


















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 45740413
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT  ĐẠI HỌC HUẾ   
TIỂU LUẬN MÔN HỌC LUẬT   LUẬT DÂN SỰ 
Câu hỏi: Dạng 1: Xác định và phân chia di sản thừa kế 
Giảng viên hướng dẫn:  
Học viên thực hiện:   Huế,năm 2022      lOMoAR cPSD| 45740413 LỜI MỞ ĐẦU 
 Chế định thừa kế là một trong những chế định đóng vai trò quan trọng của 
Bộ luật Dân sự. Các vụ án tranh chấp về xác định phân chia di sản thừa kế không 
những gia tăng về số lượng vụ án mà còn phức tạp trong từng nội dung quan hệ 
tranh chấp. Quá trình giải quyết án tranh chấp dân sự nói chung trong đó tranh 
chấp về phân chia di sản thừa kế nói riêng là một trong những công việc khó khăn, 
phức tạp. Chính vì vậy có những vụ án tranh chấp xác định phân chia di sản thừa 
kế kéo dài nhiều năm, qua nhiều cấp xét xử. Lý do của việc này bên cạnh nguyên 
nhân chủ quan là trình độ chuyên môn của một số Thẩm phán còn chưa đáp ứng 
được yêu cầu mà còn do hệ thống văn bản pháp luật về thừa kế chưa thống nhất, 
quy định còn chung chung chưa cụ thể, chưa dữ liệu được các tình huống trên 
thực tế. Vì vậy, khi áp dụng vào thực tế sẽ xảy ra tình trạng không nhất quán trong 
cách hiểu cũng như cách giải quyết. Điều đó đã xâm phạm quyền lợi ích hợp pháp 
của đương sự, đôi khi còn gây bất ổn trong đời sống sinh hoạt của mỗi gia đình,  cộng đồng và xã hội. 
 Trước thực trạng đó, tôi chọn việc nghiên cứu, phân tích, tổng hợp đề tài 
“Xác định và phân chia di sản thừa kế”. Mục đích nghiên cứu đề tài là đánh giá 
thực trạng, phát hiện những sai sót, vướng mắc đồng thời tìm ra giải pháp, kiến 
nghị trong giải quyết vụ án về thừa kế trong thời gian tới. Để Tòa án thực sự là 
cán cân giúp bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế 
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp 
pháp của tổ chức, cá nhân. 
 Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỪA KẾ 
1. Một số khái niệm chung: 
1.1. Khái niệm thừa kế: 
Thừa kế là việc thực thi chuyển giao tài sản, lợi ích, nợ nần, các quyền, nghĩa vụ 
từ một người đã chết sang một cá nhân nào đó. Thừa kế có vai trò quan trọng từ 
rất lâu trong xã hội loài người. Các luật thừa kế thay đổi liên tục tùy theo cơ cấu  xã hội.      lOMoAR cPSD| 45740413
 Thừa kế với ý nghĩa là phạm trù kinh tế xuất hiện từ thời xa xưa của xã hội loài 
người, theo đó có thể hiểu đó là sự chuyển dịch tài sản thuộc sở hữu của người 
chết cho những người còn sống dựa trên quan hệ huyết thống và theo phong tục 
tập quán của địa phương. 
 Thừa kế với nghĩa là một quan hệ pháp luật dân sự trong đó các chủ thể của 
quan hệ thừa kế bao gồm người để lại di sản và người thừa kế. Người có tài sản 
để lại khi chết gọi là người để lại di sản. Người được hưởng tài sản của người chết 
để lại gọi là người thừa kế. Người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, mà không 
bao giờ là pháp nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ chức; nhưng người thừa kế có thể 
là cá nhân, hoặc cơ quan nhà nước, hoặc bất kỳ một chủ thế nào. Trong pháp luật 
dân sự Việt Nam, quyền đề lại di sản của người có tài sản cho người thừa kế và 
quyền thừa kế di sản của người khác là hai nội dung cơ bản của quyền thừa kế 
được pháp luật công nhận và bảo vệ.  1.2. Khái niệm di sản: 
Theo quy định tại Điều 612 của Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 thì di sản bao gồm 
tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với  người khác. 
1.3. Xác định và phân chia di sản thừa kế: 
Xác định và phân chia di sản thừa kế là việc Tòa án xác định di sản của người chết 
để lại là bao gồm những di sản gì. Sau đó sẽ tiến hành chuyển giao tài sản, lợi ích, 
nợ nần, các quyền, nghĩa vụ từ một người đã chết sang một cá nhân nào đó. 
 Trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật về xác định và phân chi di sản 
thừa kế theo quy định của BLDS năm 2015 thì gồm các nhóm nội dung chính như  sau: 
 Nhóm thứ nhất. Những quy định chung về thừa kế như lựa chọn văn bản pháp 
luật áp dụng khi có tranh chấp về thừa kế, thời điểm mở thừa kế, địa điểm mở 
thừa kế, thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế ... 
