PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài hế giới đã bước vào thế kỷ 21 với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học - công nghệ (KH - CN). Ngày nay KH - CN được ứng dụng rất
nhiều vào cuộc sống của con người. Đặc biệt, ứng dụng tri thức KH - CN trong
phát triển kinh tế xã hội là một hướng đi đúng.
các nước phát triển hiện nay, nền kinh tế phát triển ứng dụng tri thức KH CN.
Đối với Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế theo định ớng XHCN,
mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trong 30 năm đổi mới vừa qua, song nền
kinh tế vẫn còn kém phát triển so với các ớc khu vực thế giới, đồng thời đang
gặp phải những thách thức không nhỏ: đó là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực do xuất phát của Việt Nam quá thấp, lại phải phát triển
trong môi trường cạnh tranh quyết liệt. Sự khác biệt về trình độ công nghệ của Việt
Nam so với các nước phát triển rất lớn, nhìn chung công nghệ nước ta tục hậu so
với trình độ chung của thế giới khoảng 3, 4 thập kỷ.
Quá trình CNH - HĐH dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động giữa
các ngành, đặc biệt sự chuyển lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực công
nghiệp dịch vụ. Mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020
là đẩy mạnh nhanh quá trình đổi mới kỹ thuật công nghệ trong sản xuất, mở rộng các
khu công nghiệp, khu chế suất đưa Việt Nam trở thành một nước trình độ KTCN
trung bình tiên tiến so với các nước trong khu vực. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng trưởng ng nghiệp dịch vụ, giảm tỷ trọng của nông nghiệp trong
GDP.
Hội nhập nền kinh tế thế giới đang là một xu thế tất yếu của thời đại. Vì vậy bên cạnh
sử dụng năng lực nội sinh, các nước đang phát triển như Việt Nam, không con
đường nào khác phải biết vận dụng những thành tựu của khoa học công nghệ phải
bắt kịp tri thức mới để phát triển nhanh nền kinh tế. vậy vấn đề đặt ra cho Việt
Nam hiện nay là phát triển nguồn nhân lực có tri thức, trình độ, tay nghề cho sự phát
triển nền kinh tế.
Do đó KH - CN được coi là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH - HĐH ở Việt
Nam. Nhiệm vụ phát triển tri thức KH - CN một nhiệm vụ cấp thiết hiện nay,
gắn chặt hơn nữa KH - CN với phát triển kinh tế xã hội.
Việc nghiên cứu đề tài vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển kinh
tế xã hội Việt Namsẽ giúp ta tìm hiểu, đánh giá đúng được vai trò của khoa học
công nghệ để từ đó những giải pháp tận dụng khoa học công nghđể phát triển
đất nước.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu của đề tài gày nay khoa học công nghệ đã
trở thành yếu tố cốt tử của sự phát triển, lực lượng sản xuất trực tiếp của
nền kinh tế toàn cầu. Điều này được phản ánh trong việc hoạch định các
chính sách và chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế của nhiều
nước trên thế giới. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào trình độ sự phát triển cụ thể của từng
nước xây dựng chiến lược, chính sách phát triển khoa học cụng nghệ mang tính
đa dạng đặc thù đối với từng giai đoạn phát triển cụ thphù hợp với hoàn cảnh,
điều kiện cơ sở vật chất của mỗi quốc gia,
Trong quá trình hội nhập thế giới, nước ta ngày càng được tiếp cận với nhiều nguồn
khoa học công nghệ hiện đại. Nhận thức được vai trò quan trọng của khoa học công
nghệ, Đảng nhà nước ta đã nhiều nghị quyết quan trọng về khoa học công nghệ
khẳng định: "Cùng với giáo dục, đào tạo khoa học công nghệ quốc sách hàng
đầu, là động lực phát triển kinh tế -xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập
dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá- hiên đại hoá đất
nước bằng cách dựa vào khoa học, công nghệ "
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Tìm hiểu khái niệm khoa học - công nghệ.
- Vai trò của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển kinh tế xã hội ViệtNam hiện
nay.
- Chiến lược phát triển khoa học - công nghệ ở Việt Nam. Đề xuất các giải
pháp để áp dụng khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế xã hội
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Khoa học – Công nghệ
- Phạm vi nghiên cứu: sự phát triển kinh tế xã hội tại Việt Nam- Phương pháp nghiên
cứu:
+ Tìm hiểu, thu thập, phân tích và tổng hợp các thông tin về khoa học công nghệ
tình hình phát triển KT – XH ở Việt Nam.
+ Thu thập tài liệu liên quan đến đề tài.
+ Tham khảo giáo trình, sách, báo, tạp chí chuyên ngành, khoá luận tốt nghiệp của
khoá trước, qua mạng internet và các nguồn tài liệu khác.
CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ
1.1. Khái niệm về khoa học
Trong lịch sử phát triển duy của nhân loại rất nhiều c quan niệm khác nhau
về khoa học, một mặt nó phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội; mặt khác phụ
thuộc vào trình độ nhận thức. Xét về phương diện xã hội, khoa học là một hiện tượng
xã hội có nhiều mặt, trong đó biểu hiện sự thống nhất giữa những yếu tố vật chất và
những yếu tố tinh thần. Về phương diện triết học, khoa học một hình thái ý thức
hội đặc biệt. Đặc biệt, bởi khoa học không chỉ phản ánh tồn tại hội, phụ thuộc
vào tồn tại xã hội, những chân của nó được thực tiễn xã hội kiểm nghiệm mà khoa
học còn kết quả của quá trình sáng tạo logic, của trực giác thiên tài. Còn bởi vì,
khoa học (cùng với ng nghệ) những yếu tố ngày càng vai trò đặc biệt quan
trọng của lực lượng sản xuất, quyết định trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
nói riêng, của phương thức sản xuất của hội nói chung. Về phương diện nhận
thức luận, khoa học là giai đoạn cao của nhận thức - giai đoạn nhận thức lý luận.
Ngày nay, quan niệm về khoa học được phổ biến với những đặc trưng bản sau
đây:
ě Khoa học là một hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người và về tư duy
của con người. Nó nghiên cứu và vạch ra những mối quan hệ nội tại, bản chất của
các sự vật, hiện tượng, quá trình, từ đó chỉ ra những quy luật khách quan của sự
vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
ě Hệ thống tri thức khoa học được hình thành trong quá trình nhận thức của con người
từ trực quan sinh động, đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn,
dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật, thuyết,... Như vậy, tri thức khoa học
không chỉ là sự phản ánh thế giới hiện thực, mà còn được kiểm nghiệm qua thực
tiễn.
ě Hệ thống tri thức khoa học được hình thành trong quá trình nhận thức của con người
từ trực quan sinh động, đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn,
dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật, thuyết,... Như vậy, tri thức khoa học
không chỉ là sự phản ánh thế giới hiện thực, mà còn được kiểm nghiệm qua thực
tiễn.
ě Hệ thống tri thức khoa học còn có thể được hình thành nhờ trực giác hoặc tuân theo
những quy luật của logic học. Loại tri thức khoa học này, xét cho đến cùng cũng
là sự phản ánh thế giới hiện thực và được thực tiễn kiểm nghiệm. Do đó, một hệ
thống tri thức được coi là tri thức khoa học phải bảo đảm tính đúng đắn, tính chân
thực.
ě Nhờ giáo dục, đào tạo, hệ thống tri thức khoa học có sức sống mãnh liệt, được ph
biến rộng rãi lan truyền rất nhanh chóng. Tốc độ lan truyền đó đã tăng lên rất
nhiều lần nhờ vào quá trình toàn cầu hóa và công nghệ thông tin. Nó không chỉ là
sức mạnh, là sự biến đổi mau lẹ, mà còn là biểu hiện sự giàu có, thịnh vượng của
mọi quốc gia, dân tộc và cá nhân.
