thức và hành động trong
Đảng; năng lực lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận các đoàn thể quần chúng, tăng cường mối
quan hệ gắn mật thiết với nhân dân. Đó còn năng lực kiểm tra giám sát các hoạt động
của các tổ chức Đảng. Nâng cao sức chiến đấu của Đảng là làm cho từng cán bộ, đảng viên,
từng tổ chức cấp uỷ đảng, nói chung là toàn Đảng, phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, không nể
nang, tránh “dĩ hoà vi quý”; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham
nhũng, suy thoái ngay trong bản thân mỗi đảng viên, trong tổ chức đảng, quan nơi
mình sinh hoạt, công tác, trong Đảng, trong hội; dũng cảm đấu tranh chống các
tưởng, quan điểm và hành động sai trái, thù địch…
Đại hội XI (2011) một lần nữa xác định ''Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng” nhiệm vụ bao trùm nội dung chủ
yếu nhất về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay. Kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết
Đại hội X, Đại hội XI khẳng định: ''Công tác y dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường,
đạt một số kết quả tích cực”. Nhưng Đại hội cũng chỉ rõ: ''Công tác xây dựng Đảng còn nhiều
hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục''. Đó những hạn chế, yếu kém trong công tác
chính trị, tưởng, tổ chức cán bộ, trong phương thức lãnh đạo trong công tác kiểm tra,
giám sát. Đáng lưu ý ''tình trạng suy thoái về chính trị, tưởng, đạo đức, lối sống trong
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
những tiêu cực tệ nạn hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức
tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu m trong quản lý, điều hành của nhiều cấp,
nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định,
phát triển của đất nước''. Cũng cần lưu ý rằng ''năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không
ít tổ chức đảng còn thấp, công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nề
nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu, v.v.
lOMoARcPSD|36625228
25
Năm bài học lớn trong Cương lĩnh được rút ra từ thực tiễn lãnh đạo ch mạng của Đảng
trong các thời k đã qua nhưng đến lượt nó, lại phục vụ đắc lực cho các hoạt động lãnh đạo
của Đảng trong thời khiện nay và sắp tới. Sức sống các bài học không chỉ chỗ được
đúc kết một cách đúng đắn mà còn chỗ được vận dụng một cách sáng tạo trong tinh thần
đổi mới và phát triển.
C. KẾT LUẬN
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng văn kiện mang tính thời đại sâu sắc, để lại
nhiều bài học đáng giá cho công cuộc đấu tranh lâu dài của Đảng nhân dân, đồng thời là
kim chỉ nam cho công cuộc xây dựng đổi mới đất ớc. Tuy thời cuộc thay đổi dẫn
đến một số vấn đề trong Cương lĩnh y không còn phù hợp, nhưng với nguyên khách quan
những tưởng tiến bộ Đảng ta tiếp thu được trong quá trình rèn luyện lãnh đạo, đã
phần nào giúp cho những thiếu hụt ấy được cải thiện, đưa ra những giải pháp mới, làm cho
đất nước phát triển theo định hướng đúng đắn, phù hợp với tính chất của thời đại.
Lý luận giải phóng dân tộc và tầm nhìn vươn xa của Nguyễn Ái Quốc trong những ngày
đầu thành lập nên Đảng cộng sản Việt Nam thực sự những yếu tố quan trọng góp phần
vào thành công vẻ vang của dân tộc ta trong quá trình đấu tranh với kẻ thù xâm lược. Những
tư tưởng y đã được các cán bộ ưu tú của đất nước thấm nhuần và thể hiện bằng hành động
rệt. Đất nước ta ngày một đổi mới hòa nhập, rất cần các thế hệ về sau thể tiếp thu
học hỏi được tưởng tiến bộ, tầm nhìn vươn xa của người đi trước, để đưa ra được những
hướng đi đúng đắn cho toàn bộ dân tộc ta.
Bước ra khỏi thời kđấu tranh chống lại thế lực thù địch, Đảng ta đã những nhận
định mới về thời đại ngày nay. Những giá trị của Cương lĩnh 1930 vẫn được Đảng Nhà
nước tiếp tục phát huy trong giai đoạn mới, tuy nhiên có những điều không còn phù hợp với
tình hình mới cuối thế kỷ XX và đầu thế kXXI, cần phải đề ra các phương án thay đổi mới
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện của đất nước, chính vì thế Cương lĩnh y dựng
đất nước trong thời k quá độ lên chủ nghĩa hội năm 1991 được ra đời. Dựa trên những
nguyên khách quan của Cương lĩnh chính trị đầu tiên năm 1930, cùng với tưởng tiến
bộ trong luận cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, Đảng ta đề ra phương hướng mới cho thời
kỳ quá độ lên hội chủ nghĩa, đồng thời tiến vào giai đoạn hội nhập với nền kinh tế thị
trường của thế giới, tạo điều kiện cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra trên cả
nước.
Bài học thực tiễn từ ơng lĩnh năm 1991, trải qua hơn 20 năm nghiên cứu và vận dụng,
Đảng ta tiếp tục thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội (bổ sung, phát triển 2011). Trên nền tảng Cương lĩnh năm 1991, Đảng khẳng định đặc
trưng hàng đầu y dựng một hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đảng ta đã cho thấy điểm mới trong nhận thức và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu
tư sản bước tiến bộ so với chế độ phong kiến, đảm bảo cho chế độ tư bản phát triển, thì xã
lOMoARcPSD| 36625228
26
hội chủ nghĩa nền tảng của xã hội, là điều kiện giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp
bức, bất công để tạo dựng một xã hội tiến bộ và tốt đẹp hơn.
Thế giới hiện nay đang đối mặt với nhiều những biến động có ảnh hưởng đến nền chính
trị của các quốc gia, vì thế mà Đảng và Nhà nước hiện nay phải luôn đề cao vấn đề giữ vững
tưởng cách mạng cao đẹp tiến bcho các cán bộ, thực hiện công tác lãnh đạo liêm
chính, đúng với giá trị đạo đức của Cương lĩnh m 1930 để lại. Đồng thời, vận dụng m
bài học quý u trong lịch sử lãnh đạo của Đảng, thực hiện đúng trách nhiệm của đội ngũ
tiên phong trong công cuộc y dựng bảo vệ đất nước hiện nay. Bộ máy nhà nước vững
mạnh sẽ là chỗ dựa vững chắc để nhân dân hăng hái sản xuất, phát triển đóng góp cho công
cuộc đưa đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa.
lOMoARcPSD|36625228
TÀI LIỆU THAM KHẢO
SÁCH TIẾNG VIỆT
1. Bộ Giáo dục Đào tạo, (2021). Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (2021). Biên niên sự kiện Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Tập 1 (1930 9/1945). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Khá (Chủ biên), ThS. Nguyễn Huỳnh Bích Phương, (2021).
tưởng Hồ Chí Minh: Một số chuyên đề luận và thực tiễn (Sách chuyên khảo). Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, (2020). Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong
tình hình mới. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hội đồng luận Trung ương, (2020). 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
BÁO TIẾNG VIỆT
1. Nguyễn Văn Minh, Nguyn Văn Duyên (2021). Kỳ 5: Những năm tháng làm nên “dĩ
bất biến”. Báo Quân đội nhân dân điện tử, truy cập ngày 20/12/2022.
2. Sơn Tùng (2010). Nguyễn Ái Quốc với quốc tế cộng sản. Tạp chí Sông Hương, truy
cập ngày 20/12/2022.
3. Nguyễn Đình Hoà (2015). Về các đặc trưng của chủ nghĩa hội qua Cương lĩnh
1991 Cương lĩnh 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, truy cập ngày 21/12/2022.
4. Nguyễn Thị Ly (2022). Nguyễn Ái Quốc bàn về vai trò Quốc tế cộng sản với cách
mạng An Nam trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”. Tạp chí Tuyên giáo, truy cập ngày
22/12/2022.
5. Tạ Thị Hồng (2020). Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trang thông tin điện tử Trường chính trị Hoàng Văn Thụ tỉnh Lạng
Sơn, truy cập ngày 22/12/2022.
6. Thông tấn Việt Nam (2020). Các cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập ngày 23/12/2022.
7. (2011). Tầm nhìn những quyết định sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước
bước ngoặt của cách mạng. Báo Điện tử Chính phủ, truy cập ngày 23/12/2022.
| 1/28

Preview text:

lOMoARcPSD| 36625228 MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 1
I. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................... 1
II. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................................. 1
III. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN
(2/1930) ....................................................................................................................................... 2
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ..................................................................................... 2
I. Tình hình Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản thành lập ...................................................... 2
1. Bối cảnh ra đời .................................................................................................................. 2
2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện để thành lập Đảng ............................................. 3
II. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ............... 7
1. Các tổ chức cộng sản ra đời .............................................................................................. 7
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ................................................................... 9
III. Nội dung cương lĩnh chính trị ........................................................................................... 10
IV. Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên ........................................................................ 13
CHƯƠNG 2: TẦM NHÌN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI TIẾN TRÌNH CÁCH
MẠNG VIỆT NAM .................................................................................................................. 14
I. Những thay đổi mới ở Việt Nam và thế giới trong những năm đầu thế kỷ XX .................. 14
II. Tầm nhìn vượt thời đại của Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên ........... 15
1. Cái nhìn đúng đắn và tiến bộ của Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng cộng sản Việt Nam .............................................................................................. 15
2. Giá trị to lớn của Cương lĩnh 2/1930 và Lý luận giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam từ 1930 - 1945 ................................... 18
III. Bài học chiến lược cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam ................... 21
C. KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 25 TƯ LIỆU THAM KHẢO lOMoARcPSD| 36625228 1 A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận sáng tạo của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh trở thành tấm gương sáng trong việc kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tinh hoa của nhân loại, tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin trên tinh
thần độc lập, tự chủ và sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh thực tế nước ta1. Hơn 90 năm kể từ
khi Đảng thành lập và Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930) được thông qua, đất nước ta đã
vận dụng một cách thành công trên từng bước đường phát triển của đất nước. 90 năm là một
hành trình dài của một đất nước có nhiều biến thiên lịch sử, nhưng cũng đủ chứng minh tầm
nhìn của Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam khi thông qua bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (2/1930) là văn kiện có giá
trị lịch sử và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với lịch sử Đảng ta. Lịch sử Đảng gắn liền
với lịch sử dân tộc và các phong trào cách mạng, chỉ huy bởi một Đảng cầm quyền. Vì lẽ đó,
Cương lĩnh chính trị đầu tiên mang trên mình giá trị lịch sử to lớn bởi thể hiện được tư tưởng
giải phóng dân tộc, cứu nước của đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi ấy. Ý chí độc lập dân tộc
và khát vọng tự do cho nhân dân là điểm xuất phát của Nguyễn Ái Quốc, Cương lĩnh chính
trị đầu tiên là nền tảng tạo nên những giá trị bền vững cho dân tộc Việt Nam, có ảnh hưởng
đến lịch sử thế giới.