 Nhóm thứ hai: Những quy định về di sản, người thừa kế, người để lại di sản, 
người quản lý di sản, điều kiện để được hưởng thừa kế, điều kiện cho người khác 
hưởng thừa kế tài sản, nghĩa vụ của người thừa kế....      lOMoAR cPSD| 45740413
 Nhóm thứ ba: Những quy định về thừa kế theo di chúc. Để công nhận di chúc 
có hiệu lực thì di chúc phải được lập theo một trình tự do pháp luật quy định. Nếu 
di chúc vi phạm trình tự, thủ tục đó thì vô hiệu. Ngoài ra, trong nhóm này còn có 
các quy định về hiệu lực của di chúc, các hình thức di chúc... Nhóm thứ tư: 
Những quy định về thừa kế theo pháp luật, nhóm này bao gồm các quy phạm pháp 
luật quy định về các trường hợp thừa kế theo pháp luật, diện và hàng thừa kế thừa  kế thế vị. 
 Nhóm thứ năm: Những quy định về thanh toán và phân chia di sản như họp 
mặt những người thừa kế, ai là người phân chia di sản thừa kế, quyền và nghĩa vụ 
của người phân chia di sản thừa kế, thứ tự ưu tiên thanh toán ... 
Như vậy có thể nói rằng, pháp luật về thừa kếlà tổng thể các quy phạm pháp luật 
do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh 
việc chuyển dịch tài sản của người chết cho cá nhân, tổ chức theo di chúc hoặc 
theo pháp luật, cũng như quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ, phương thức bảo vệ 
các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế và được thực hiện theo những trình tự  thủ tục nhất định. 
2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về thừa kế: 
2.1. Nhóm quy phạm pháp luật quy định những vấn đề chung về thừa kế: 
– Pháp luật áp dụng khi giải quyết vụ án thừa kế: 
Về nguyên tắc, nếu quan hệ pháp luật dân sự phát sinh từ thời điểm nào sẽ áp dụng 
các quy định pháp luật có hiệu lực tại thời điểm đó để giải quyết. Như vậy, các 
quan hệ thừa kế có thời điểm mở thừa kế từ trước ngày Bộ luật dân sự năm 1995 
(có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/1996), mặc dù các bên chưa chia thừa kế, nay 
có yêu cầu chia thừa kế vẫn sẽ áp dụng các văn bản pháp luật có hiệu lực trước  đó. Cụ thể là: 
Nếu thời điểm mở thừa kế là từ ngày 30/9/1990 cho đến trước ngày 01/7/1996 thì 
áp dụng các quy định của Pháp lệnh thừa kế được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước 
công bố ngày 30/9/1990. Theo Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội 
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của 
Pháp lệnh thừa kế thì: Kể từ ngày 10/9/1990, đối với các vụ án về thừa kế đang      lOMoAR cPSD| 45740413
được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm hoặc đã có kháng nghị theo thủ 
tục giám đốc thẩm, thì đều phải áp dụng các quy định của Pháp lệnh thừa kê đề  giải quyết. 
 Riêng đối với giao dịch dân sự về nhà ở và quyền sử dụng đất, Nghị quyết của 
Quốc hội ngày 28/10/1995 về việc thi hành Bộ luật dân sự có hướng dẫn áp dụng 
pháp luật như sau: Các quy định của Bộ luật dân sự 1995 được áp dụng đối với 
giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập từ ngày Bộ luật dân sự 1995 có hiệu lực. 
Đối với giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập từ ngày 01/7/1991 đến ngày 
01/7/1996 thì thực hiện theo Pháp lệnh về nhà ở và các văn bản pháp luật khác có 
liên quan. Đối với giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991, 
thì sẽ thực hiện theo quy định của Quốc hội. Những quy định của Bộ luật dân sự 
về chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực áp dụng kể từ ngày Luật đất đai năm 
1993 có hiệu lực (ngày 15/10/1993). 
 Để hướng dẫn giải quyết các giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 
01/7/1991, ngày 20/8/1998 Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 
58/1998/NQ UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 
01/7/1991. Điều 91 của Nghị quyết này quy định: “Đối với trường hợp thừa kế 
nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 mà di sản thừa kế chưa được chia, nếu 
có yêu cầu chia thì giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế”. 
Như vậy, nếu thời điểm mở thừa kế được xác định trước ngày 01/7/1996, khi giải 
quyết những việc có liên quan đến thừa kế (trừ thừa kế quyền sử dụng đất), sẽ áp 
dụng Pháp lệnh thừa kế và các văn bản hướng dẫn thi hành để giải quyết. Đối với 
quan hệ thừa kế phát sinh từ ngày 01/7/1996 đến trước ngày 01/01/2006 thì áp 
dụng quy định của Bộ luật dân sự 1995. Đối với quan hệ thừa kế phát sinh từ ngày 
01/01/2006 trở đi thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự 2005. 