ě Hệ thống tri thức khoa học là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài, liên tục của
duy nhân loại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay đang trở thành i
sản chung của xã hội loài người.
Như vậy, qua một số những đặc trưng cơ bản trên đây về quan niệm khoa học, ta
thấy nổi lên cái cốt lõi của khoa học - đó hệ thống tri thức chân thực về tự
nhiên, hội duy. Khoa học hệ thống tri thức chân thực, nhưng phải
mọi tri thức chân thực đều là khoa học hay không? Để hiểu rõ điều này, chúng ta
phải đi tìm hiểu nguồn gốc, bản chất của tri thức, con đường từ tri thức đến khoa
học.
1.2. Khái niệm về công nghệ
Công nghệ theo nghĩa chung nhất thể coi đó tập hợp tất cả những sự hiểu
biết của con người o việc biến đổi, cải tạo thế giới nhằm đáp ứng nhu cầu sống
của con người, sự tồn tại phát triển của hội. Công nghệ trong sản xuất
một tập hợp các phương tiện vật chất, các phương pháp, các quy tắc, các kỹ năng
được con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra một sản
phẩm nào đó cần thiết cho xã hội.
Có ba nghĩa chủ yếu về công nghệ được sử dụng phổ biến nhất hiện nay:
Một là, công nghệ được coi như một bộ môn khoa học ứng dụng, triển khai
(trong tương quan với khoa học bản), trong việc vận dụng các quy luật tự nhiên
và các nguyên khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần ngày
càng cao của con người.
Hai là, công nghệ được hiểu với tư cách như là các phương tiện vật chất - kỹ
thuật, hay đó là sự thể hiện cụ thể của tri thức khoa học đã được vật thể hóa thành
các công cụ, các phương tiện kỹ thuật cần cho sản xuất và đời sống.
Ba là, công nghệ bao gồm các cách thức, các phương pháp, các thủ thuật, các
kỹ năng được nhờ dựa trên sở tri thức khoa học được sử dụng vào sản
xuất trong các ngành khác nhau để tạo ra các sản phẩm.
Ngày nay, trong thời địa của cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới, hay cách
mạng thông tin công nghệ lần thứ năm, khi mà khoa học đang trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, trí tuệ con người đang giữ vai trò động lực trực tiế quyết
định sự phát triển của công nghệ nói riêng, và xã hội nói chung thì quan niệm về
công nghệ, các thành phần cấu trúc của nó lại một lần nữa có sự mở rộng và phát
triển rất cơ bản.
……..
CHƯƠNG 2:
KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Vai trò của KH-CN trong việc phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
Công nghiệp hóa là con đường phát triển tất yếu của tất cả các nước trên thế giới.
Bởi vì, mục đích quan trọng nhất của công nghiệp hóa phát triển sản xuất
hội, trước hết phát triển lực lượng sản xuất, nhằm thỏa mãn các nhu cầu ngày
càng tăng của con người và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Sự gắn kết chặt chẽ
giữa công nghiệp hóa với hiện đại hóa hiện nay là sự đổi mới về chất, là nhu cầu
mới của sự phát triển xã hội và cũng quy định mới của thời đại. Điều này, trước
tiên, được quyết định bởi sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của khoa học
công nghệ và vai trò ngày càng tăng của chúng đối với nền sản xuất hội nói
riêng, đối với toàn bộ đời sống hội nói chung. Trong những giai đoạn phát triển
trước đây của hội loài người, sản xuất còn tách rời khoa học công nghệ
thường là vượt trước sự phát triển của khoa học và công nghệ. Mới quan hệ giữa
khoa học công nghệ với sản xuất c ấy tuân theo quy luật: sản xuất đi trước
công nghệ và công nghệ lại đi trước khoa học.
Vai trò nền tảng, động lực then chốt của khoa học công nghệ đối với quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, đối với sự phát triển kinh tế xã hội
Việt Nam nói chung, được biểu hiện trên những mặt cụ thể sau đây:
Một , khoa học công nghệ
vai trò quyết định trong việc trang bị
trang bị lại c máy móc, trang
thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại,
tiên tiến cho nền sản xuất hội nói
riêng, cho tất cả các ngành kinh tế
quốc dân nói chung, nhằm nâng cao
năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm, tăng cường sức cạnh tranh của
các sản phẩm ng hóa Việt Nam trên
thị trường thế giới, v.v... với mục tiêu
không ngừng cải thiện nâng cao
mức sóng của người dân, sự phồn
vinh sức mạnh của hội Việt
Nam. Đó nhiệm vụ đầu tiên, quan
trọng nhất của sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta hiện nay. Trên thực tế, nước ta đã
tiến hành công nghiệp hóa từ đầu
những năm 60 của thế kỷ XX. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ
quan và khách quan, đặc biệt là chưa
gắn kết được công nghiệp hóa với
hiện đại hóa, cho đến nay, lực
lượng sản xuất của nước ta chủ yếu
vẫn trong tình trạng lạc hậu, các
trang thiết bị, máy móc phần lớn
thủ công, thủ công bán giới. Nhìn
chung, trình độ phát triển công nghệ
nước ta, về cơ bản, chỉ mới đạt ở giai
đoạn 1 và 2 trong 7 giai đoạn phát
triển công nghệ các nước công
nghiệp phát triển đã trải qua đó
nhập công nghệ để thỏa mãn nhu cầu
tối thiếu (nhập toàn bộ hoặc nhập phụ
tùng các trang thiết bị cả dây
chuyền lắp ráp), mới chỉ tổ
chức hạ tầng kinh tế mức tối thiểu
để tiếp thu công nghệ nhập. Do vậy,
cả năng suất lao động chất lượng
các sản phẩm do nền sản xuất hội
tạo ra vẫn n rất thấp so với mặt
bằng chung của thế giới, không đủ
sức cạnh tranh trên thị trường khu
vực và toàn cầu.
Việc trang bị trang bị lại công
nghệ từ lạc hậu sang hiện đại, tiên
tiến, còn nhằm một mục đích
nhiệm vụ quan trọng nữa là làm thay
đổi cấu chung của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân từ nông nghiệp công
nghiệp - dịch vụ sang công nghiệp -
nông nghiệp - dịch vụ. ớc chuyển
dịch cơ cấu này sẽ tạo tiền đề và nền
tảng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, để đến năm 2020,
đưa nước ta bản trở thành một
thứoc công nghiệp theo hướng hiện
đại. Để đạt được mục tiêu chiến lược
này, nhất thiết chúng ta phải tiếp cận
được nền khoa học công nghệ hiện
đại, tiên tiến của thế giới, đặc biệt
các ngành công nghệ mũi nhọn: công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới và công nghệ
năng lượng mới...
Hai , khoa học công nghệ
đóng vai trò cùng quan trọng trong
việc giáo dục, đào tạo, bồi ỡng,
khai thác phát huy nguồn lực con
người, đặc biệt nguồn lực trí tuệ -
một nguồn lực to lớn, tính chất
quyết định đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ớc ta.
nhiều cách thức để chúng ta thực
hiện việc trang bị và trang bị lại công
nghệ hiện đại, tiên tiến cho các ngành
kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, dù bằng
cách thức nào đi chăng nữa, điều
quan trọng và có tính chất quyết định
nhất đây cần phải những con
người đủ tri thức năng lực để có
thể khai thác, sử dụng một cách hiệu
quả các trang thiết bị hiện đại. Điều
này chỉ khoa học công nghệ tiên
tiến mới làm được.