Với đề tài “Phân tích tầm nhìn của Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam qua
Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930) của Đảng”, nhóm nghiên cứu nhận định được ý nghĩa
của cương lĩnh, từ đó phân tích tầm nhìn của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình hình thành
Cương lĩnh chính trị đầu tiên.
II. Mục tiêu nghiên cứu
Tầm nhìn của Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam qua Cương lĩnh chính trị
đầu tiên. Từ đó khẳng định tầm nhìn sáng suốt và hệ thống lý luận chính trị rõ ràng của
Nguyễn Ái Quốc trước bước ngoặt vĩ đại của dân tộc, giá trị cương lĩnh với tiến trình lịch
sử cách mạng Việt Nam nói chung và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.
III. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930) của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ bối
cảnh lịch sử, khẳng định ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh cùng tầm nhìn vượt thời đại của
Nguyễn Ái Quốc trước thế vận của dân tộc. Cương lĩnh chính trị đầu tiên trở thành kim chỉ
1 Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 1, trang 8. lOMoARcPSD| 36625228 2
nam cho hoạt động cách mạng, nền tảng cho mọi quyết định trong đại của quốc gia, dân tộc trong Đảng.
B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN (2/1930)
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. Tình hình Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản thành lập
1. Bối cảnh ra đời
Tình hình thế giới: Từ nửa sau thế kỷ XIX, các nước tư bản Âu - Mỹ có những chuyển
biến mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa), đẩy
mạnh quá trình xâm chiếm và nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi và khu vực
MỹLatinh, biến các quốc gia này thành thuộc địa của các nước đế quốc. Trước bối cảnh đó,
nhân dân các dân tộc bị áp bức đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân, đế
quốc, tạo thành phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp, nhất là ở châu Á. Phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á đầu thế kỷ XX phát triển rộng khắp, tác động
mạnh mẽ đến phong trào yêu nước Việt Nam. Trong bối cảnh đó, thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười Nga không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản đối với các nước tư bản, mà còn có tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc
ở các thuộc địa. Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản, do V.I.Lênin đứng đầu, được thành lập,
trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế giới.
Cùng với việc nghiên cứu và hoàn thiện chiến lược và sách lược về vấn đề dân tộc và thuộc
địa, Quốc tế Cộng sản đã tiến hành hoạt động truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản và thúc
đẩy phong trào đấu tranh ở khu vực này đi theo khuynh hướng vô sản. Đại hội II của Quốc
tế Cộng sản (1920) đã thông qua luận cương về dân tộc và thuộc địa do V.I.Lênin khởi
xướng. Cách mạng Tháng Mười và những hoạt động cách mạng của Quốc tế Cộng sản đã
ảnh hưởng mạnh mẽ và thức tỉnh phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, trong
đó có Việt Nam và Đông Dương.
Tình hình Việt Nam và các phong trào yêu nước trước khi có Đảng: Là quốc gia Đông
Nam Á nằm ở vị trí địa chính trị quan trọng của châu Á, Việt Nam trở thành đối tượng nằm
trong mưu đồ xâm lược của thực dân Pháp trong cuộc chạy đua với nhiều đế quốc khác. Sau
một quá trình điều tra thám sát lâu dài, thâm nhập kiên trì của các giáo sĩ và thương nhân
Pháp, ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng và từ đó từng
bước thôn tính Việt Nam. Đó là thời điểm chế độ phong kiến Việt Nam (dưới triều đại phong
kiến nhà Nguyễn) đã lâm vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Trước hành động xâm lược lOMoARcPSD| 36625228 3
của Pháp, Triều đình nhà Nguyễn từng bước thỏa hiệp (Hiệp ước 1862, 1874, 1883) và đến
ngày 6-6-1884 với Hiệp ước Patơnốt (Patenotre) đã đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp, Việt
Nam trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót
sắt của kẻ thù hung ác”2.
Tuy triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng thực dân Pháp, nhưng nhân dân Việt Nam vẫn
không chịu khuất phục, thực dân Pháp dùng vũ lực để bình định, đàn áp sự nổi dậy của nhân
dân. Đồng thời với việc dùng vũ lực đàn áp đẫm máu đối với các phong trào yêu nước của
nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa, bên
cạnh đó vẫn duy trì chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai. Pháp thực hiện chính sách
“chia để trị” nhằm phá vỡ khối đoàn kết cộng đồng quốc gia dân tộc: chia ba kỳ (Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ) với các chế độ chính trị khác nhau nằm trong Liên bang Đông Dương
thuộc Pháp
(Union Indochinoise)3 được thành lập ngày 17-10-1887 theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã có sự biến đổi rất quan trọng cả về chính
trị, kinh tế, xã hội. Chính sách cai trị và khai thác bóc lột của thực dân Pháp đã làm phân hóa
những giai cấp vốn là của chế độ phong kiến (địa chủ, nông dân) đồng thời tạo nên những
giai cấp, tầng lớp mới (công nhân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản) với thái độ chính trị khác nhau.
Những mâu thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất hiện. Trong đó, mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến phản động trở thành mâu thuẫn chủ yếu
nhất và ngày càng gay gắt.
2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện để thành lập Đảng
Trước yêu cầu cấp thiết giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, với nhiệt huyết cứu
nước, với nhãn quan chính trị sắc bén, vượt lên trên hạn chế của các bậc yêu nước đương
thời, năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân
tộc. Qua trải nghiệm thực tế qua nhiều nước, Người đã nhận thức được rằng một cách rạch
ròi: “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và
giống người bị bóc lột
”, từ đó xác định rõ kẻ thù và lực lượng đồng minh của nhân dân các
dân tộc bị áp bức.
Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ tới nhận
thức của Nguyễn Tất Thành - đây là cuộc “cách mạng đến nơi”. Người từ nước Anh trở lại
nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị hướng về tìm hiểu con đường Cách mạng
Tháng Mười Nga, về V.I.Lênin.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ
nhất lúc đó ở Pháp. Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến tranh
2 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, trang 401. 3
Bao gồm: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên, Ai Lao. lOMoARcPSD| 36625228 4
thế giới thứ nhất họp ở Versailles (Pháp), Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson tuyên bố bảo
đảm về quyền dân tộc tự quyết cho các nước thuộc địa. Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn
Ái Quốc thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị bản Yêu sách
của nhân dân An Nam (gồm tám điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam) ngày 18-6-
1919. Nhóm người Việt Nam tiêu biểu cho tinh thần yêu nước ở Pháp, gồm: Phan Chu Trinh,
Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Ái Quốc. Những yêu
sách đó dù không được Hội nghị đáp ứng, những sự kiện này đã tạo nên tiếng vang lớn trong
dư luận quốc tế và Nguyễn Ái Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực dân.
Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L'Humanité (Nhân đạo), số ra ngày 16 và
17-7-1920. Những luận điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những
vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý
luận của V.I.Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng
các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập
Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12-1920) tại thành phố
Tua (Tour). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế
Cộng sản do V.I.Lênin thành lập).
Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán thành Quốc tế
Cộng sản đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản-tức là Đảng Cộng sản
Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng
Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến
quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Trong những năm
1919-1921 Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp Albert Sarraut (An be xa rô) nhiều lần gặp Nguyễn
Ái Quốc mua chuộc và đe dọa. Ngày 30-6-1923, Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô và làm việc
tại Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva, tham gia nhiều hoạt động, đặc biệt là dự và đọc tham luận
tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (17-6 - 8-7-1924), làm việc trực tiếp ở Ban Phương Đông
của Quốc tế Cộng sản.
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục khảo
sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạng vô sản, đồng thời tích cực
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam.
Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng
Về tư tưởng: Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các nước
thuộc địa khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập
tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Người viết nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống
công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế,
... lOMoARcPSD| 36625228 5
Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập, Nguyễn
Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương. Vừa nghiên cứu lý
luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, dưới
nhiều phương thức phong phú, Nguyễn Ái Quốc tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc
lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức
tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân,
xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời, Người tiến hành tuyên truyền tư tưởng
về con đường cách mạng vô sản, con đường cách mạng theo lý luận Mác-Lênin, xây dựng
mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước
thuộc địa và phụ thuộc.