 – Về thời điểm mở thừa kế: 
 Khi một người chết thì việc thừa kế di sản của người ấy phát sinh. Vì vậy, thời 
điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản (hay còn gọi là người để lại di sản) 
chết. Đó là mốc thời gian mà kể từ thời điểm đó quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản 
của một người (người để lại di sản) được chuyển cho người thừa kế theo di chúc      lOMoAR cPSD| 45740413
hoặc theo pháp luật. Thông thường, nếu một người chết mà mọi người đều biết, 
thì thời điểm người để lại di sản chết là thời điểm người đó trút hơi thở cuối cùng. 
Căn cứ để xác định thời điểm mở thừa kế là những ghi chép trong giấy khai tử về 
giờ, ngày, tháng, năm người để lại di sản chết. Trường hợp không xác định được 
chính xác thời điểm người đó chết (do thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh ...) thì phải 
được xác định thời điểm người đó chết theo quyết định của Tòa án có thẩm quyền. 
Việc xác định thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa rất quan trọng vì thời điểm mở 
thừa kế là thời điểm để xác định. 
 Về địa điểm mở thừa kế: Trong suốt cuộc đời, một người có thể sinh sống ở 
nhiều nơi và tại mỗi nơi người đó đã từng sinh sống đều có thể có những tài sản 
thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của họ. Mặt khác, có thể có trường 
hợp một người tuy chết ở một nơi nhưng tại nơi đó không có một tài sản nào thuộc 
quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của người đã chết. Vì vậy, theo quy định tại 
Điều 611 của BLDS năm 2015, việc xác định địa điểm mở thừa kế có thể theo nơi 
cư trú, hoặc nơi có tài sản của người để lại di sản và tuân theo thứ tự sau: 
Trước tiên, địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản vì 
nơi cư trú cuối cùng thường là nơi người đó có tài sản, nơi tập trung các giao dịch 
dân sự của người để lại di sản khi còn sống, nơi phát sinh các quyền tài sản và 
nghĩa vụ tài sản của người đó, nơi người đó thực hiện các quyền tài sản và nghĩa 
vụ tài sản. Vì vậy, đó là nơi thuận tiện cho việc xác định và phân chia di sản. 
Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản thì địa điểm 
mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản. Trong trường hợp người để lại di sản có tài 
sản ở nhiều nơi, thì nơi nào có phần lớn tài sản của người đó sẽ được xác định là  nơi mở thừa kế. 
 Xác định địa điểm mở thừa kế có ý nghĩa quan trọng vì đó là nơi thực hiện việc 
quản lý di sản, kiểm kê di sản trong trường hợp cần thiết nhằm ngăn chặn những 
hành vi phân tán hoặc chiếm đoạt tài sản trong khối di sản, định giá giá trị di sản; 
là nơi thực hiện việc thanh toán nghĩa vụ tài sản và phân chia di sản. Địa điểm mở 
thừa kế còn là nơi thực hiện các thể thức liên quan đến di sản như việc từ chối      lOMoAR cPSD| 45740413
nhận di sản. Các tài sản của người để lại di sản dù rải rác ở nhiều nơi đều phải kê 
khai tại địa điểm mở thừa kế. 
– Thời hiệu khởi kiện về thừa kế: 
Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi để yêu cầu Tòa án, 
cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm 
phạm. Nếu thời hạn đó kết thúc thì chủ thể mất quyền khởi kiện. 
 Theo quy định tại Điều 648 của BLDS năm 1995 quy định chỉ có một loại thời 
hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Điều 623 
của BLDS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định như sau: Thời hiệu để người 
thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động 
sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người đang 
quản lý di sản này. Trường hợp không có người quản lý di sản thì giải quyết như  sau: 
 Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều  236 của BLDS; 
 Di sản thuộc về Nhà nước nếu không có người chiếm hữu quy định tại mục nêu  trên. 
 Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế hoặc bác bỏ quyền 
thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. 
 Thời hiệu để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết 
để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. 
Theo quy định tại Điều 648 của BLDS năm 1995 quy định chỉ có một loại thời 
hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Điều 623 
của BLDS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định như sau: Thời hiệu để người 
thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động 
sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người đang 
quản lý di sản này. Trường hợp không có người quản lý di sản thì giải quyết như  sau: 
Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236  của BLDS;      lOMoAR cPSD| 45740413
Di sản thuộc về Nhà nước nếu không có người chiếm hữu quy định tại mục nêu  trên. 
 Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế hoặc bác bỏ quyền 
thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. 
 Thời hiệu để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết 
để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Theo quy định tại Điều 648 của 
BLDS năm 1995 quy định chỉ có một loại thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 
10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Điều 623 của BLDS năm 2015 đã sửa đổi, bổ 
sung quy định như sau: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm 
đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết 
thời hạn này thì di sản thuộc về người đang quản lý di sản này. Trường hợp không 
có người quản lý di sản thì giải quyết như sau: 
 Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều  236 của BLDS; 
 Di sản thuộc về Nhà nước nếu không có người chiếm hữu quy định tại mục nêu  trên. 
 Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế hoặc bác bỏ quyền 
thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. 
Thời hiệu để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết 
để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. 
 2.2. Các quy định về thừa kế theo di chúc: (Từ các Điều 624 đến Điều 648  của BLDS năm 2015). 
 Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho 
người khác sau khi chết. Thừa kế theo di chúc là một trong hai hình thức thừa kế 
được pháp luật quy định. Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của 
người đã chết cho những người còn sống theo quyết định của người đó trước khi 
chết được thể hiện trong di chúc. Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người 
lập di chúc, do đó di chúc phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói 
riêng. Vì vậy, một người muốn định đoạt tài sản của mình bằng di chúc cần phải 
tuân thủ các quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc.      lOMoAR cPSD| 45740413
 Di chúc được coi là hợp pháp khi đủ các điều kiện sau: Theo quy định tại Điều  630 của BLDS 2015: 
+ Người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không ai bị 
lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; 
+ Nội dung di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; 
hình thức di chúc không trái quy định của luật. 
 Nội dung của di chúc chính là thể hiện ý chí của người lập di chúc về việc định 
đoạt tài sản của mình cho những người thừa kế. Người lập di chúc chỉ định người 
thừa kế, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, phân định di sản thừa kế, đưa ra các 
điều kiện để hưởng, chia di sản thừa kế... ý chí của người lập di chúc phải phù 
hợp với ý chí nhà nước, không vi phạm những điều pháp luật đã cấm, không trái  đạo đức xã hội. 
– Hiệu lực pháp luật của di chúc: Xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc làmột 
công việc quan trọng liên quan đến quyền lợi của những người thừa kế nói chung 
và của người thừa kế theo di chúc nói riêng. Bởi lẽ chỉ khi nào di chúc có hiệu 
lực thì quyền hưởng di sản của những người thừa kế được xác định trong di 
chúc mới được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Vấn đề này ảnh hưởng 
rất lớn đến quyền lợi của những người thừa kế. Vì vậy, khi xác định một di chúc 
có hiệu lực hay không cần phải hết sức thận trọng, chính xác và phải tuân thủ 
theo quy định của pháp luật. Theo Điều 643 của BLDS 2015 quy định: “Di chúc 
có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế”. Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc 
một phần: Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với 
người lập di chúc; Cơ quan tổ chức chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại 
vào thời điểm mở thừa ké. 
 Đối với những người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc gồm: Con 
chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con thành niên mà không có khả năng lao 
động. Những người này sẽ được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một 
người thừa kế theo pháp luật nếu di sản thừa kế được chia theo pháp luật, trong 
trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng 
phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó.      lOMoAR cPSD| 45740413
 Đối với di sản dùng vào việc thờ cúng là trường hợp người lập di chúc để lại 
một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa 
kế và được giao cho người đã được chỉ định để quản lý thực hiện vào việc thờ 
cúng. Nếu người được chỉ định không thực hiện đúng hoặc không theot hỏa thuận 
thì người thừa kế có quyền giao cho người khác quản lý. Nếu không chỉ định ai 
là người quản lý thì những người thừa kế củ ra người quản lý di sản. Trường hợp 
tất cả những người thừa kế theo di chúc đã chết thì phần di sản dùng vào việc thờ 
cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc 
diện thừa kế theo pháp luật. 
 Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. 
Việc tặng phải được ghi rõ trong di chúc. Người được di tặng là cá nhân phải còn 
sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa 
kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người được 
di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Người 
được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần di tặng, trừ trường 
hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc 
thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người  này. 
 2.3. Những quy định thừa kế theo pháp luật: (Từ các Điều 649 đến Điều 662 của  BLDS 2015). 
Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế  do pháp luật quy định. 
– Diện và hàng thừa kế theo pháp luật 
Diện thừa kế theo pháp luật: Việc xác định diện thừa kế theo pháp luật là việc rất 
quan trọng, bởi đó là cơ sở để xác định những người có quyền hưởng di sản thừa 
kế, người không có quyền hưởng di sản và đảm bảo quyền lợi ích của các chủ thể 
khác trong mỗi quan hệ thừa kế. Mặt khác, việc xác định đúng những trường hợp 
thuộc diện thừa kế theo pháp luật sẽ ngăn chặn được những hành vi lừa dối, trái 
pháp luật nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.      lOMoAR cPSD| 45740413
 Diện thừa kế theo pháp luật bao gồm những cá nhân còn sống vào thời điểm 
mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết có quan hệ hôn 
nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản. Hàng 
thừa kế theo pháp luật: Hàng thừa kế là thứ tự những người thuộc diện thừa kế 
được hưởng di sản theo trình tự tuyệt đối dựa trên nguyên tắc hàng gần loại trừ 
hàng xa, tuỳ thuộc vào mức độ thân thích với người để lại di sản, mà không phân 
biệt giới tính, độ tuổi địa vị xã hội, không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành 
vi dân sự và những người trong cùng một hàng thừa kế được hưởng phần di sản  ngang nhau. 