Con người chủ thể ng tạo ra khoa học công nghệ. Đến lượt mình, khoa học
công nghệ trở thành phương tiện, công cụ đồng thời sở để con người ơn
lên tự toàn thiện về mọi mặt, đặc biệt là về năng lực trí tuệ. Trước hết, thông qua quá
trình giáo dục, đào tạo, khoa học công nghsẽ trang bị cho con người những tri
thức khoa học và công nghệ cần thiết để một mặt, giúp họ có thể am hiểu, sử dụng
khai thác một cách tích cực, hiệu quả những trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, và mặt
khác, có thể sáng tạo ra công nghệ mới.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, tuy đã qua hơn 40 năm công nghiệp hóa, nhưng
nhìn chung, nền sản xuất, đặc biệt là lực lượng sản xuất vẫn còn rất lạc hậu. Với gần
80% dân số là nông dân, 70% lao động là lao động nông nghiệp, với cơ cấu nền kinh
tế quốc dân dang hiện hành “nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ”, với một truyền
thống xã hội ít “trọng nông”, “trọng thương”, v.v. đã và đang là những rào cản rất lớn
đối với con người Việt Nam trong việc tiếp cận với khoa học và công nghệ tiên tiến
của thời đại. Hơn nữa, duy kinh nghiệm - một lối duy truyền thống phổ biến -
đã ăn sâu vào xã hội Việt Nam.
BIỂU 1: Đầu từ từ ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ cho khoa học
công nghệ giải đoạn 2006-2010
Tiêu chí
2006
2007
2008
2009
Số lượng(tỷ
đồng)
2.626,4
3.018,4
3.439,5
5.561,1
Tỷ lệ (%)
2,7
2,5
2,3
2,5
Từ bao đời nay, không ai phủ nhận vai trò của duy kinh nghiệm trong đời sống.
Tuy nhiên, trên bình diện phát triển khoa học công nghệ hiện nay thì tư duy kinh
nghiệm là không thể đủ, mà nhất thiết phải trang bị tư duy lý luận, tư duy khoa học -
công nghệ. Ph. Ăngghen đã từng viết: “Một dân tốc muốn đứng vững trên đỉnh cao
của khoa học thì không thể không duy luận”. Sự hạn chế về mặt duy
luận một điểm yếu trong truyền thống dân tộc, ngày nay, chúng ta phải phấn
đấu vượt qua mới có thtiếp thu và sáng tạo ra những tri thức khoa học và công nghệ
hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Kho tri thức khoa học công nghệ tận luôn đổi mới. Do đó, để thể
nắm bắt kịp thời những thành tựu của khoa học ng nghệ hiện đại, đội hỏi đội
ngũ những người nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học ng nghệ không
những phải được đào tạo một cách cơ bản và có hệ thống, mà còn phải thường xuyên
được đào tạo bổ sung và đào tạo chuyên sâu.
Ba , khoa học công nghệ giữ vai trị động lực trong việc tạo ra mới trưởng
thông tin và thị trưởng thông tin - huyết mạch của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
của cả nền kinh tế. So với giai đoạn phát triển trước đây, thì ngày nay, thơng tin
một vị trí cực kỳ quan trọng, mang tính quyết định đối với hoạt động sản xuất, kinh
doanh dịch vụ và cả những hoạt động tinh thần. Có trang thiết bị, máy móc hiện đại,
có những con người đã được đào tạo tay nghề và có kỹ năng, kỹ xảo cao, nhưng nếu
thiếu thông tin thì sẽ dẫn đến chỗ không biết đầu chúng vào đâu cho đúng để kịp
thời sinh lợi nhanh, và vì vậy, rất dễ sa vào chỗ mất phương ớng phát triển. Bởi vì,
thong tin trong lĩnh vực khoa học công nghệ liên quan rất chặt chẽ đến việc
nắm bắt các bí quyết, bí mật cong nghệ nằm trong các phương pháp, thiết bị, các dữ
liệu khoa học và công nghệ mới nhất. Thông tin như một người ớng dẫn nắm trong
tay chiếc chìa khóa vàng kỳ diệu, giúp cho người ta thể mở ra những cánh cửa làm
ăn đúng lúc đúng cách, tìm kiếm những hội, những lĩnh làm ăn còn tiềm
năng và triển vọng, đồng thời biết khép cửa lại, rút lui đúng lúc khi tiềm năng trong
lĩnh vực đó đã cạn kiệt v.v...
Công nghệ thông tin đã chính thức đi vào nước ta khoảng hơn chục năm nay
hệ thống thông tin khoa học - công nghệ quốc gia trải qua hơn 30 năm hoạt động đã
những đóng góp đáng kể vào sự phát triển khoa học công nghnói riêng, vào
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung. Tuy nhiên, đối với nước ta, đây
là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ, còn rất nhiều vấn đề phức tạp, nan giải và bất cập.
Đặc điểm nổi bật của sự phát triển công nghệ thông tin trong thời gian qua ở nước ta
chưa gắn kết được các giải pháp công nghệ (việc trang bị các máy móc kỹ thuật
cơng nghệ thông tin) với các giải pháp về tổ chức quản lý, chuẩn hóa thông tin và với
công tác đào tạo, huấn luyện chuyên viên kỹ thuật, những người sử dụng, quản
thông tin. Vì vậy mà trong nhiều trường hợp, hệ thống cong nghệ thông tin hiện đại
đã được thiết lập đầy đủ, nhưng không vận hành được do thiếu thông tin, thiếu nhân
viên kỹ thuật. Cho đến năm 2000, nguồn nhân lực thông tin khoa học - công nghệ
nước ta vẫn còn quá mỏng và yếu kém, chưa đủ sức đáp ứng so với nhu cầu thực tế.
Số người làm công tác thông tin khoa học - công nghệ chuyên nghiệp mới chỉ
3000 người, trong đó, số người có trình độ đại học chiếm 66,3%, trên đại học chiếm
6,45%.
Bốn là, khoa học và công nghệ có vai trị quan trọng trong việc hoàn thiện cơ chế
tổ chức, quản sản xuất, kinh doanh, dịch vhội. Nhiệm vquan trọng của
công tác tổ chức, quản lý là liên kết các yếu tố trang thiết bị, máy móc kỹ thuật, con
người thông tin lại với nhau thành một tổ hợp vận hành hợp lý, đồng điều nhằm
đạt đến một mục tiêu nhất định, mà ở đây là mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mục tiêu chung của ng nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta là không ngừng cải thiện
nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân giàu, nước mạnh, hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu này, phải tiến hành đồng thời nhiều hoạt
động hội với những chức năng rất khác nhau, như sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
giáo dục, đào tạo, chăm sóc y tế, v.v... Sự phối hợp điều hành các hoạt động đó, sự
xếp đặt các mối quan hệ giữa chúng, cũng như sự phân bổ hợp lý các chức năng của
chúng sao cho đều hưởng về các mục tiêu mà công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đề ra,
chính là nhiệm vụ của công tác tổ chức, quản lý trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bởi vậy, ng tác tổ chức, quản một vai trị cực kỳ quan trọng trong qúa trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Những công việc vừa rộng lớn, phức tạp, vừa tỉ mỉ, chi tiết của công tác tổ chức
quản lý ngày nay đang được thực hiện một cách nhanh chóng hơn, chính xác hơn và
hiệu quả hơn nhờ có sự phát triển của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thơng tin. Nhờ sự trợ giúp của công nghệ thông tin, thông qua hệ thống máy vi
tính, mạng Internet, người ta có thể tiến hành cơng c tổ chức quản một cách
sâu sắc, toàn diện ở tầm vi mô, cũng như mô. Năm là, khoa học và công nghệ đóng
góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển bền vững của xã hội. Qua những điều
đã trình bày trên đây, hòan toàn thể khẳng định được vai trò cơ sở và động lực của
Số liệu năm 2000
Sau đại học
khoa học công nghệ đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa với bất cứ
giá nào. Ngày nay, phát triển bền vững đang mối quan tâm sâu sắc của tồn nhân
loại. thể nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển bền vững, nhưng cách hiểu
chung nhất là, làm sao cho sự phát triển, trước hết là sự phát triển về kinh tế, của các
thế hệ hôm nay không cản trợ cơ hội phát triển của các thế hệ mai sau. Phát triển bền
vững là “sự cải thiện chất lượng cuộc sống của con người đi đối với nhiệm vụ bảo
vệ các hệ sinh thái”, nghĩa là phải hướng đến ba mục tiêu cơ bản:
1. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và an toàn;
2. Mục tiêu xã hội nhân văn;
3. Mục tiêu bảo vệkhông ngừng cải thiện chất lượng môi trường sống, hay mục
tiêu sinh thái.