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm
cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”3. Đảng mà không có chủ
nghĩa cũng giống như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Phải truyền bá
tư tưởng vô sản, lý luận Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Về chính trị. Xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế giới và đặc điểm của phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, kế thừa và phát triển quan điểm của V.I.Lênin về cách
mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đưa ra những luận điểm quan trọng về cách
mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân tộc bị
áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là
sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Đường lối chính trị của Đảng cách mạng phải hướng tới
giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào, hướng tới xây dựng nhà nước
mang lại quyền và lợi ích cho nhân dân.
Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ
phận của cách mạng vô sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa với cách mạng vô sản ở “chính quốc” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau,
nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô
sản ở “chính quốc” mà có thể thành công trước cách mạng vô sản ở “chính quốc”, góp phần
tích cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”.
Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: trong nước nông nghiệp lạc hậu,
nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, vì vậy
phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên minh công nông làm động
lực cách mạng: “công nông là gốc của cách mệnh; còn học trò nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ...
3 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, trang 289. lOMoARcPSD| 36625228 6
là bầu bạn cách mệnh của công nông”4. Do vậy, Người xác định rằng, cách mạng “là việc
chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người”5.
Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc
bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
Phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên phát
động từ ngày 29-9-1928 đã góp phần truyền bá tư tưởng vô sản, rèn luyện cán bộ và xây
dựng phát triển tổ chức của công nhân.
Về tổ chức. Sau khi lựa chọn con đường cứu nước-con đường cách mạng vô sản-cho dân
tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ
chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”6. Vì vậy, sau một thời gian
hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát thực tế về cách mạng vô sản, tháng 11-1924,
Người đến Quảng Châu (Trung Quốc)-nơi có đông người Việt Nam yêu nước hoạt động-để
xúc tiến các công việc tổ chức thành lập đảng cộng sản. Tháng 2-1925, Người lựa chọn một
số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tại
Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội đã công bố chương trình, điều
lệ của Hội, mục đích: để làm cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ
sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng
sản). Hệ thống tổ chức của Hội gồm 5 cấp: trung ương bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ hay thành bộ, huyện
bộ và chi bộ. Tổng bộ là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ đại hội. Trụ sở đặt tại Quảng Châu.
Hội đã xuất bản tờ báo Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo),
tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và phương hướng
phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam. Báo in bằng tiếng Việt và ra hằng
tuần, mỗi số in khoảng 100 bản. Ngày 21-6-1925 ra số đầu tiên, đến tháng 4-1927, báo do
Nguyễn Ái Quốc phụ trách và ra được 88 số. Sau khi Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu (4-
1927) đi Liên Xô, những đồng chí khác trong Tổng bộ vẫn tiếp tục việc xuất bản và hoạt
động cho đến tháng 2-1930 với 202 số (từ số 89 trở đi, trụ sở báo chuyển về Thượng Hải).
Một số lượng lớn báo Thanh niên được bí mật đưa về nước và tới các trung tâm phong trào
yêu nước của người Việt Nam ở nước ngoài. Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời của báo chí cách mạng Việt Nam.
4 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, trang 288.
5 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, trang 283.
6 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 1, trang 209. lOMoARcPSD| 36625228 7
Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp
phụ trách, phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích cực sang
Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Từ giữa năm 1925 đến tháng 4-1927,
Hội đã tổ chức được trên 10 lớp huấn luyện tại nhà số 13 và 13 B đường Văn Minh, Quảng
Châu (nay là nhà số 248 và 250). Sau khi được đào tạo, các hội viên được cử về nước xây
dựng và phát triển phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản. Trong số học viên được
đào tạo ở Quảng Châu, có nhiều đồng chí được cử đi học trường Đại học Cộng sản phương
Đông (Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố (Trung Quốc).
Sau sự biến chính trị ở Quảng Châu (4 - 1927), Nguyễn Ái Quốc trở lại Mátxcơva và
sau đó được Quốc tế Cộng sản cử đi công tác ở nhiều nước Châu Âu. Năm 1928, Người trở
về Châu Á và hoạt động ở Xiêm (tức Thái Lan).
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những người
Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông
xuất bản thành cuốn Đường Cách mệnh. Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng
Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt ở vị trí hàng đầu đối với
cuộc vận động cách mạng và đối với đảng cách mạng tiên phong. Đường Cách mệnh xác
định rõ con đường, mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh của cách mạng. Tác phẩm
thể hiện tư tưởng nổi bật của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào đặc điểm của Việt Nam. Những điều kiện về tư tưởng, lý luận, chính
trị và tổ chức để thành lập Đảng đã được thể hiện rõ trong tác phẩm.
Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã bắt đầu phát
triển cơ sở ở trong nước, đến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập. Hội còn chú trọng
xây dựng cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan). Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
chưa phải là chính đảng cộng sản, nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan điểm, lập
trường của giai cấp công nhân, là tổ chức tiền thân dẫn tới ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt
Nam. Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và cũng là sự
chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp công nhân ở
Việt Nam. Những hoạt động của Hội có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến
của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928-1929 theo xu
hướng cách mạng vô sản. Đó là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
II. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1. Các tổ chức cộng sản ra đời
Với sự nỗ lực cố gắng truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc và những hoạt động tích cực của các
cấp bộ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên trên cả nước đã có tác dụng thúc
đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao ý thức lOMoARcPSD| 36625228 8
giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Những cuộc đấu tranh của thợ
thuyền khắp ba kỳ với nhịp độ, quy mô ngày càng lớn, nội dung chính trị ngày càng sâu sắc.
Số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân trong năm 1928-1929 tăng gấp 2,5 lần so với 2 năm 1926-1927
Đến năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam, tổ
chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên không còn thích hợp và đủ sức lãnh đạo phong
trào. Trước tình hình đó, tháng 3-1929, những người lãnh đạo Kỳ bộ Bắc Kỳ (Trần Văn
Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu...) họp tại số nhà 5D, phố Hàm
Long, Hà Nội, quyết định lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Ngày 17-6-1929, đại
biểu của các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp tại số nhà 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội), quyết
định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ đỏ búa
liềm là Đảng kỳ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận.
Trước ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng, những thanh niên yêu nước ở Nam
Kỳ theo xu hướng cộng sản, lần lượt tổ chức nững chi bộ cộng sản. Tháng 11-1929, trên cơ
sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập tại Khánh Hội,
Sài Gòn, công bố Điều lệ, quyết định xuất bản Tạp chí Bônsơvích.
Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng đảng (là một tổ chức thanh niên yêu nước có cả
Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai…) chịu tác động mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách mạng
thanh niên-đã đi theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Tháng 9-1929, những người tiên tiến
trong Tân Việt Cách mạng đảng họp bàn việc thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn
và ra Tuyên đạt, khẳng định: “…những người giác ngộ cộng sản chân chính trong Tân Việt
Cách mệnh Đảng trịnh trọng tuyên ngôn cùng toàn thể đảng viên Tân Việt Cách mệnh Đảng,
toàn thể thợ thuyền dân cày và lao khổ biết rằng chúng tôi đã chánh thức lập ra Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn
… Muốn làm tròn nhiệm vụ thì trước mắt của Đông Dương Cộng sản
liên đoàn là một mặt phải xây dựng cơ sở chi bộ của Liên đoàn tức là thực hành cải tổ Tân
Việt Cách mạng Đảng thành đoàn thể cách mạng chân chính…”7. Đến cuối tháng 121929,
tại Đại hội các đại biểu liên tỉnh tại nhà đồng chí Nguyễn Xuân Thanh-Ủy viên Ban Chấp
hành liên tỉnh (ga Chợ Thượng, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), nhất trí quyết định “Bỏ tên
gọi Tân Việt. Đặt tên mới là Đông Dương Cộng sản liên đoàn”. Khi đang Đại hội, sợ bị lộ,
các đại biểu di chuyển đến địa điểm mới thì bị địch bắt vào sáng ngày 1-1-1930. “Có thể coi
những ngày cuối tháng 12-1929 là thời điểm hoàn tất quá trình thành lập Đông Dương Cộng
sản liên đoàn được khởi đầu từ sự kiện công bố Tuyên đạt tháng 9-1929”9.
Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nửa cuối năm 1929 đã
khẳng định bước phát triển về chất của phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng
7 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 1, trang 404. 9
Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 1, trang 319. lOMoARcPSD| 36625228 9
cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên,
sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi
Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính,
không tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức trên cả nước.
Sự chuyển biến mạnh mẽ các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân ngày càng
lên cao, nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lượng toàn
dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ngày càng trở nên bức
thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên
của Quốc tế Cộng sản, ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc đến Hồng Kông (Trung Quốc)
triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến họp tại
Cửu Long (Hồng Kông) tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính
đảng duy nhất của Việt Nam.
Thời gian Hội nghị từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930. (Sau này Đảng quyết nghị lấy ngày
3 tháng 2 dương lịch làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng)8. Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng
sản,
ngày 18-2-1930, Nguyễn Ái Quốc viết: “Chúng tôi họp vào ngày mồng 6-1. Với tư cách
là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến
phong trào cách mạng ở Đông Dương, tôi nói cho họ biết những sai lầm và họ phải làm gì.
Họ đồng ý thống nhất vào một đảng. Chúng tôi cùng nhau xác định cương lĩnh và chiến lược
theo đường lối của Quốc tế Cộng sản... Các đại biểu trở về An Nam ngày 8-2”9.
Thành phần dự Hội nghị: gồm 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình
Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (Châu Văn Liêm và
Nguyễn Thiệu), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - đại biểu của Quốc tế Cộng sản.
Chương trình nghị sự của Hội nghị: 1.