 Trong quan hệ thừa kế, có nhiều người thuộc diện thừa kế theo quy định của 
pháp luật nhưng không phải tất cả những người đó đều hưởng di sản cùng một 
lúc. Căn cứ vào diện thừa kế và mức độ gần gũi với người để lại di sản mà người 
thừa kế được hưởng di sản theo trình tự nhất định. Việc chia hàng thừa kế có ý 
nghĩa thiết thực đảm bảo cho những người thừa kế cùng hàng được hưởng những 
phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế 
nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết hoặc bị truất quyền hưởng thừa 
kế hoặc từ chối nhận di sản một cách hợp pháp. Theo quy định tại khoản 1 Điều 
651 của BLDS năm 2015 thì người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ  tự sau đây. 
 Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con 
đẻ, con nuôi của người chết. 
 Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị 
ruột, em ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, 
bà nội, ông ngoại, bà ngoại. 
 Những trường hợp thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường 
hợp sau: Không có di chúc; Di chúc không hợp pháp; Những người thừa kế theo 
di chúc đều chết trước người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế 
theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế; Những người được chỉ định 
làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản.      lOMoAR cPSD| 45740413
 Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây: 
Phần di sản không được định đoạt trong di chúc; Phần di sản có liên quan đến 
phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật; Phần di sản có liên quan đến người 
được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền 
nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan 
đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời  điểm mở thừa kế. 
 – Thừa kế thế vị: Thừa kế thế vị là việc một người thừa kế được hưởng di sản 
với tư cách thay vị trí của một người đã chết để nhận phần di sản mà người đó 
được hưởng nếu còn sống. 
 Theo Điều 652 của BLDS năm 2015: “Trong trường hợp con của người để lại 
di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được 
hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống nếu cháu 
cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng 
phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ 
của chắt được hưởng nếu còn sống”. 
Trường hợp vợ chồng đã phân chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau 
đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Trường hợp vợ 
chồng xin ly hôn mà chưa hoặc đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định 
chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa 
kế di sản. Người đang là vợ, chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì 
dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản. Theo Điều 652 
của BLDS năm 2015: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước 
hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản 
mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống nếu cháu cũng chết trước 
hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà 
cha hoặc mẹ của chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được 
hưởng nếu còn sống”. 
 Trường hợp vợ chồng đã phân chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà 
sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Trường hợp      lOMoAR cPSD| 45740413
vợ chồng xin ly hôn mà chưa hoặc đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết 
định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được 
thừa kế di sản. Người đang là vợ, chồng của một người tại thời điểm người đó 
chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản. Theo Điều 
652 của BLDS năm 2015: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết 
trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần 
di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống nếu cháu cũng chết 
trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản 
mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được 
hưởng nếu còn sống”. 
 Trường hợp vợ chồng đã phân chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà 
sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Trường hợp 
vợ chồng xin ly hôn mà chưa hoặc đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết 
định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được 
thừa kế di sản. Người đang là vợ, chồng của một người tại thời điểm người đó 
chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản. 
Chương II: MỘT SỐ SAI SÓT, VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH 
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN THỪA KẾ 
Khi các chủ thể trong xã hội phát sinh tranh chấp về di sản thừa kế từ đó làm phát 
sinh vụ án tranh chấp thừa kế. Một hoặc nhiều cá nhân hoặc pháp nhân có thể 
khởi kiện vụ án thừa kế tại Tòa án, căn cứ vào đơn khởi kiện Tòa án thụ lý giải 
quyết vụ án. Quyết định của Tòa án bằng bản án hoặc quyết định khi có hiệu lực 
pháp luật thì buộc các bên phải thi hành. Tuy nhiên thực tế trong những năm qua 
có rất nhiều vụ án thừa kế không giải quyết được hoặc khi ban hành bản án thì 
được coi là chưa thấu tình đạt lý, khó đưa ra thi hành án. Qua tổng kết của hệ 
thống Tòa án thì trong quá trình giải quyết vụ án xác định phân chia di sản thừa 
kế có rất một số sai sót, vướng mắc. Cụ thể như sau: 
 1. Việc xác định tư cách đương sự:      lOMoAR cPSD| 45740413
Các vụ án tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp về xác định và phân chia di 
sản thừa kế nói riêng là những vụ án tranh chấp phức tạp. Việc xác định tư cách 
của đương sự trong vụ án có nhiều sai sót, xác định sai tư cách đương sự, xác định 
thiếu đương sự có quyền tham gia tố tụng. Do có những vụ án thừa kế liên quan 
đến rất nhiều đương sự, với khoảng thời gian rất dài kể từ thời điểm mở thừa kế, 
các hàng thừa kế có nhiều mà người chết, người sống hoặc không rõ địa chỉ của 
họ ... Do vậy việc xác định tư cách đương sự tham gia tố tụng cũng gặp không ít  khó khăn. 