Do vậy, để có thể phát triển xã hội một cách bền vững ,phải kết hợp một cách hài
hòa, đầy đủ 4 yếu tố cơ bản: yếu tố kinh tế, yếu tố con người (dân số), yếu tố môi
trường, sinh thái và công nghệ
Nhiệm vụ trọng tâm của khoa học công nghệ cung cấp những trang thiết bị kỹ
thuật hiện đại thông qua các công nghệ cao, công nghệ sạch để con người khắc phục
được những hậu quả tiêu cực cao chính những phương tiện kỹ thuật chưa hồn thiện
trước đây gây ra (xử lý các chất thải độc hại, phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên...); xây
dựng những quy trình công nghệ mới không có chất thải, những khu sản xuất liên hợp
những chất thải cuối cùng của chúng có thể được các sinh vật khác sử dụng để đưa
vào chu trình sinh học, v.v. động lực sở của qúa trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nói riêng, của sự phát triển xã hội nói chung, khoa học và công nghệ đang
đóng góp phần quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, đặc
biệt là mục tiêu kinh tế - xã hội.
2.2. Những thành tựu đạt được về khoa học – công nghệ của Việt Nam:
- Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển.
Nhờ sự quan tâm đầu của Đảng Nhà nước, trong nhiều thập kqua, chúng
ta đã đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng trở lên với trên
30 nghìn người trình độ trên đại học (trên 14 nghìn tiến 16 nghìn thạc sĩ)
khoảng hơn 2 triệu cong nhân kỹ thuật; trong đó, có khoảng 34 nghìn người đang làm
việc trực tiếp trong lĩnh vực khoa học công nghệ thuộc khu vực nhà nước. Đây
nguồn nhân lực quan trọng cho hoạt động khoa học và công nghệ của đất nước. Thực
tế cho thấy, đội nnày khả năng tiếp thu tương đối nhanh làm chủ được tri
thức, công nghệ hiện đại trong một số ngành và lĩnh vực.
Thời gian qua, đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức khoa học công
nghệ với trên 1.100 tổ chức nghiên cứu phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế,
trong đó gần 500 tổ chức ngoài nhà ớc; 197 trường đại học cao đẳng, trong
đó có 30 trường ngồi công lập. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các viện, trung tâm nghiên
cứu, các phòng thí nghiệm, các trung tâm thông tin khoa học và công nghệ, thư viện,
cũng được tăng cường ng cấp. Đã xuất hiện một số loại hình gắn kết tốt giữa
nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với sản xuất - kinh doanh. - Khoa học
công nghệ đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội.
Khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần quan trọng lý giải và khẳng định giá trị
khoa học thực tiễn của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin tưởng Hồ Chí Minh, con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch
định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước; góp phần vào thành
công của cong cuộc đổi mới nói chung và vào q trình đổi mới tư duy kinh tế nói riêng.
Các kết quả điều tra cơ bản nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên
đã phục vụ xây dựng luận cứ khoa học cho các phương án phát triển kinh tế hội
của đất nước.
Khoa học và công nghệ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp thu, làm chủ, thích
nghi và khai thác có hiệu quả các cơng nghệ nhập từ nước ngồi. Nhờ đó, trình độ cơng
nghệ trong một số ngành sản xuất, dịch vụ đã được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm
hàng hố có sức cạnh tranh cao hơn. Đặc biệt, trong lĩnh vực nông nghiệp khoa học và
công nghệ đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi chất lượng năng suất cao,
góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa nước ta từ chỗ là nước nhập khẩu
lương thực trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo, cà phê, v.v... hàng đầu trên
thế giới. Các chương trình nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu, tự động hóa, công nghệ cơ khí chế tạo máy, đã góp phần
nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng cao năng
suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế.
Khoa học công nghệ trong những năm qua đã góp phần đào tạo nâng cao
trình độ nhân lực, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc và
phát huy truyền thống văn hoả tốt đẹp của dân tộc. - Cơ chế quản khoa học công
nghệ từng bước được đổi mới Hệ thống quản nhà nước về khoa học công nghệ
được tổ chức từ trung ương đến địa phương đã đẩy mạnh phát triển khoa học và công
nghệ, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - hội của ngành địa
phương. Thực hiện Luật Khoa học và công nghệ, các chương trình, đề tài, dự án khoa
học công nghệ đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế - hội. chế tuyển
chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã bước đầu được thực
hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai. Hoạt động của các tổ chức khoa học công
nghệ đã mở rộng từ nghiên cứu - phát triển đến sản xuất và dịch vụ khoa học và công
nghệ. Quyền tự chủ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động KH&CN bước đầu được
tăng cường. Quyền tự chủ về hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học
và công nghệ được mở rộng.
Vốn huy động cho khoa học và công nghệ từ các nguồn hợp đồng với khu vực sản
xuất- kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ quốc tế và các nguồn khác, tăng đáng kể
nhờ chính sách đa dạng hố nguồn vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ. Đã cải tiến
một bước việc cấp phát kinh phí đến nhà khoa học theo hướng giảm bớt các khâu trung
gian .
Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về khoa học và ng nghệ từng
bước được hồn thiện thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm
của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân
ngàycàng được nâng cao.
Nhờ sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động tích cực của
các tổ chức khoa học công nghệ, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư công tác
phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của khoa học và công nghệ đến sản xuất
và đời sống, nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng tri thức khoa học công nghệ
của người dân trong thời gian qua đã tăng lên rõ rệt. Hoạt động khoa học và công nghệ
ngày càng được xã hội hoá trên phạm vi cả nước.
2.3. Hạn chế và nguyên nhân:
2.3.1. Hạn chế
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung khoa học và công
nghệ nước ta cịn nhiều mặt yếu kém, cịn có khoảng cách khá xa so với thế giới và khu
vực, chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng và động lực phát triển kinh tế - xã hội.
- Năng lực khoa học và công nghệ còn nhiều yếu kém:
Đội ngũ cán bộ khoa học và cơng nghệ còn thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, đặc biệt
thiếu cán bộ khoa học và cơng nghệ trẻ kế cận có trình độ cao. Cơ cấu nhân lực khoa
học và công nghệ theo ngành nghề và lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý.
Đầu của hội cho khoa học công nghệ còn rất thấp, đặc biệt đầu từ
khu vực doanh nghiệp. Trang thiết bị của các viện nghiên cứu, trường đại học nhìn
chung cịn rất thiếu, không đồng bộ, lạc hậu so với những cơ sở sản xuất tiên tiến cùng
ngành. Hệ thống giáo dục đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực
khoa học công nghệ chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực khoa học
công nghệ tiên tiến; chưa đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học và công nghệ cũng như
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hệ thống dịch vụ khoa học công nghệ, bao gồm thông tin khoa học công
nghệ, tư vấn chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn - đo lường chất lượng
còn yếu kém cả về sở vật chất năng lực cung cấp dịch vụ đáp ng các yêu cầu
của hội nhập khu vực và quốc tế.