Đại biểu của Quốc tế Cộng sản nói lý do cuộc hội nghị; 2.
Thảo luận ý kiến của đại biểu Quốc tế Cộng sản về: a) Việc hợp nhất tất cả các
nhóm cộng sản thành một tổ chức chung, tổ chức này sẽ là một Đảng Cộng sản chân chính;
b) Kế hoạch thành lập tổ chức đó.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu ra năm điểm lớn cần thảo luận và thống nhất:
8 Sau này, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) quyết nghị: “... từ nay sẽ lấy ngày 3 tháng 2
dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng”.
9 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 19-20. 12
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 2. lOMoARcPSD| 36625228 10
“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương;
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược;
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời...”12.
Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thông qua các văn
kiện quan trọng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách
lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị xác định rõ tôn chỉ mục đích của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra
để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa,
làm cho thực hiện xã hội cộng sản”. Quy định điều kiện vào Đảng: là những người “tin theo
chủ nghĩa cộng sản, chương trình đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hy
sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận đảng”10.
Hội nghị chủ trương các đại biểu về nước phải tổ chức một Trung ương lâm thời để lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Hệ thống tổ chức Đảng từ chi bộ, huyên bộ, thị bộ hay khu bộ,
tỉnh bộ, thành bộ hay đặc biệt bộ và Trung ương.
Ngoài ra, Hội nghị còn quyết định chủ trương xây dựng các tổ chức công hội, nông hội,
cứu tế, tổ chức phản đế và xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền của Đảng.
Đến ngày 24-2-1930, việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy
nhất được hoàn thành với Quyết nghị của Lâm thời chấp ủy Đảng Cộng sản Việt Nam, chấp
nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc có giá trị như một Đại hội Đảng. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc ra Lời kêu gọi nhân
dịp thành lập Đảng. Mở đầu Lời kêu gọi, Người viết: “Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản
giải quyết vấn đề cách mạng nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”.
III. Nội dung cương lĩnh chính trị
Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng, có hai văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt của Đảng Sách lược vắn
10 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 7-8. lOMoARcPSD| 36625228 11
tắt của Đảng11 đã phản ánh về đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến
lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hai văn kiện trên là Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam15.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam:
Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam-một xã hội thuộc địa nửa
phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân, nông dân với đế quốc
ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản”. Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản.
Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Cương lĩnh
đã xác định: Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho
dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc được
đặt ở vị trí hàng đầu.
Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: “a) Dân chúng được tự do tổ chức. b)
Nam nữ bình quyền, v.v… c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá”. Về phương diện
kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn (như
công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính
phủ công nông binh quản lý; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia
cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp;
thi hành luật ngày làm tám giờ… Những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam về phương diện
xã hội và phương diện kinh tế nêu trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh tế, xã hội, cần được
giải quyết ở Việt Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, toàn diện, triệt để là xóa bỏ tận gốc ách
thống trị, bóc lột hà khắc của ngoại bang, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, đặc biệt là giải phóng cho hai giai cấp công nhân và nông dân.
Xác định lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân-đây là lực lượng cơ
bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp,
các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Do vậy, Đảng “phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”, “phải thu phục cho được đại bộ phận dân
cày,… hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi vào phe vô sản
giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
11 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 2-5. 15 Theo
Thông báo Kết luận của Bộ Chính trị số 31-TB/TW, ngày 1-6-2011, về một số vấn đề trong bản thảo Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam tập I (1930-1954)
. lOMoARcPSD| 36625228 12
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”. Đây là cơ sở của
tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi các giai
cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức yêu nước,cách mạng, trên cơ sở đánh
giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.
Xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng định
phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng , trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng
không được thỏa hiệp “không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào
đường thoả hiệp”. Có sách lược đấu tranh cách mạng thích hợp để lôi kéo tiểu tư sản, trí
thức, trung nông về phía giai cấp vô sản, nhưng kiên quyết: “bộ phận nào đã ra mặt phản
cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”.
Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế, Cương lĩnh chỉ rõ trong khi thực hiện nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp
vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Cương lĩnh nêu rõ cách mạng Việt Nam liên
lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới: “trong khi tuyên truyền cái
khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp
bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới”. Như vậy, ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai cấp công nhân.
Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng”12. “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công
nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”13.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ
bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo
trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong
những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt
Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng xã hội đối với
nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định đường lối chiến lược và sách
của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng
và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra.
Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử cách mạng Việt Nam cần phải thống nhất các tổ chức
cộng sản trong nước, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy tín chính trị và
phương thức hợp nhất phù hợp, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời triệu tập và chủ trì hợp nhất các
tổ chức cộng sản. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp nhất dù “vắn tắt”,
12 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 4.
13 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 6. 18
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, trang 406. lOMoARcPSD| 36625228 13
nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa
cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới.
IV. Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu
nước, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại: cách mạng Việt Nam
trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới. Đó là kết quả của sự vận
động phát triển và thống nhất của phong trào cách mạng trong cả nước, sự chuẩn bị tích cực,
sáng tạo, bản lĩnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sự đoàn kết, nhất trí của những chiến sĩ cách
mạng tiên phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa MácLênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó cũng
là kết quả của sự phát triển cao và thống nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã
dẫn tới việc thành lập Đảng
, “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng
trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành
và đủ sức lãnh đạo cách mạng”18.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương
lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu
cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng
chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Đường lối đó là kết
quả của sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách
đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định
sự lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam-con đường cách mạng vô sản. Con
đường duy nhất đúng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Sự
lựa chọn con đường cách mạng vô sản phù hợp với nội dung và xu thế của thời đại mới được
mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại: “Đối với nước ta, không còn con đường nào
khác để có độc lập dân tộc thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng
đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta”14.
14 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 51, trang 13-14. lOMoARcPSD| 36625228 14
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển của dân tộc
Việt Nam, trở thành nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác.
CHƯƠNG 2: TẦM NHÌN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG VIỆT NAM
I. Những thay đổi mới ở Việt Nam và thế giới trong những năm đầu thế kỷ XX
Từ những năm đầu tiên của thế kỷ XX, đất nước ta dưới sự cai trị của thực dân Pháp đã
có những chuyển biến không ngừng về mặt kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó, với sự phát triển
của hệ thống báo chí mà thực dân Pháp gây dựng đã giúp cho nhân dân thuộc địa tiếp nhận
được các vấn đề của thế giới. Những xu hướng đấu tranh, hệ tư tưởng mới đang ngày càng
phát triển tạo sức ảnh hưởng không nhỏ đến với tầng lớp quần chúng nhân dân chịu ách đô
hộ, tạo nên những làn sóng đấu tranh mới. Khiến cho thực dân cai trị phải đưa ra nhiều
phương án để đối phó hòng dập tắt tinh thần đấu tranh đang sôi sục ấy.
Trải qua hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp (lần I từ năm 1897 - 1914 và
lần II 1917-1927) xã hội Việt Nam có những thay đổi đáng kể về mọi mặt. Nhắc đến điểm
sáng của cả hai công cuộc khai thác này, ắt hẳn phải nói đến việc thay đổi nền kinh tế từ
canh tác lúa nước lạc hậu bước đầu tiến sang sản xuất công nghiệp. Thế nhưng, thực dân
Pháp chẳng dại gì lại cho đầu tư các ngành công nghiệp nặng quan trọng trên đất thuộc địa,
chúng chủ yếu là đầu tư vào khai thác và sản xuất sản phẩm tại chỗ, tận dụng nguồn tài
nguyên và thị trường dồi dào đang sẵn có trên đất Việt Nam làm nguồn lợi hun đúc sự phát
triển của chính quốc, bù đắp lại những khoản chi phí tốn kém mà chúng đã mất trong công
cuộc bình định đất nước ta và chiến phí trong cuộc chiến tranh thế giới lần I. Tình hình xã
hội Việt Nam chịu tác động rõ rệt từ sự đầu tư phát triển kinh tế này, nhất là khi trải qua cuộc
khai thác lần hai, công nghiệp hóa thuộc địa diễn ra mạnh hơn với quy mô lớn hơn, các giai
cấp mới trong xã hội từ đó mà được định hình rõ rệt hơn.
Giai cấp công nhân xuất thân từ nông dân bị mất hết tài sản, buộc phải bán mình cho tư
bản để làm công cụ sống trong dây chuyền sản xuất của chúng. Giai cấp tiểu tư sản với xuất
thân là những nhà buôn bán nhỏ, chủ các cửa hàng, thương hiệu nhỏ lẻ hoặc các tri thức.
Giai cấp tư sản có hai bộ mặt: tư sản mại bản tức người Pháp sống tại Việt Nam, các nhà
hoạt động chính trị Pháp, những người làm việc trong môi trường của Pháp, hưởng lương và
quyền lợi của chính quyền cai trị; tư sản dân tộc là bộ phận người Việt có tiền có địa vị trong
chế độ cai trị, phần nào giữ được tinh thần yêu nước không cam chịu ách độ hộ kìm kẹp của
chính quyền thực dân, bộ phận này tuy yêu nước nhưng lại dễ dàng thỏa hiệp nếu có đủ quyền lợi.