– Xác định không đúng tư cách của bị đơn 
Tại khoản 3 Điều 68 của BLTTDS năm 2015 quy định: “Bị đơn trong vụ án dân 
sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ 
luật này quy định khỏi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho 
rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm”. Trường 
hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản 
của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng. 
– Bỏ sót người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan 
Theo quy định tại khoản 4 Điều 68 của BLTTDS thì: “Người có quyền lợi nghĩa 
vụ liên quan trong vụ án dân sự là người không khởi kiện, không bị kiện, nhưng 
việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ 
được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận 
đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. 
Trong trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa 
vụ của người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư 
cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham 
gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. 
2. Việc xác định di sản thừa kế: 
 Việc xác định khối di sản cũng có nhiều trường hợp xác định không đúng. Có 
trường hợp bỏ sót khối di sản là do xác định sai thời điểm mở thừa kế song có vụ 
xác định sai khối di sản là do người quản lý khối di sản đã tự ý bán bớt một phần 
di sản. Tòa án không đưa phần đã bán vào khối di sản; không xác định rõ phần      lOMoAR cPSD| 45740413
quyền sở hữu về tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác; 
đặc biệt có vụ di sản đã có sự thay đổi về quyền sở hữu khi Nhà nước thực hiện 
chính sách cải tạo nhà cửa hay đã chuyển phần diện tích đất thổ cư thành đất phần 
trăm khi thực hiện chính sách đất đai nên đất đó không còn thuộc quyền sử dụng 
hợp pháp của người để lại di sản, nhưng Tòa án vẫn đưa đất đó vào khối di sản để 
chia hoặc tài sản mà người đễ lại thừa kế đã cho, bán trước khi mở thừa kế vẫn 
tinh vào khối di sản hoặc người để lại di sản chỉ cho sử dụng chứ chưa định đoạt, 
chuyển quyền sở hữu cho người khác nhưng Tòa án lại tách ra khỏi khối di sản. 
Có một thời gian ngắn việc xác định di sản là quyền sử dụng đất không thống 
nhất, đường lối xét xử không thống nhất dẫn đến có trường hợp chỉ xác định di 
sản là giá trị vật liệu nhà, cây lâu năm trên đất... còn giá trị quyền sử dụng đất 
không coi là di sản hoặc chỉ coi giá trị vật liệu nhà và phần đất trên có căn nhà là 
di sản, còn diện tích đất xung quanh nhà không coi là di sản. Vì đất đó đã được 
người khác đứng tên trong số địa chính hoặc đã được cấp giấy chứng nhận quyền 
sử dụng đất, nên người đã đứng tên hoặc đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử 
dụng đất được công nhận là chủ sử dụng đất hợp pháp. Hiện nay, riêng đất trên có 
nhà, công trình kiến trúc, cây lâu năm và đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền 
sử dụng đất theo Luật Đất đai cho người để lại di sản thì đường lối giải quyết đã 
thống nhất và đi vào ổn định. Tuy nhiên đối với trường hợp khi mở thừa kế trên 
đất có nhà, cây lâu năm nhưng sau này do chiến tranh, thiên tai ... làm cho nhà và 
cây lâu năm không còn hoặc do người quản lý di sản tự ý phá đi làm lại nhà mới 
từ lâu hoặc đối với trường hợp trên đất không có tài sản, đất nông nghiệp để trồng 
cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản mà người để lại di sản chưa được cấp giấy 
chứng nhận quyền sử dụng đất theo của Luật Đất đai nhưng người đang quản lý, 
sử dụng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai thì có coi 
đất đó là di sản hay không? Hiện vẫn còn ý kiến khác nhau trong mỗi ngành cũng 
như giữa các ngành chức năng với nhau. 
3. Sai sót trong việc áp dụng pháp luật: 
Trong quá trình giải quyết vụ án tranh chấp di sản thừa kế Thẩm phán phải áp 
dụng rất nhiều văn bản pháp luật để giải quyết như Bộ luật dân sự, Luật đất đai,      lOMoAR cPSD| 45740413
Luật hôn nhân gia đình ... Các văn bản pháp luật qua mỗi thời kỳ có những quy 
định khác nhau về quyền sở hữu tài sản, đặc biệt là quyền sử dụng đất. Thẩm phán 
thường có những sai sót trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc xác định di sản 
không đúng, xác định người được hưởng thừa kế không đầy đủ. Nguyên nhân là 
do trình độ chuyên môn của một số Thẩm phán chưa đáp ứng được yêu cầu, do 
chủ quan, do nghiên cứu hồ sơ chưa kỹ.... nên dễ áp dụng không đúng các quy 
định của pháp luật. Điển hình là việc xác định các đương sự hưởng di sản thừa kế, 
thường là thiếu người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, không xác định đến nghĩa 
vụ của người có di sản để lại, không xác định đầy đủ đến những người được thừa 
kế mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, quyền và nghĩa vụ của người  quản lý di sản..... 