Thiếu sự liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu khoa học công nghệ, giáo dục - đào
tạo sản xuất - kinh doanh; thiếu sự hợp c chặt chẽ giữa các tổ chức nghiên cứu
phát triển, các trường đại học và doanh nghiệp. So với các nước trong khu vực và trên
thế giới, nước ta cịn có khoảng cách rất lớn về tiềm lực và kết quả hoạt động khoa học
công nghệ: tỷ lệ cán bộ nghiên cứu khoa học công nghệ trong dân số mức
đầu cho nghiên cứu khoa học theo đầu người thấp; các kết quả nghiên cứu phát triển
theo chuẩn mực quốc tế còn rất ít. Nhìn chung, năng lực khoa học và công nghệ nước
ta cịn yếu kém, chưa giải đáp được kịp thời nhiều vấn đề của thực tiễn đổi mới, chưa
gắn kết chặt chẽ và đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội.
- Trình độ công nghệ của nhiều ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu:
Ngoài những công nghệ tiên tiến được đầu mới trong một số ngành, lĩnh vực
như bưu chính - viễn thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng,
nhìn chung trình độ công nghệ của các ngành sản xuất nước ta hiện lạc hậu khoảng 2
- 3 thế hệ công nghệ so với các nước trong khu vực. Tình trạng này hạn chế năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm được đổi mới, còn mang
nặng tính hành chính: Quản lý hoạt động khoa học và công nghệ cịn tập trung chủ yếu
vào các yếu tố đầu vào, chưa chủ trọng đúng mức đến quản chất ợng sản phẩm
đầu ra và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Các nhiệm vụ khoa họccông
nghệ chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với nhu cầu phát triển kinh tế - hội. Công tác
đánh giá nghiệm thu kết quả nghiên cứu chưa tương hợp với chuẩn mực quốc tế.
- Cơ chế quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ không phù hợp với đặc
thùcủa lao động sáng tạo và thể chế kinh tế thị trường định hưởng xã hội chủ
nghĩa:
Các tổ chức khoa học công nghệ chưa được đầy đủ quyền tự chủ về kế hoạch,
tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế để phát huy tính năng động, ng tạo. Việc quản
lý cán bộ khoa học và công nghệ theo chế độ công chức không phù hợp với hoạt động
khoa học công nghệ, làm hạn chế khả năng u chuyển đổi mới cán bộ. Thiếu
chế đảm bảo để cán bộ khoa học và công nghệ được tự do chính kiến, phát huy khả
năng sáng tạo, tự chịu trách nhiệm trong khuôn khổ pháp luật. Chưa những chính
sách hữu hiệu tạo động lực đối với cán bộ khoa học công nghệ chính sách thu
hút, trọng dụng nhân tài, chế độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý, không khuyến khích
cán bộ khoa học và ng nghệ tòan tâm với sự nghiệp khoa học công nghệ. Cơ chế
quản tài chính trong hoạt động khoa học công nghệ chưa tạo thuận lợi cho nhà
khoa học, chưa huy động được nhiều nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; cơ chế tự
chủ về tài chính của các tổ chức khoa học và cơng nghchưa đi liền với tự chủ về
quản lý nhân lực nên hiệu quả còn hạn chế. Thị trường khoa học và công nghệ chậm
phát triển. Hoạt động mua, bản công nghệ và lưu thông kết quả nghiên cứu khoa học
cơng nghệ cịn bị hạn chế do thiếu các tổ chức trung gian, môi giới, các quy định
pháp lý cần thiết, đặc biệt là hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ. Tóm lại,
công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ cịn chưa đổi mới kịp so với yêu
cầu chuyển sang kinh tế thị trường.
2.3.2. Nguyên nhân:
Đường lối chính sách phát triển khoa học công nghệ của Đảng Nhà nước chưa
được quán triệt đầy đủ và chậm được triển khai trong thực tiễn:
Quan điểm khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực phát triển đất nước đã
được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng nhưng trên thực tế chưa được các cấp,
các ngành, các địa phương quán triệt đầy đủ triển khai trong thực tiễn phát triển
kinh tế - hội. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước về phát triển
khoa học công nghệ chậm được thể chế hố bằng các văn bản quy phạm pháp luật;
việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện chính sách thiếu kiên quyết nên kết quả còn hạn chế.
Năng lực của các cơ quan tham mưu, quản lý khoa học và công nghệ các cấp còn yếu
kém: chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp ăn sâu vào tiềm thức thói quen của
không ít cán bộ khoa học công nghệ quản khoa học công nghệ đã tạo ra
sức ỳ không dễ khắc phục trong cơ chế mới, không đáp ứng được yêu cầu về đổi mới
quản khoa học công nghệ trong nền kinh tế thị trường định hưởng hội chủ
nghĩa, bối cảnh tồn cầu hổ và hội nhập quốc tế.
Chưa làm trách nhiệm của Nhà nước đối với những hoạt động khoa học công
nghệ Nhà nước cần đầu phát triển như: các lĩnh vực khoa học công nghệ
trọng điểm, ưu tiên; nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển; nghiên cứu cơ bản;
nghiên cứu mang nh công ích, v.v...; cũng như chưa chế, chính sách phù hợp
đối với các hoạt động khoa học cơng nghệ cần thể vận dụng cơ chế thị trường,
như nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ.
Quản nhà nước đối với khu vực hành chính khu vực sự nghiệp trong hệ thống
khoa học ng nghệ chưa được tách biệt ràng, làm cho công tác quản các t
chức khoa học và công nghệ còn mang nặng tính hành chính.

Preview text:

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài hế giới đã bước vào thế kỷ 21 với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học - công nghệ (KH - CN). Ngày nay KH - CN được ứng dụng rất
nhiều vào cuộc sống của con người. Đặc biệt, ứng dụng tri thức KH - CN trong
phát triển kinh tế xã hội là một hướng đi đúng.
Ở các nước phát triển hiện nay, nền kinh tế phát triển có ứng dụng tri thức KH CN.
Đối với Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế theo định hướng XHCN,
mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trong 30 năm đổi mới vừa qua, song nền
kinh tế vẫn còn kém phát triển so với các nước khu vực và thế giới, đồng thời đang
gặp phải những thách thức không nhỏ: đó là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực do xuất phát của Việt Nam quá thấp, lại phải phát triển
trong môi trường cạnh tranh quyết liệt. Sự khác biệt về trình độ công nghệ của Việt
Nam so với các nước phát triển là rất lớn, nhìn chung công nghệ nước ta tục hậu so
với trình độ chung của thế giới khoảng 3, 4 thập kỷ.
Quá trình CNH - HĐH dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động giữa
các ngành, đặc biệt là sự chuyển lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực công
nghiệp và dịch vụ. Mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020
là đẩy mạnh nhanh quá trình đổi mới kỹ thuật công nghệ trong sản xuất, mở rộng các
khu công nghiệp, khu chế suất đưa Việt Nam trở thành một nước có trình độ KTCN
ở trung bình tiên tiến so với các nước trong khu vực. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP.
Hội nhập nền kinh tế thế giới đang là một xu thế tất yếu của thời đại. Vì vậy bên cạnh
sử dụng năng lực nội sinh, các nước đang phát triển như Việt Nam, không có con
đường nào khác phải biết vận dụng những thành tựu của khoa học công nghệ và phải
bắt kịp tri thức mới để phát triển nhanh nền kinh tế. Vì vậy vấn đề đặt ra cho Việt
Nam hiện nay là phát triển nguồn nhân lực có tri thức, trình độ, tay nghề cho sự phát triển nền kinh tế.
Do đó KH - CN được coi là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH - HĐH ở Việt
Nam. Nhiệm vụ phát triển tri thức KH - CN là một nhiệm vụ cấp thiết hiện nay, và
gắn chặt hơn nữa KH - CN với phát triển kinh tế xã hội.