Hai giai cấp còn lại trong xã hội đã xuất hiện từ rất lâu là nông dân và địa chủ phong
kiến. Trong số các giai cấp trên, công nhân và nông dân sẽ là hai giai cấp có thể mang lại sự lOMoARcPSD| 36625228 15
thay đổi lớn trong tương lai, đặc biệt là giai cấp công nhân. Trong giai đoạn đầu của thế kỷ,
nhiều nhà yêu nước, các tri thức, sĩ phu có cơ hội được tiếp nhận nhiều hơn những tư tưởng
mới tiến bộ của nước ngoài để mang về Việt Nam mới ước nguyện thay đổi và xây dựng
một Việt Nam mới, giai đoạn này đất nước ta diễn ra sôi sục các cuộc cải cách và những
phong trào tiến bộ của các nhà yêu nước từ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái
Học hay Lương Văn Can, đó là sự nỗ lực đáng ghi nhận trong công cuộc khai mở dân trí
trong lịch sử nước ta. Chính những cố gắng trên đã tạo tiền đề tốt cho việc sau này người
chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc thực hiện việc tuyên truyền chủ nghĩa cứu nước mới cho
dân tộc, mở ra thời đại đấu tranh không ngừng vì quyền được hưởng độc lập và tự do của người dân Việt Nam
Bên cạnh những chuyển biến trong nước, thế giới lúc này cũng có những thay đổi không
kém khi mà đầu thế XX, tư tưởng vô sản xuất hiện và nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên
ra đời lại Nga vào năm 1917. Đây là dấu mốc cực kỳ trọng đại đối với lịch sử của thế giới,
lần đầu tiên có một nhà nước mà quyền lợi tự chủ được trao về tay nhân dân lao động, các
giai cấp nhỏ bé trong xã hội có tiếng nói cao cả, tạo cơ hội để xã hội phát triển công bằng,
xóa bỏ bất công của nhà nước quân chủ chuyên chế và nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự
kiện thành công của Cách mạng tháng mười Nga đã gây rúng động đối với các nước đế quốc,
buộc chúng phải ra đối sách xóa sổ nền chính trị non nớt này. Liên quân 14 nước đế quốc ra
kế hoạch tấn công Liên bang Xô viết nhưng đã thất bại, và thế là nhà nước chủ nghĩa xã hội
ấy phát triển và tồn tại lâu dài đến tận cuối thế kỷ XX. Liên bang Xô viết ra đời cổ vũ tinh
thần cho các dân tộc bị bóc lột và cai trị trên thế giới, tạo niềm tin cho nhân dân thuộc địa
đứng lên giải phóng chính mình.
Ở các nước tư bản thế giới lúc này xuất hiện các Đảng Cộng sản hoạt động mạnh mẽ
ngay tại chính quốc, các cuộc mít tinh biểu tình diễn ra, các khẩu hiệu đình công, đòi quyền
lợi về công việc và tiền lương của công nhân diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, để lại nhiều bài
học trong công cuộc giải phóng mình của các dân tộc thuộc địa. Đây là cơ hội lớn cho nhân
dân các nước thuộc địa tư bản, Việt Nam chính là một trong số những nước thừa hưởng được
giá trị quý báu đó. Người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc với Cương Lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng cộng sản Việt Nam đã mang tạo ra con đường giải phóng dân tộc mới cho
riêng người dân Việt Nam, khuynh hướng vô sản phát triển là điều tất yếu phải xảy ra, và
người dân Việt Nam sẽ có cơ hội trở mình khỏi ách đô hộ trong tương lai mới.
II. Tầm nhìn vượt thời đại của Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
1. Cái nhìn đúng đắn và tiến bộ của Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng cộng sản Việt Nam.
Với tư cách một đặc phái viên của Quốc tế cộng sản tại Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc
có đầy đủ uy tín để đưa ra quyết định về các vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở
Đông Dương. Người thông qua chỉ thị của Quốc tế cộng sản, đưa ra được những sai phạm lOMoAR cPSD| 36625228 16
khi hoạt động riêng lẻ của các tổ chức Đảng phái có mặt tại Việt Nam lúc bấy giờ. Một quốc
gia thống nhất không thể để tình trạng các Đảng phái chính trị có cùng hệ tư tưởng đấu tranh
giành quyền ảnh hưởng với nhau như thế, đấy không phải là phương hướng hoạt động đích
thực của chủ nghĩa cộng sản mà là của chủ nghĩa tư bản, điều này gây mất đi tinh thần đoàn
kết dân tộc lại dễ bị kẻ thù chia rẽ khi được hưởng quyền lợi nhất định về quyền lực. Theo
chỉ thị của Quốc tế cộng sản về việc thống nhất hoạt động cách mạng ở Đông Dương, Nguyễn
Ái Quốc đã có những quyết định khác khi người cho thành lập Đảng cộng sản Việt Nam,
hoạt động dẫn dắt phong trào cách mạng tại Việt Nam thay vì Đảng cộng sản Đông Dương,
thực hiện dẫn dắt phong trào cách mạng cho toàn Đông Dương. Đây là điểm nhìn khác biệt
của Nguyễn Ái Quốc đối với tình hình lúc bấy giờ của Việt Nam nói riêng và của khối liên
hiệp thuộc địa Pháp nói chúng, tuy nhiên về sau, Quốc tế cộng sản không thừa nhận tên Đảng
“Việt Nam” cùng các “chính cương” và “điều lệ” nên đã đưa chỉ thị cho đồng chí Trần Phú
thực hiện “cải tổ”, sửa đổi tên Đảng thành Đảng cộng sản Đông Dương và đề ra Luận cương
mới. Có thể dễ hiểu ý định của Quốc tế cộng sản vì sao không thừa nhận, bởi lúc này khối
liên bang Đông Dương chung một gông cùm xiềng cổ thế nên cần phải liên kết lại để gây
dựng khối liên minh công nông chung cho cả ba nước Lào, Việt Nam và Campuchia. Thế
nhưng thời điểm năm 1930, chỉ có Việt Nam là có nền móng của chủ nghĩa vô sản từ sớm,
thế nên trước tiên để gánh vác trọng trách cứu nguy cho cả Đông Dương thì phải tự đứng lên
xây dựng tổ chức cho mình một hệ thống vững mạnh. Đây chính là bài học lớn cho cuộc đấu
tranh về sau của Việt Nam, Lào và Campuchia khi thực dân Pháp quay lại vào cuối năm
1945, ba nước tiến hành tách ra thực việc kế hoạch dẫn dắt riêng, khi đã ổn định sẽ tạo được
cơ sở để phát triển chung. Trong thảo luận tại Hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã
có lời giải thích: “Cái từ Đông Dương rất rộng và theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin,
vấn đề dân tộc là vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể bắt buộc các dân tộc khác gia
nhập Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý của chủ nghĩa Lênin. Còn cái từ An Nam thì
hẹp, mà nước ta có ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Do đó, từ Việt Nam hợp với cả ba
miền và cũng không trái với nguyên lý của chủ nghĩa Lênin về vấn đề dân tộc
”. Thực tế đã
cho thấy việc làm này là hoàn toàn phù hợp, chỉ vài tháng sau khi Đảng cộng sản Việt Nam
ra đời, sự dẫn dắt tiên phong ấy đã đem đến thắng lợi bước đầu trong phong trào đấu tranh
1930-1931 với đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh. Khối liên minh công nông được hình thành
vững chắc hơn, sự lãnh đạo của Đảng được nhân dân tin tưởng, nâng cao uy tín Đảng trong
lòng quần chúng nhân dân.
Đánh giá về nội dung của Cương lĩnh chính trị bao gồm Chánh cương vắn tắt và Sách
lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc biên soạn thì đây là văn kiện quan trọng có sức ảnh hưởng
to lớn trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong vòng 15 năm. Các văn kiện ấy đã
làm rõ được hầu hết các vấn đề đang còn dang dở dẫn đến cách mạng Việt Nam chưa thể
thành hình và bùng phát. Các quyết định quan trọng trong đường lối chiến lược, lực lượng lOMoAR cPSD| 36625228 17
tham gia, đối tượng kẻ thù đều được vạch ra rõ ràng và trở thành bài học lâu dài cho quá
trình chuẩn bị đến ngày tổng tiến công giải phóng.
Trong phương hướng chiến lược, Nguyễn Ái Quốc xác định rõ các mâu thuẫn đang tồn
tại trong xã hội Việt Nam để từ đó đưa ra con đường tiên quyết cho cách mạng Việt Nam.
Quá trình phân hóa xã hội sâu sắc đã đưa đến nhiều mâu thuẫn, nhưng chủ yếu có các vấn
đề như sau: Địa chủ bóc lột nông dân chiếm đoạt ruộng đất, Tư sản bóc lột công nhân cắt
giảm tiền lương, đày làm khổ sai hai vấn đề trên dẫn đến mâu thuẫn về giai cấp trong xã hội
giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột; Thực dân Pháp xâm lược gây ra những điều tàn ác, tức
đi quyền lợi dân tộc của người dân Việt Nam, đây là mâu thuẫn lớn nhất trong xã hội, mâu
thuẫn dân tộc, cần phải giải quyết triệt để. Trong hai mâu thuẫn trên không thể xem nhẹ cái
nào, cũng không thể đặt nặng vấn đề nào cao nhất mà phải xem hai vấn đề là nguồn cơn độc
lập để thực hiện cách mạng. Từ đó mà Nguyễn Ái Quốc đề ra phương hướng chiến lược là
“thực hiện cuộc cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Đây là nhiệm vụ lâu dài của toàn Đảng, toàn dân. Bên cạnh đó dựa trên tình hình xã hội mà
xoay chuyển định hướng phù hợp với tình hình trước mắt của cuộc cách mạng. Nhiệm vụ
trước mắt của cách mạng Việt Nam được xác định là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
bọn phong kiến để làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”. Cương lĩnh xác định: Chống đế
quốc (xóa bỏ mâu thuẫn dân tộc) và chống phong kiến (xóa bỏ mâu thuẫn giai cấp) là nhiệm
vụ cơ bản để giành lại độc lập dân tộc và ruộng cày cho dân, trong đó chống đế quốc giành
độc lập dân tộc phải đề lên hàng đầu.