Chương III: NGUYÊN NHÂN CỦA CÁC SAI SÓT, VƯỚNG MẮC VÀ 
GIẢI PHÁP KHÁC PHỤC 
1. Nguyên nhân khách quan: 
1.1. Về điều kiện kinh tế xã hội: 
Tình hình kinh tế xã hội phát triển không đều thu nhập quốc dân còn thấp, trình 
độ dân trí chưa cao nay lại chịu tác động nhiều mặt của nền kinh tế thị trường. 
Nền kinh kế thị trường đã thúc đẩy nền kinh tế đất nước chuyển biến mạnh dẫn 
đến kích thích các giao lưu dân sự phát triển kéo theo các tranh chấp dân sự phổ 
biến hơn. Quyền sử dụng đất, nhà ở trở thành nhu cầu thiết yếu hơn và mọi người 
đều muốn pháp luật bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. 
Những năm gần đây, do việc đô thị hóa, xây dựng mới các khu kinh tế, khu du 
lịch và các công trình xây dựng điện, nước, giao thông, bưu điện, trung tâm văn 
hóa... ngày càng nhiều; dân số không ngừng gia tăng ở các thành phố, thị xã, các 
khu kinh tế và đặc biệt là vùng nông thôn; giá trị quyền sử dụng đất tăng lên rất 
nhiều lần và có giá trị lớn nên các tranh chấp về di sản thừa kế liên quan nhà đất 
xảy ra ngày càng nhiều và phức tạp. 
1.2. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, rõ ràng, không có tính ổn 
định: Các loại vụ án tranh chấp về di sản thừa kế ngày càng trở nên 
phức tạp và từng lúc, từng nơi nảy sinh những vẫn đề mới đòi hỏi      lOMoAR cPSD| 45740413
phải có các quy định điều chỉnh cho phù hợp. Tuy nhiên thực tế cuộc 
sống cho thấy những quy định mang tính chuẩn mực của Nhà nước ta 
thường ban hành chậm, một số chính sách, pháp luật tuy được sửa 
đổi, bổ sung nhưng lại có những quy định chưa sát với thực tế, những 
văn bản pháp luật quan trọng như Bộ luật dân sự, Luật đất đai, Luật 
hôn nhân gia đình.... liên quan đến rất nhiều quyền và nghĩa vụ của 
công dân nhưng chưa có văn bản hướng dẫn đầy đủ, có hệ thống về 
thừa kế, dẫn đến việc hiểu, giải thích rất khác nhau giữa các ngành, 
các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không 
thống nhất... Một số văn bản quy phạm pháp luật chưa rõ ràng, nhưng 
các cơ quan có thẩm quyền chưa hướng dẫn kịp thời, làm cho việc 
giải quyết nhiều vụ án có khó khăn và trong một số trường hợp có sai  sót. 
2. Nguyên nhân chủ quan: 
2.1. Cán bộ thực thi pháp luật chưa tốt, sự phối hợp chưa cao: 
Sự phối hợp giữa Tòa án và các cơ quan nhà nước, tổ chức khác chưa nhịp nhàng 
trong việc giải quyết vụ án thừa kế. Chưa nhận thức đúng đắn về vai trò trách 
nhiệm của mình trong việc giải quyết vụ việc về thừa kế. 
 Thẩm phán có trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu nên khi giải 
quyết án còn phạm những sai sót. Bên cạnh đó có Thẩm phán thiếu tinh thần trách 
nhiệm, xây dựng, điều tra sơ sài, nghiên cứu hồ sơ không kỹ. Thẩm phán chưa 
nghiên cứu kỹ, cập nhật văn bản hướng dẫn nên khi áp dụng pháp luật sai. 
Chế độ tiền lương Thẩm phán không cao, không đủ đảm bảo cho cuộc sống, làm 
cho các Thẩm phán chưa thật yên tâm, toàn ý với nghề, có Thẩm phán bị chi phối 
vì lý do này khác nên chưa thật vô tư, khách quan trong xét xử cũng làm ảnh 
hưởng đến chất lượng giải quyết các vụ án thừa kế. 
3. Các giải pháp khắc phục: 
 Để nâng cao chất lượng xét xử, giải quyết các vụ án tranh chấp về thừa kế cần 
có nhiều giải pháp đồng bộ, cụ thể như sau:  - 
Giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật:      lOMoAR cPSD| 45740413
Bộ luật Dân sự quy định có phần thiên về hướng dẫn cách xử sự cho công dân, 
nhưng hầu hết các quy định trong phần thừa kế lại có tính chất dứt khoát. Có 
những quy định chưa sát với tâm lý, tập quán của người dân. Trong khi người dân 
chưa hiểu biết về các quy định này, không hành xử đầy đủ như luật yêu cầu về 
hình thức thể hiện văn bản, dù nội dung là đúng ý chí của họ. Dẫn đến khó khăn 
khi áp dụng pháp luật, thậm chí có trường hợp áp dụng theo thực tế cuộc sống, 
chứ không theo quy định của luật. 