Việc nghiên cứu đề tài “vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển kinh
tế xã hội ở Việt Nam” sẽ giúp ta tìm hiểu, đánh giá đúng được vai trò của khoa học
công nghệ để từ đó có những giải pháp tận dụng khoa học công nghệ để phát triển đất nước.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu của đề tài gày nay khoa học công nghệ đã
trở thành yếu tố cốt tử của sự phát triển, là lực lượng sản xuất trực tiếp của
nền kinh tế toàn cầu. Điều này được phản ánh rõ trong việc hoạch định các
chính sách và chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế của nhiều
nước trên thế giới. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào trình độ sự phát triển cụ thể của từng
nước mà xây dựng chiến lược, chính sách phát triển khoa học cụng nghệ mang tính
đa dạng và đặc thù đối với từng giai đoạn phát triển cụ thể phù hợp với hoàn cảnh,
điều kiện cơ sở vật chất của mỗi quốc gia,
Trong quá trình hội nhập thế giới, nước ta ngày càng được tiếp cận với nhiều nguồn
khoa học công nghệ hiện đại. Nhận thức được vai trò quan trọng của khoa học công
nghệ, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng về khoa học công nghệ
và khẳng định: "Cùng với giáo dục, đào tạo khoa học công nghệ là quốc sách hàng
đầu, là động lực phát triển kinh tế -xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập
dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá- hiên đại hoá đất
nước bằng cách dựa vào khoa học, công nghệ "
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Tìm hiểu khái niệm khoa học - công nghệ.
- Vai trò của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển kinh tế xã hội ViệtNam hiện nay.
- Chiến lược phát triển khoa học - công nghệ ở Việt Nam. Đề xuất các giải
pháp để áp dụng khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế xã hội
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Khoa học – Công nghệ
- Phạm vi nghiên cứu: sự phát triển kinh tế xã hội tại Việt Nam- Phương pháp nghiên cứu:
+ Tìm hiểu, thu thập, phân tích và tổng hợp các thông tin về khoa học công nghệ và
tình hình phát triển KT – XH ở Việt Nam.
+ Thu thập tài liệu liên quan đến đề tài.
+ Tham khảo giáo trình, sách, báo, tạp chí chuyên ngành, khoá luận tốt nghiệp của
khoá trước, qua mạng internet và các nguồn tài liệu khác. CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ
1.1. Khái niệm về khoa học
Trong lịch sử phát triển tư duy của nhân loại có rất nhiều các quan niệm khác nhau
về khoa học, một mặt nó phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội; mặt khác phụ
thuộc vào trình độ nhận thức. Xét về phương diện xã hội, khoa học là một hiện tượng
xã hội có nhiều mặt, trong đó biểu hiện sự thống nhất giữa những yếu tố vật chất và
những yếu tố tinh thần. Về phương diện triết học, khoa học là một hình thái ý thức
xã hội đặc biệt. Đặc biệt, bởi vì khoa học không chỉ phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc
vào tồn tại xã hội, những chân lý của nó được thực tiễn xã hội kiểm nghiệm mà khoa
học còn là kết quả của quá trình sáng tạo logic, của trực giác thiên tài. Còn bởi vì,
khoa học (cùng với công nghệ) là những yếu tố ngày càng có vai trò đặc biệt quan
trọng của lực lượng sản xuất, quyết định trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
nói riêng, của phương thức sản xuất và của xã hội nói chung. Về phương diện nhận
thức luận, khoa học là giai đoạn cao của nhận thức - giai đoạn nhận thức lý luận.
Ngày nay, quan niệm về khoa học được phổ biến với những đặc trưng cơ bản sau đây:
ě Khoa học là một hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người và về tư duy
của con người. Nó nghiên cứu và vạch ra những mối quan hệ nội tại, bản chất của
các sự vật, hiện tượng, quá trình, từ đó chỉ ra những quy luật khách quan của sự
vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
ě Hệ thống tri thức khoa học được hình thành trong quá trình nhận thức của con người
từ trực quan sinh động, đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn,
dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật, lý thuyết,... Như vậy, tri thức khoa học
không chỉ là sự phản ánh thế giới hiện thực, mà còn được kiểm nghiệm qua thực tiễn.
ě Hệ thống tri thức khoa học được hình thành trong quá trình nhận thức của con người
từ trực quan sinh động, đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn,
dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật, lý thuyết,... Như vậy, tri thức khoa học
không chỉ là sự phản ánh thế giới hiện thực, mà còn được kiểm nghiệm qua thực tiễn.
ě Hệ thống tri thức khoa học còn có thể được hình thành nhờ trực giác hoặc tuân theo
những quy luật của logic học. Loại tri thức khoa học này, xét cho đến cùng cũng
là sự phản ánh thế giới hiện thực và được thực tiễn kiểm nghiệm. Do đó, một hệ
thống tri thức được coi là tri thức khoa học phải bảo đảm tính đúng đắn, tính chân thực.
ě Nhờ giáo dục, đào tạo, hệ thống tri thức khoa học có sức sống mãnh liệt, được phổ
biến rộng rãi và lan truyền rất nhanh chóng. Tốc độ lan truyền đó đã tăng lên rất
nhiều lần nhờ vào quá trình toàn cầu hóa và công nghệ thông tin. Nó không chỉ là
sức mạnh, là sự biến đổi mau lẹ, mà còn là biểu hiện sự giàu có, thịnh vượng của
mọi quốc gia, dân tộc và cá nhân.
ě Hệ thống tri thức khoa học là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài, liên tục của
tư duy nhân loại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay nó đang trở thành tài
sản chung của xã hội loài người.
Như vậy, qua một số những đặc trưng cơ bản trên đây về quan niệm khoa học, ta
thấy nổi lên cái cốt lõi của khoa học - đó là hệ thống tri thức chân thực về tự
nhiên, xã hội và tư duy. Khoa học là hệ thống tri thức chân thực, nhưng có phải
mọi tri thức chân thực đều là khoa học hay không? Để hiểu rõ điều này, chúng ta
phải đi tìm hiểu nguồn gốc, bản chất của tri thức, con đường từ tri thức đến khoa học.
1.2. Khái niệm về công nghệ
Công nghệ theo nghĩa chung nhất có thể coi đó là tập hợp tất cả những sự hiểu
biết của con người vào việc biến đổi, cải tạo thế giới nhằm đáp ứng nhu cầu sống
của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội. Công nghệ trong sản xuất là
một tập hợp các phương tiện vật chất, các phương pháp, các quy tắc, các kỹ năng
được con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra một sản
phẩm nào đó cần thiết cho xã hội.
Có ba nghĩa chủ yếu về công nghệ được sử dụng phổ biến nhất hiện nay:
Một là, công nghệ được coi như một bộ môn khoa học ứng dụng, triển khai
(trong tương quan với khoa học cơ bản), trong việc vận dụng các quy luật tự nhiên
và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người.
Hai là, công nghệ được hiểu với tư cách như là các phương tiện vật chất - kỹ
thuật, hay đó là sự thể hiện cụ thể của tri thức khoa học đã được vật thể hóa thành
các công cụ, các phương tiện kỹ thuật cần cho sản xuất và đời sống.
Ba là, công nghệ bao gồm các cách thức, các phương pháp, các thủ thuật, các
kỹ năng có được nhờ dựa trên cơ sở tri thức khoa học và được sử dụng vào sản
xuất trong các ngành khác nhau để tạo ra các sản phẩm.
Ngày nay, trong thời địa của cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới, hay cách
mạng thông tin công nghệ lần thứ năm, khi mà khoa học đang trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, trí tuệ con người đang giữ vai trò động lực trực tiế và quyết
định sự phát triển của công nghệ nói riêng, và xã hội nói chung thì quan niệm về
công nghệ, các thành phần cấu trúc của nó lại một lần nữa có sự mở rộng và phát triển rất cơ bản. …….. CHƯƠNG 2:
KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Vai trò của KH-CN trong việc phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
Công nghiệp hóa là con đường phát triển tất yếu của tất cả các nước trên thế giới.