Nguyễn Ái Quốc có ánh nhìn cực kỳ khách quan đối với tất cả các giai tầng trong xã
hội, nhận xét rất rõ nhiệm vụ cách mạng của từng thành phần giai cấp từ đó đề ra lực lượng
chủ yếu cho cách mạng Việt Nam. Thứ nhất là thành lập khối liên minh công nông, gây dựng
tình đoàn kết dân tộc cho toàn thể người dân Việt Nam. Xét về phẩm chất, nông dân và công
nhân đều có những phẩm chất tốt đẹp được lưu giữ qua hàng trăm năm nay, mang tinh thần
yêu nước sẵn có của ông cha ta từ ngàn đời trước. Xét trên cương vị tiềm năng, giai cấp nông
dân quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, kiến thức có được là nhờ vào kinh
nghiệm lâu đời, tinh thần yêu nước có nhưng dễ thỏa mãn bởi những điều kiện được trao
tặng, giai cấp này tuy đông nhưng lại không đủ ý thức chính trị để đứng lên làm lực lượng
dẫn đầu mà chỉ có thể trở thành bộ phận tham gia đông đảo mà thôi. Ngược lại giai cấp công
nhân như đã nói, có quan hệ gần như “máu mủ ruột rà” với nông dân, thừa hưởng tất cả
phẩm chất mà người nông dân ngàn đời có được, nhưng với kiến thức hiện đại được học khi
làm việc ở nhà máy, xưởng chế tác của tư sản, học tập tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài đã khiến
cho ý thức chính trị của giai cấp công nhân trở nên sâu sắc, có đủ khả năng vươn lên trở
thành lực lượng nòng cốt lãnh đạo cách mạng dưới sự dẫn dắt tiên phong của Đảng cộng sản
Việt Nam. Các giai cấp còn lại trong xã hội được chia ra làm nhiều thành phần để thỏa hiệp,
tư sản và tiểu tư sản yêu nước có khả năng tham gia cách mạng cao, nhưng với tính chất “cải lOMoARcPSD| 36625228 18
lương” thì khó mà đưa cuộc cách mạng sớm đến ngày kết thúc. Các trung, tiểu địa chủ nếu
có thể thỏa hiệp thì cố gắng làm cho họ hướng ánh nhìn yêu nước về phía cách mạng, trở
thành hậu thuẫn cho cách mạng phát triển, còn không thì giữ ở mức độ trung lập, nếu có ý
định khác ảnh hưởng quyền lợi dân tộc thì quy về kẻ thù mà tiêu diệt, “bộ phận nào có ý
định phản cách mạng thì phải đánh đổ”. Các đại địa chủ và bọn tư sản Pháp là tầm ngắm
chính của cách mạng, phải diệt tận gốc.
Phương pháp thực hiện cách mạng phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần
chúng nhân dân, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được phép thỏa hiệp. Quá khứ
đã cho thấy rõ việc nhân nhượng và thỏa hiệp với thực dân chỉ có một kết cục là kéo dài thời
gian để chúng có đủ khả năng lật ngược lại tình thế và lấn tới thực hiện dã tâm cướp nước
một cách mạnh mẽ hơn. Không một giờ phút nào cách mạng Việt Nam phải đề ra cách thức
thỏa hiệp làm ảnh hưởng đến quyền lợi của công nông, một chút cũng không. Bởi với tính
cách của thực dân, khi đã dễ dàng thỏa hiệp thì với quyền lực quân sự, chính trị và kinh tế,
chúng sẽ đưa ra cách thức để dìm chết cách mạng nhanh chóng và gọn gàng, như cách mà
chúng đã dùng để chiếm lấy toàn bộ Nam Kỳ và đặt ách bảo hộ lên toàn cõi Bắc, Trung Kỳ
mà không tốn quá nhiều sinh mạng và súng đạn ngày trước.
Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự
kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Vận dụng sáng tạo quy luật
này ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nghèo nàn lạc hậu như Việt Nam, Hồ Chí
Minh khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây chính là sáng tạo nổi bật
nhất của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng và đề ra các chủ trương
cho cách mạng Việt Nam. Người trung thành với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về
quy luật ra đời của Đảng, đồng thời bổ sung và sáng tạo dựa trên quy luật ấy với những điều
kiện cụ thể của Việt Nam, cụ thể là phong trào yêu nước của toàn thể dân tộc. Nguyễn Ái
Quốc phân tích rất kỹ tính chất xã hội, cơ cấu giai cấp của xã hội Việt Nam để chỉ ra quy luật này.
2. Giá trị to lớn của Cương lĩnh 2/1930 và Lý luận giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái
Quốc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam từ 1930 - 1945.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời cùng với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, nắm quyền
lãnh đạo duy nhất đã “ngay lập tức lãnh đạo cuộc đấu tranh kịch liệt chống lại thực dân
Pháp”. Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Cương lĩnh rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha
của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách
mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc
bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân
- không ngừng củng cố và tăng cường”. lOMoAR cPSD| 36625228 19
Dưới ánh sáng soi đường của Cương lĩnh, Đảng ta đã dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi các mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội
và đang trên đường xây dựng nước Việt Nam giàu, mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Dựa trên những nguyên lý sáng tạo đúng đắn của Cương lĩnh, Đảng và quần chúng nhân dân
có được ý thức và tư tưởng chính trị đúng đắn để từ đó làm cơ sở để đánh giá tình hình xã
hội đang diễn ra hằng ngày hằng giờ, những biến động có khả năng làm ảnh hưởng đến cách
mạng, thời cơ và điều kiện nảy sinh và thúc đẩy mâu thuẫn xã hội lên cao trào để dẫn đến
cách mạng có cơ hội để bùng nổ. Nhận thức được thời cơ chín muồi để tiến đến giải phóng
dân tộc, đây là bài học rút ra được từ khi Đảng vừa ra đời đã lãnh đạo thành công phong trào
giải phóng dân tộc 1930-1931 với cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh. Sau đó tuy phong trào bị
thực dân dập tắt, các đoàn thể cách mạng địa phương giải tán nhưng những gì nó để lại cũng
là vô cùng to lớn. Là cuộc diễn tập đầu tiên của Đảng và quần chúng nhân dân cho công
cuộc đấu tranh lâu dài sau này với thực dân và tay sai.
Trải qua các chặng đường lịch sử đấu tranh, với các giai đoạn cách mạng thực hiện
nhiệm vụ cụ thể trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Cương lĩnh, Đảng có lúc cũng phạm sai
lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách
quan; do nhận thức của Đảng trên một số lĩnh vực còn hạn chế; không ít vấn đề lý luận và
thực tiễn còn chưa đủ sáng tỏ, những điều quan trọng là Đảng ta đã nhận ra, thẳng thắn tự
phê bình và nghiêm túc sửa chữa, khắc phục có kết quả. Và qua mỗi vấp váp, sai lầm Đảng
thêm trưởng thành. Luận cương tháng 10 của đồng chí Trần Phú chính là một điển hình cho
nhận thức chưa đủ tỏ tường về nguyên lý khách quan về thực tiễn xã hội Việt Nam so với
các đảng phái khác trên thế giới và trong lòng sâu của Quốc tế cộng sản. Luận cương xác
định mâu thuẫn giai cấp diễn ra sâu sắc ở Việt Nam, Lào và Cao Miên, đề ra phương hướng
chiến lược “cách mạng tư sản dân quyền”, có “tánh chất của thổ địa và phản đế”, hoàn toàn
bỏ quên mâu thuẫn sâu sắc nhất là mâu thuẫn dân tộc của Việt Nam thuộc địa. Lực lượng
chính là giai cấp vô sản công nông binh, bỏ qua việc đánh giá khách quan các mặt tích cực
khác của các giai cấp còn lại. Các vấn đề về giải quyết mâu thuẫn giai cấp đã đẩy hoạt động
Đảng đi lùi trong vài năm.
Trong những năm 1929-1933, bước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, chủ nghĩa
phát xít có mầm mống xuất hiện khi mà một bộ phận giai cấp tư sản ở Đức, Italia,... có chủ
trương dùng bạo lực đàn áp để chiếm đoạt thị trường, đe dọa đến an ninh hòa bình thế giới.
Tháng 7/1935, Quốc tế cộng sản mở Đại hội VII tại Matxcova (Liên Xô) xác định kẻ thù cho
nhân dân thế giới lúc này là chủ nghĩa phát xít, kêu gọi lực lượng lao động thế giới phản đối
ngăn chặn nguy cơ chiến tranh thế giới mới. Ngày 26/7/1936, BCH TW Đảng họp hội nghị
tại Thượng Hải (Trung Quốc), do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì nhằm thực hiện việc “sửa
chữa những sai lầm” trước đó, đề ra “chính sách mới” dựa theo nghị quyết của Đại hội VII
Quốc tế Cộng sản. Đây là bước nhạy bén của Đảng đối với thời cuộc được kế thừa từ nguyên lOMoAR cPSD| 36625228 20
ký chân chính của Cương lĩnh, dựa vào khối liên minh công nông vững chắc thành lập nên
“Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương” (sau đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương).
Nhận thấy Mặt trận nhân dân Pháp đã thắng thế ở chính quốc, hội nghị đưa ra chủ trương
chuyển từ hoạt động bí mật không hợp pháp sang chủ trương công khai, nữa công khai, hợp
pháp, nửa hợp pháp kết hợp với đó là bí mật và bất hợp pháp.