 Cần phải quy định trong Bộ luật Dân sự theo hướng toàn bộ các tranh chấp thừa 
kế đều thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân giải quyết, thì mới tạo ra sự thống 
nhất trong áp dụng pháp luật và đường lối xử.  – 
Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ: Thực hiện nghiêm chỉnh các quy 
địnhcủa pháp luật khi giải quyết các vụ án tranh chấp về thừa kế. Kịp thời hướng 
dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, để tháo gỡ các vướng mắc trong thực tiễn xét 
xử, giải quyết các vụ việc dân sự nói chung, các vụ án thừa kế nói riêng. Tăng 
cường hơn nữa công tác tập huấn các văn bản quy phạm pháp luật mới có liên 
quan đến công tác xét xử các vụ án tranh chấp thừa kế. Tổ chức rút kinh nghiệm 
về những sai sót mà Tòa án các địa phương thường gặp. Tiếp tục đẩy mạnh công 
tác đào tạo v bồi dưỡng chuyên môn định kỳ cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư 
ký Tòa án các cấp để nâng cao trình độ.  – 
Giải pháp về tổ chức, quản lý. Tổ chức thi tuyển chọn người giỏi để bổ 
sungkịp thời số cán bộ, Thẩm phán còn thiếu cho các đơn vị trong toàn hệ thống. 
Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị. Đối với các đơn vị có kết quả 
công tác chưa cao thì cần làm rõ các nguyên nhân, xử lý trách nhiệm người đứng 
đầu đơn vị cơ quan. Tăng cường tinh thần trách nhiệm của cán bộ, Thẩm phán 
trong công tác, nâng cao hơn nữa kỷ luật công vụ.  – 
Giải pháp về bảo đảm cơ sở vật chất và quan tâm hơn nữa về chế độ, 
chínhsách cho cán bộ làm công tác Tòa án, trong đó cần đảm bảo trang thiết bị, 
máy móc phục vụ cho cán bộ, Thẩm phán làm việc. Kịp thời sửa chữa, thay mới 
các thiết bị đã hư hỏng hoặc quá lạc hậu. Quan tâm hơn nữa về chế độ, chính sách      lOMoAR cPSD| 45740413
đối với cán bộ, Thẩm phán trong toàn hệ thông, đặc biệt là cán bộ, Thẩm phán 
cấp huyện, vùng sâu, vùng xa, dân tộc, miền núi, hải đảo.   KẾT LUẬN 
 Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan 
trọng trong hệ thống pháp luật và bản thân nó cũng phản ánh phần nào bản chất 
của chế độ xã hội đó, thậm chí còn phản ánh được tính chất từng giai đoạn trong 
quá trình phát triển kinh tế, xã hội của một chế độ xã hội. 
 Trong bối cảnh đất nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tốc 
độ đô thị hóa ngày càng nhanh, đời sống kinh tế xã hội ngày càng phát triển dẫn 
đến việc tranh chấp về dân sự nói chung và đặc biệt tranh chấp thừa kế ngày càng 
tăng và phức tạp. Do đó, đòi hỏi phải có những quy định của pháp luật về thừa kế 
phù hợp với đời sống để đảm bảo quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp 
năm 2013 và đáp ứng nguyện vọng chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân. 
 Ở Việt Nam, từ khi hình thành cho đến nay, pháp luật về thừa kế luôn được xây 
dựng và hoàn thiện phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội qua từng giai đoạn nhất 
định. Pháp luật về thừa kế ở giai đoạn sau thường kế thừa và tiếp tục phát huy 
những quy định có nội dung tiến bộ của giai đoạn trước, đồng thời bổ sung những 
quy định mới cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Cụ thể là cá nhân có quyền 
định đoạt tài sản của mình cho người khác, đồng thời cũng có quyền hưởng di sản 
thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Mặc dù vậy, pháp luật hiện hành vẫn 
chưa điều chỉnh kịp thời những quan hệ xã hội phát sinh trong giai đoạn hiện nay 
liên quan đến qua hệ thừa kế và vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập cả về mặt nội dung 
và hình thức, cũng như những sai sót của người tiến hành tố tụng đã đề cập ở phần 
trên. Để tạo giải quyết các vụ án về xác định phân chia di sản thừa kế đúng quy 
định, thống nhất thì đầu tiên phải nghiên cứu tìm ra nguyên nhân của những thiếu 
sót, hạn chế, bất cập và ban hành các quy định sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện chế 
định về thừa kế nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung, đưa ra các giải pháp 
khắc phục là việc làm nghiêm túc và cần thiết.