Bởi vì, mục đích quan trọng nhất của công nghiệp hóa là phát triển sản xuất xã
hội, trước hết là phát triển lực lượng sản xuất, nhằm thỏa mãn các nhu cầu ngày
càng tăng của con người và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Sự gắn kết chặt chẽ
giữa công nghiệp hóa với hiện đại hóa hiện nay là sự đổi mới về chất, là nhu cầu
mới của sự phát triển xã hội và cũng là quy định mới của thời đại. Điều này, trước
tiên, được quyết định bởi sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của khoa học và
công nghệ và vai trò ngày càng tăng của chúng đối với nền sản xuất xã hội nói
riêng, đối với toàn bộ đời sống xã hội nói chung. Trong những giai đoạn phát triển
trước đây của xã hội loài người, sản xuất còn tách rời khoa học và công nghệ và
thường là vượt trước sự phát triển của khoa học và công nghệ. Mới quan hệ giữa
khoa học và công nghệ với sản xuất lúc ấy tuân theo quy luật: sản xuất đi trước
công nghệ và công nghệ lại đi trước khoa học.
Vai trò nền tảng, động lực và then chốt của khoa học và công nghệ đối với quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, đối với sự phát triển kinh tế xã hội
Việt Nam nói chung, được biểu hiện trên những mặt cụ thể sau đây:
Một là, khoa học và công nghệ có
nghiệp phát triển đã trải qua đó là
vai trò quyết định trong việc trang bị
nhập công nghệ để thỏa mãn nhu cầu
và trang bị lại các máy móc, trang
tối thiếu (nhập toàn bộ hoặc nhập phụ
thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại,
tùng các trang thiết bị và cả dây
tiên tiến cho nền sản xuất xã hội nói
chuyền lắp ráp), và mới chỉ có tổ
riêng, cho tất cả các ngành kinh tế
chức hạ tầng kinh tế ở mức tối thiểu
quốc dân nói chung, nhằm nâng cao
để tiếp thu công nghệ nhập. Do vậy,
năng suất lao động, chất lượng sản
cả năng suất lao động và chất lượng
phẩm, tăng cường sức cạnh tranh của
các sản phẩm do nền sản xuất xã hội
các sản phẩm hàng hóa Việt Nam trên
tạo ra vẫn còn rất thấp so với mặt
thị trường thế giới, v.v... với mục tiêu
bằng chung của thế giới, không đủ
không ngừng cải thiện và nâng cao
sức cạnh tranh trên thị trường khu
mức sóng của người dân, sự phồn vực và toàn cầu.
vinh và sức mạnh của xã hội Việt
Nam. Đó là nhiệm vụ đầu tiên, quan
Việc trang bị và trang bị lại công
trọng nhất của sự nghiệp đẩy mạnh
nghệ từ lạc hậu sang hiện đại, tiên
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
tiến, còn nhằm một mục đích và
ta hiện nay. Trên thực tế, nước ta đã
nhiệm vụ quan trọng nữa là làm thay
tiến hành công nghiệp hóa từ đầu
đổi cơ cấu chung của toàn bộ nền
những năm 60 của thế kỷ XX. Tuy
kinh tế quốc dân từ nông nghiệp công
nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ
nghiệp - dịch vụ sang công nghiệp -
quan và khách quan, đặc biệt là chưa
nông nghiệp - dịch vụ. Bước chuyển
gắn kết được công nghiệp hóa với
dịch cơ cấu này sẽ tạo tiền đề và nền
hiện đại hóa, mà cho đến nay, lực
tảng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
lượng sản xuất của nước ta chủ yếu
hóa, hiện đại hóa, để đến năm 2020,
vẫn ở trong tình trạng lạc hậu, các
đưa nước ta cơ bản trở thành một
trang thiết bị, máy móc phần lớn là
thứoc công nghiệp theo hướng hiện
thủ công, thủ công bán cơ giới. Nhìn
đại. Để đạt được mục tiêu chiến lược
chung, trình độ phát triển công nghệ
này, nhất thiết chúng ta phải tiếp cận
nước ta, về cơ bản, chỉ mới đạt ở giai
được nền khoa học và công nghệ hiện
đoạn 1 và 2 trong 7 giai đoạn phát
đại, tiên tiến của thế giới, đặc biệt là
triển công nghệ mà các nước công
các ngành công nghệ mũi nhọn: công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
Có nhiều cách thức để chúng ta thực
công nghệ vật liệu mới và công nghệ
hiện việc trang bị và trang bị lại công năng lượng mới...
nghệ hiện đại, tiên tiến cho các ngành
kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, dù bằng
Hai là, khoa học và công nghệ
cách thức nào đi chăng nữa, điều
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong
quan trọng và có tính chất quyết định
việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng,
nhất ở đây là cần phải có những con
khai thác và phát huy nguồn lực con
người có đủ tri thức và năng lực để có
người, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ -
thể khai thác, sử dụng một cách hiệu
một nguồn lực to lớn, có tính chất
quả các trang thiết bị hiện đại. Điều
quyết định đối với sự nghiệp công
này chỉ có khoa học và công nghệ tiên
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. tiến mới làm được.
Con người là chủ thể sáng tạo ra khoa học và công nghệ. Đến lượt mình, khoa học
và công nghệ trở thành phương tiện, công cụ và đồng thời là cơ sở để con người vươn
lên tự toàn thiện về mọi mặt, đặc biệt là về năng lực trí tuệ. Trước hết, thông qua quá
trình giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ sẽ trang bị cho con người những tri
thức khoa học và công nghệ cần thiết để một mặt, giúp họ có thể am hiểu, sử dụng và
khai thác một cách tích cực, có hiệu quả những trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, và mặt
khác, có thể sáng tạo ra công nghệ mới.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, tuy đã qua hơn 40 năm công nghiệp hóa, nhưng
nhìn chung, nền sản xuất, đặc biệt là lực lượng sản xuất vẫn còn rất lạc hậu. Với gần
80% dân số là nông dân, 70% lao động là lao động nông nghiệp, với cơ cấu nền kinh
tế quốc dân dang hiện hành “nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ”, với một truyền
thống xã hội ít “trọng nông”, “trọng thương”, v.v. đã và đang là những rào cản rất lớn
đối với con người Việt Nam trong việc tiếp cận với khoa học và công nghệ tiên tiến
của thời đại. Hơn nữa, tư duy kinh nghiệm - một lối tư duy truyền thống phổ biến -
đã ăn sâu vào xã hội Việt Nam.
BIỂU 1: Đầu từ từ ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ cho khoa học
công nghệ giải đoạn 2006-2010 Tiêu chí 2006 2007 2008 2009 2010 Số lượng(tỷ 2.626,4 3.018,4 3.439,5 5.561,1 5.827,0 đồng) Tỷ lệ (%) 2,7 2,5 2,3 2,5 2,5
Từ bao đời nay, không ai phủ nhận vai trò của tư duy kinh nghiệm trong đời sống.
Tuy nhiên, trên bình diện phát triển khoa học và công nghệ hiện nay thì tư duy kinh
nghiệm là không thể đủ, mà nhất thiết phải trang bị tư duy lý luận, tư duy khoa học -
công nghệ. Ph. Ăngghen đã từng viết: “Một dân tốc muốn đứng vững trên đỉnh cao
của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”. Sự hạn chế về mặt tư duy lý
luận là một điểm yếu trong truyền thống dân tộc, mà ngày nay, chúng ta phải phấn
đấu vượt qua mới có thể tiếp thu và sáng tạo ra những tri thức khoa học và công nghệ
hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Kho tri thức khoa học và công nghệ là vô tận và luôn đổi mới. Do đó, để có thể
nắm bắt kịp thời những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, đội hỏi đội
ngũ những người nghiên cứu, triển khai và ứng dụng khoa học công nghệ không
những phải được đào tạo một cách cơ bản và có hệ thống, mà còn phải thường xuyên
được đào tạo bổ sung và đào tạo chuyên sâu.