Văn kiện Chung quanh vấn đề về chính sách mới (10/1936) của Đảng đã có nêu quan
điểm nhận thức hết sức rõ ràng về quan điểm đấu tranh điền địa và đấu tranh dân tộc trong
giai đoạn này. Thừa nhận sai phạm và hạn chế lớn của Luận cương lúc trước. Dựa trên thời
cơ đang có sẵn về việc chính quyền Pháp nới lỏng các vấn đề thuộc địa mà tranh thủ đứng
lên đòi các quyền tự do, cơm áo và hòa bình cho dân tộc, bên cạnh đó khẳng định rằng cách
mạng giải phóng dân tộc không nhất thiết phải phụ thuộc vào cách mạng ruộng đất dân cày
và ngược lại cũng thế. Nếu như cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề ruộng đất lên cao mà ảnh
hưởng đến đấu tranh giải phóng dân tộc thì phải nhìn nhận đâu là điểm thiết yếu nhất. Phải
chọn được đâu là kẻ thù nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng mà đánh cho toàn thắng. Rõ
ràng với cuộc đấu tranh dân chủ năm 1936, Đảng và quần chúng nhân dân tranh thủ những
cơ hội có sẵn để mở ra các phong trào đòi hỏi được hưởng quyền lợi đích đáng về cho nhân
dân, đồng thời là bước diễn tập lần hai của Đảng trong công cuộc lãnh đạo phong trào cách
mạng, còn lại vẫn tập trung cao độ cho vấn đề dân tộc cấp bách của đất nước ta. Những nhận
thức chuẩn mực trên đã trở nên chuẩn mực và phù hợp với nguyên lý khách quan mà Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.
Trãi qua một lần sai phạm cùng với bước sửa đổi phù hợp, Đảng đã có được những kinh
nghiệm xương máu để tiếp tục dẫn dắt cách mạng Việt Nam tiến lên trong thời kỳ thế giới
có nhiều thay đổi mới. Năm 1939, chủ nghĩa phát xít bành trướng ra khắp các châu lục, đến
tháng 9 cùng năm, cuộc chiến tranh thế giới thứ II chính thức bùng nổ. Tháng 6/1940, Đức
tấn công và chiếm đóng được Pháp, một năm sáu Đức tấn công Liên Xô. Tại Đông Dương,
Toàn quyền ra quyết định thắt chặt kiểm soát tránh tình trạng bạo động thuộc địa, ra quyết
định đặt cộng sản ra ngoài vòng Pháp luật, giải tán đoàn hội, đóng cửa các tòa soạn báo in,
tạp chí, nhà xuất bản, cấm tụ tập đám đông. Tháng 9/1940 Nhật tiến vào Đông Dương, Pháp
nhanh chóng đầu hàng và câu kết với Nhật, nhân dân Đông Dương lúc này “một cổ hai
tròng”, chịu đủ mọi áp bức và bóc lột.
Ngay khi cuộc chiến tranh thế giới bùng nổ, Đảng đã kịp thời rút vào hoạt động bí mật,
chuyển hướng trọng tâm về nông thôn làng xã, đồng thời giữ lực lượng đô thị để theo dõi
thông tin cuộc chiến. Ngày 29/9/1939 Trung ương Đảng ra chỉ thị quan trọng: “Hoàn cảnh
Đông Dương sẽ tiến đến bước vào vấn đề giải phóng dân tộc”.
Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc về đến Cao Bằng, kết thúc chuyến hành trình 30 năm
bôn ba nước ngoài, trực tiếp chủ trì Hội nghị BCH TW Đảng. Tại hội nghị, vấn đề cấp bách
nhất lúc này là phải giải phóng được toàn thể nhân dân Việt Nam, thực hiện cuộc cách mạng lOMoARcPSD| 36625228 21
giải phóng dân tộc. Hội nghị thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng mình, khẩu hiệu
chính là Đoàn kết toàn dân, chống Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập và hoãn cách mạng
ruộng đất lại. “Quyền lợi của tất cả các dân tộc bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong
không lúc nào bằng”15. Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này không còn là tư sản dân quyền
với hai vấn đề là điền địa và phản đế nữa mà phải hoàn thành công cuộc “giải phóng dân
tộc” trong tình thế cấp bách, đây là vấn đề tồn vong của quốc gia. Đảng nhận định rất rõ ràng
nhiệm vụ của mình trong giờ phút này, nếu không giải quyết được vấn đề độc lập tự do cho
toàn dân tộc thì không chỉ dân tộc ta mãi còn chịu kiếp ngựa trâu mà vấn đề quyền lợi của
các giai cấp vạn năm cũng không đòi lại được. Điều quan trọng bên cạnh định hướng chiến
lược, còn việc là đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trở về khuôn khổ của từng nước ở
Đông Dương, thực thi chính sách “Dân tộc tự quyết” - đây là bài học đã có từ khi Đảng CS
Việt Nam thành lập. Sau khi đánh đuổi được thực dân Pháp, các nước Đông Dương có quyền
thành lập một liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng là tùy ý. Mỗi nước từ đây sẽ có
một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, tiến đến đoàn kết khối chung Đông
Dương để chống kẻ thù chung. Trong vấn đề tập hợp lực lượng cũng đã nêu rõ, không màn
bất kể ai là hội viên theo chủ nghĩa cộng sản hay không, mà cốt yếu là họ có tinh thần cứu
quốc và tranh đấu vì độc lập dân tộc. Sau khi giành được độc lập sẽ lập nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, không phải nhà nước Xô viết hay công nông liên hiệp, mà là chính phủ
dân chủ cộng hòa. Hội nghị xác định rõ việc chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang
là nhiệm vụ của toàn Đảng toàn dân, phải luôn trong tư thế sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận
tiện mà bại kẻ thù. Trong những hoàn cảnh nhất định, dựa vào lực lượng sẵn có mà tổ chức
khởi nghĩa từng phần, trong từng địa phương, tiến đến một cuộc tổng khởi nghĩa giành thắng
lợi hoàn toàn trên cả nước.
Với những quyết định trên của hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 8, ta đã thấy được tầm
ảnh hưởng to lớn mang tính thời đại vô cùng đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng và lý luận giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị đã khắc phục triệt để
những sai sót từ Luận cương chính trị tháng 10/1930, trở thành ngọn cờ dẫn đường cho toàn
thể nhân dân trong công cuộc chuẩn bị lực lượng, tiến lên giải phóng đánh đuổi Nhật - Pháp, giành độc lập tự do.
III. Bài học chiến lược cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam.
Thực hiện chủ trương đúng đắn của Cương lĩnh năm 1930 trong suốt thời kỳ đấu tranh
chống lại kẻ thù xâm lược, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ
đại: Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân
tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược trở lại của
thực dân Pháp, giải phóng miền Bắc chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa;
15 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 7, trang 68. lOMoAR cPSD| 36625228 22
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả
nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Từ thực tiễn trên, Đảng ta rút ra được những bài học vô cùng quý giá cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong tương lai. Trong cương lĩnh của Đảng năm 1991 đã đề cập rõ
đến năm bài học xác đáng nhất trong quá trình lãnh đạo quần chúng nhân dân của Đảng từ
khi sơ khai cho đến lúc vững mạnh. Năm bài học đó bao gồm:
Một, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ba, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân,
đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Bốn, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Năm, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Suốt hai mươi năm kể từ sau Cương lĩnh 1991 ra đời, năm bài học lớn này là một trong
những chủ đề trung tâm trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy chính trị cho các cán bộ là
đảng viên, đoàn viên thanh niên trẻ. Đó là bài học lớn, là báu vật trong hành trang lãnh đạo
của Đảng. Chính vì thế, mỗi một cán bộ nhà nước phải luôn có sự hiểu biết nhất định để vận
dụng chúng vào việc hoạch định đường lối, chủ trương và chính sách, đồng thời thông qua
thực tiễn mà kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển.
Nhìn một cách tổng quát, năm bài học lớn đã nêu lên được đúng tính chất, nội dung,
phương hướng và phương thức phát triển của cách mạng Việt Nam đồng thời cũng làm rõ
tính chất, nội dung, phương hướng và phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm thắng lợi
của cách mạng trong suốt hơn mấy mươi năm thực hiện công tác lãnh đạo. Cách mạng Việt
Nam đã trải qua nhiều thời kỳ với những nhiệm vụ và tên gọi khác nhau như cách mạng giải
phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng
bản chất và mục tiêu nhất quán của cuộc cách mạng ấy là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Về sự lãnh đạo của Đảng, trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng ta giương
cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Trong kháng chiến chống Pháp, ngọn cờ của chúng ta là dân
tộc dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội. Trong kháng chiến chống Mỹ, với hai chiến
lược cách mạng khác nhau - chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và chiến
lược cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam, Đảng ta đồng thời giương cao hai ngọn cờ:
ngọn cờ độc lập dân tộc và ngọn cờ chủ nghĩa xã hội. Từ sau ngày đất nước thống nhất, cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội và có cùng chiến lược chung với hai nhiệm vụ xây dựng chủ lOMoAR cPSD| 36625228 23
nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa thì ngọn cờ chiến đấu duy nhất của Đảng và
nhân dân ta là ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chính vì vậy, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là bài học lớn đầu
tiên được nêu lên trong Cương lĩnh. Bài học này cho thấy: Độc lập dân tộc là điều kiện tiên
quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc
lập dân tộc. Không nắm vững mà để lung lay ngọn cờ này sẽ là lầm lạc chết người về chính trị.
Thứ hai, cách mạng Việt Nam là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Đối với cuộc cách mạng ấy, nhân
dân vừa là chủ thể vừa là đối tượng phục vụ. Chính vì vậy, toàn bộ hoạt động của Đảng phải
xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự
gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn
thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Thứ ba, cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng vĩ đại của nhân dân ta trong thời đại
mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Trong toàn bộ
quá trình của cuộc cách mạng ấy, nhất là trong thời là xây dựng đất nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội hiện nay, lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc
là thống nhất. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước không phải đấu tranh giai cấp mà là
đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức. Chính
vì vậy, Đảng ta đặc biệt trân trọng bài học ' không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn
kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đại đoàn kết là sức
mạnh, là bài học từng được chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: ' Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết - Thành công, thành công, đại thành công.'
Đảng ta cũng trân trọng bài học: Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Và khẳng định: Trong bất cứ hoàn cảnh nào
cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao
độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm bài học lớn phản ánh tư duy của Đảng ta về cách mạng Việt Nam và về sự lãnh
đạo của Đảng đối với cách mạng. Năm bài học lớn ấy tạo thành một giá trị tổng thể, có ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay. Những
thành tựu vĩ đại mà cách mạng nước ta giành được trong hơn 80 năm qua chứng minh rằng
sự lãnh đạo của Đảng là đúng đắn. Nhưng bên cạnh đó, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm,
khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí,
vi phạm quy luật khách quan. Điều đáng ghi nhận là Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa
chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. lOMoAR cPSD| 36625228 24
Để bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, bài học thứ 5 nhấn mạnh những nội dung
sau: Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng
phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức
và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi
đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.
Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái
hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Đại hội X (2006) lấy việc ''nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng'' làm
thành tố quan trọng đầu tiên trong chủ đề của Đại hội. Theo đó, nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng là nâng cao năng lực hoạch định đường lối chính sách; năng lực tổ chức chỉ đạo
thực hiện; năng lực tổng kết lý luận - thực tiễn, tạo thống nhất nhận thức và hành động trong
Đảng; năng lực lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, tăng cường mối
quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Đó còn là năng lực kiểm tra giám sát các hoạt động
của các tổ chức Đảng. Nâng cao sức chiến đấu của Đảng là làm cho từng cán bộ, đảng viên,
từng tổ chức và cấp uỷ đảng, nói chung là toàn Đảng, phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, không nể
nang, né tránh “dĩ hoà vi quý”; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham
nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, ở trong tổ chức đảng, cơ quan nơi
mình sinh hoạt, công tác, ở trong Đảng, và trong xã hội; dũng cảm đấu tranh chống các tư
tưởng, quan điểm và hành động sai trái, thù địch…
Đại hội XI (2011) một lần nữa xác định ' Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” là nhiệm vụ bao trùm và nội dung chủ
yếu nhất về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay. Kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết
Đại hội X, Đại hội XI khẳng định: ' Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường,
đạt một số kết quả tích cực”. Nhưng Đại hội cũng chỉ rõ: ' Công tác xây dựng Đảng còn nhiều
hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục''. Đó là những hạn chế, yếu kém trong công tác
chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ, trong phương thức lãnh đạo và trong công tác kiểm tra,
giám sát. Đáng lưu ý là ' tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức
tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp,
nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định,
phát triển của đất nước''. Cũng cần lưu ý rằng ' năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không
ít tổ chức đảng còn thấp, công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nề
nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu, v.v. lOMoARcPSD| 36625228 25
Năm bài học lớn trong Cương lĩnh được rút ra từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng
trong các thời kỳ đã qua nhưng đến lượt nó, lại phục vụ đắc lực cho các hoạt động lãnh đạo
của Đảng trong thời kỳ hiện nay và sắp tới. Sức sống và các bài học không chỉ ở chỗ được
đúc kết một cách đúng đắn mà còn ở chỗ được vận dụng một cách sáng tạo trong tinh thần
đổi mới và phát triển. C. KẾT LUẬN
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là văn kiện mang tính thời đại sâu sắc, để lại
nhiều bài học đáng giá cho công cuộc đấu tranh lâu dài của Đảng và nhân dân, đồng thời là
kim chỉ nam cho công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Tuy thời cuộc có thay đổi dẫn
đến một số vấn đề trong Cương lĩnh ấy không còn phù hợp, nhưng với nguyên lý khách quan
và những tư tưởng tiến bộ mà Đảng ta tiếp thu được trong quá trình rèn luyện lãnh đạo, đã
phần nào giúp cho những thiếu hụt ấy được cải thiện, đưa ra những giải pháp mới, làm cho
đất nước phát triển theo định hướng đúng đắn, phù hợp với tính chất của thời đại.
Lý luận giải phóng dân tộc và tầm nhìn vươn xa của Nguyễn Ái Quốc trong những ngày
đầu thành lập nên Đảng cộng sản Việt Nam thực sự là những yếu tố quan trọng góp phần
vào thành công vẻ vang của dân tộc ta trong quá trình đấu tranh với kẻ thù xâm lược. Những
tư tưởng ấy đã được các cán bộ ưu tú của đất nước thấm nhuần và thể hiện bằng hành động
rõ rệt. Đất nước ta ngày một đổi mới và hòa nhập, rất cần các thế hệ về sau có thể tiếp thu
và học hỏi được tư tưởng tiến bộ, tầm nhìn vươn xa của người đi trước, để đưa ra được những
hướng đi đúng đắn cho toàn bộ dân tộc ta.
Bước ra khỏi thời kỳ đấu tranh chống lại thế lực thù địch, Đảng ta đã có những nhận
định mới về thời đại ngày nay. Những giá trị của Cương lĩnh 1930 vẫn được Đảng và Nhà
nước tiếp tục phát huy trong giai đoạn mới, tuy nhiên có những điều không còn phù hợp với
tình hình mới cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, cần phải đề ra các phương án thay đổi mới
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện của đất nước, chính vì thế Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 được ra đời. Dựa trên những
nguyên lý khách quan của Cương lĩnh chính trị đầu tiên năm 1930, cùng với tư tưởng tiến
bộ trong lý luận cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, Đảng ta đề ra phương hướng mới cho thời
kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa, đồng thời tiến vào giai đoạn hội nhập với nền kinh tế thị
trường của thế giới, tạo điều kiện cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra trên cả nước.
Bài học thực tiễn từ Cương lĩnh năm 1991, trải qua hơn 20 năm nghiên cứu và vận dụng,
Đảng ta tiếp tục thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển 2011). Trên nền tảng Cương lĩnh năm 1991, Đảng khẳng định đặc
trưng hàng đầu là xây dựng một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đảng ta đã cho thấy điểm mới trong nhận thức và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu
tư sản là bước tiến bộ so với chế độ phong kiến, đảm bảo cho chế độ tư bản phát triển, thì xã lOMoAR cPSD| 36625228 26
hội chủ nghĩa là nền tảng của xã hội, là điều kiện giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp
bức, bất công để tạo dựng một xã hội tiến bộ và tốt đẹp hơn.
Thế giới hiện nay đang đối mặt với nhiều những biến động có ảnh hưởng đến nền chính
trị của các quốc gia, vì thế mà Đảng và Nhà nước hiện nay phải luôn đề cao vấn đề giữ vững
lý tưởng cách mạng cao đẹp và tiến bộ cho các cán bộ, thực hiện công tác lãnh đạo liêm
chính, đúng với giá trị đạo đức của Cương lĩnh năm 1930 để lại. Đồng thời, vận dụng năm
bài học quý báu trong lịch sử lãnh đạo của Đảng, thực hiện đúng trách nhiệm của đội ngũ
tiên phong trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. Bộ máy nhà nước vững
mạnh sẽ là chỗ dựa vững chắc để nhân dân hăng hái sản xuất, phát triển đóng góp cho công
cuộc đưa đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa. lOMoARcPSD| 36625228
TÀI LIỆU THAM KHẢO SÁCH TIẾNG VIỆT 1.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2021). Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (2021). Biên niên sự kiện Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Tập 1 (1930 – 9/1945). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3.
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Khá (Chủ biên), ThS. Nguyễn Huỳnh Bích Phương, (2021).
Tư tưởng Hồ Chí Minh: Một số chuyên đề lý luận và thực tiễn (Sách chuyên khảo). Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4.
Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, (2020). Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong
tình hình mới. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5.
Hội đồng Lý luận Trung ương, (2020). 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6.
Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. BÁO TIẾNG VIỆT 1.
Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Văn Duyên (2021). Kỳ 5: Những năm tháng làm nên “dĩ
bất biến”. Báo Quân đội nhân dân điện tử, truy cập ngày 20/12/2022. 2.
Sơn Tùng (2010). Nguyễn Ái Quốc với quốc tế cộng sản. Tạp chí Sông Hương, truy cập ngày 20/12/2022. 3.
Nguyễn Đình Hoà (2015). Về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội qua Cương lĩnh
1991 và Cương lĩnh 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, truy cập ngày 21/12/2022. 4.
Nguyễn Thị Ly (2022). Nguyễn Ái Quốc bàn về vai trò Quốc tế cộng sản với cách
mạng An Nam trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”. Tạp chí Tuyên giáo, truy cập ngày 22/12/2022. 5.
Tạ Thị Hồng (2020). Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trang thông tin điện tử Trường chính trị Hoàng Văn Thụ tỉnh Lạng
Sơn, truy cập ngày 22/12/2022. 6.
Thông tấn xã Việt Nam (2020). Các cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập ngày 23/12/2022. 7.
(2011). Tầm nhìn và những quyết định sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước
bước ngoặt của cách mạng. Báo Điện tử Chính phủ, truy cập ngày 23/12/2022.