Ba là, khoa học và công nghệ giữ vai trị động lực trong việc tạo ra mới trưởng
thông tin và thị trưởng thông tin - huyết mạch của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
của cả nền kinh tế. So với giai đoạn phát triển trước đây, thì ngày nay, thơng tin có
một vị trí cực kỳ quan trọng, mang tính quyết định đối với hoạt động sản xuất, kinh
doanh dịch vụ và cả những hoạt động tinh thần. Có trang thiết bị, máy móc hiện đại,
có những con người đã được đào tạo tay nghề và có kỹ năng, kỹ xảo cao, nhưng nếu
thiếu thông tin thì sẽ dẫn đến chỗ không biết đầu tư chúng vào đâu cho đúng để kịp
thời sinh lợi nhanh, và vì vậy, rất dễ sa vào chỗ mất phương hướng phát triển. Bởi vì,
thong tin trong lĩnh vực khoa học và công nghệ có liên quan rất chặt chẽ đến việc
nắm bắt các bí quyết, bí mật cong nghệ nằm trong các phương pháp, thiết bị, các dữ
liệu khoa học và công nghệ mới nhất. Thông tin như một người hướng dẫn nắm trong
tay chiếc chìa khóa vàng kỳ diệu, giúp cho người ta có thể mở ra những cánh cửa làm
ăn đúng lúc và đúng cách, tìm kiếm những cơ hội, những lĩnh vú làm ăn còn tiềm
năng và triển vọng, đồng thời biết khép cửa lại, rút lui đúng lúc khi tiềm năng trong
lĩnh vực đó đã cạn kiệt v.v...
Công nghệ thông tin đã chính thức đi vào nước ta khoảng hơn chục năm nay và
hệ thống thông tin khoa học - công nghệ quốc gia trải qua hơn 30 năm hoạt động đã
có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển khoa học và công nghệ nói riêng, vào
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung. Tuy nhiên, đối với nước ta, đây
là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ, còn rất nhiều vấn đề phức tạp, nan giải và bất cập.
Đặc điểm nổi bật của sự phát triển công nghệ thông tin trong thời gian qua ở nước ta
là chưa gắn kết được các giải pháp công nghệ (việc trang bị các máy móc kỹ thuật
cơng nghệ thông tin) với các giải pháp về tổ chức quản lý, chuẩn hóa thông tin và với
công tác đào tạo, huấn luyện chuyên viên kỹ thuật, những người sử dụng, quản lý
thông tin. Vì vậy mà trong nhiều trường hợp, hệ thống cong nghệ thông tin hiện đại
đã được thiết lập đầy đủ, nhưng không vận hành được do thiếu thông tin, thiếu nhân
viên kỹ thuật. Cho đến năm 2000, nguồn nhân lực thông tin khoa học - công nghệ
nước ta vẫn còn quá mỏng và yếu kém, chưa đủ sức đáp ứng so với nhu cầu thực tế.
Số người làm công tác thông tin khoa học - công nghệ chuyên nghiệp mới chỉ có
3000 người, trong đó, số người có trình độ đại học chiếm 66,3%, trên đại học chiếm 6,45%. Số liệu năm 2000 Sau đại học
Bốn là, khoa học và công nghệ có vai trị quan trọng trong việc hoàn thiện cơ chế
tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và xã hội. Nhiệm vụ quan trọng của
công tác tổ chức, quản lý là liên kết các yếu tố trang thiết bị, máy móc kỹ thuật, con
người và thông tin lại với nhau thành một tổ hợp vận hành hợp lý, đồng điều nhằm
đạt đến một mục tiêu nhất định, mà ở đây là mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mục tiêu chung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là không ngừng cải thiện
và nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu này, phải tiến hành đồng thời nhiều hoạt
động xã hội với những chức năng rất khác nhau, như sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
giáo dục, đào tạo, chăm sóc y tế, v.v... Sự phối hợp điều hành các hoạt động đó, sự
xếp đặt các mối quan hệ giữa chúng, cũng như sự phân bổ hợp lý các chức năng của
chúng sao cho đều hưởng về các mục tiêu mà công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đề ra,
chính là nhiệm vụ của công tác tổ chức, quản lý trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bởi vậy, công tác tổ chức, quản lý có một vai trị cực kỳ quan trọng trong qúa trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Những công việc vừa rộng lớn, phức tạp, vừa tỉ mỉ, chi tiết của công tác tổ chức
quản lý ngày nay đang được thực hiện một cách nhanh chóng hơn, chính xác hơn và
hiệu quả hơn nhờ có sự phát triển của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thơng tin. Nhờ có sự trợ giúp của công nghệ thông tin, thông qua hệ thống máy vi
tính, mạng Internet, người ta có thể tiến hành cơng tác tổ chức và quản lý một cách
sâu sắc, toàn diện ở tầm vi mô, cũng như vĩ mô. Năm là, khoa học và công nghệ đóng
góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển bền vững của xã hội. Qua những điều
đã trình bày trên đây, hòan toàn có thể khẳng định được vai trò cơ sở và động lực của
khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa với bất cứ
giá nào. Ngày nay, phát triển bền vững đang là mối quan tâm sâu sắc của tồn nhân
loại. Có thể có nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển bền vững, nhưng cách hiểu
chung nhất là, làm sao cho sự phát triển, trước hết là sự phát triển về kinh tế, của các
thế hệ hôm nay không cản trợ cơ hội phát triển của các thế hệ mai sau. Phát triển bền
vững là “sự cải thiện chất lượng cuộc sống của con người đi đối với nhiệm vụ bảo
vệ các hệ sinh thái
”, nghĩa là phải hướng đến ba mục tiêu cơ bản:
1. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và an toàn;
2. Mục tiêu xã hội nhân văn;
3. Mục tiêu bảo vệ và không ngừng cải thiện chất lượng môi trường sống, hay mục tiêu sinh thái.
Do vậy, để có thể phát triển xã hội một cách bền vững ,phải kết hợp một cách hài
hòa, đầy đủ 4 yếu tố cơ bản: yếu tố kinh tế, yếu tố con người (dân số), yếu tố môi
trường, sinh thái và công nghệ

Nhiệm vụ trọng tâm của khoa học và công nghệ là cung cấp những trang thiết bị kỹ
thuật hiện đại thông qua các công nghệ cao, công nghệ sạch để con người khắc phục
được những hậu quả tiêu cực cao chính những phương tiện kỹ thuật chưa hồn thiện
trước đây gây ra (xử lý các chất thải độc hại, phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên...); xây
dựng những quy trình công nghệ mới không có chất thải, những khu sản xuất liên hợp
mà những chất thải cuối cùng của chúng có thể được các sinh vật khác sử dụng để đưa
vào chu trình sinh học, v.v. Là động lực và là cơ sở của qúa trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nói riêng, của sự phát triển xã hội nói chung, khoa học và công nghệ đang
đóng góp phần quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, đặc
biệt là mục tiêu kinh tế - xã hội.
2.2. Những thành tựu đạt được về khoa học – công nghệ của Việt Nam:
- Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển.
Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, trong nhiều thập kỷ qua, chúng
ta đã đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng trở lên với trên
30 nghìn người có trình độ trên đại học (trên 14 nghìn tiến sĩ và 16 nghìn thạc sĩ) và
khoảng hơn 2 triệu cong nhân kỹ thuật; trong đó, có khoảng 34 nghìn người đang làm
việc trực tiếp trong lĩnh vực khoa học và công nghệ thuộc khu vực nhà nước. Đây là
nguồn nhân lực quan trọng cho hoạt động khoa học và công nghệ của đất nước. Thực
tế cho thấy, đội ngũ này có khả năng tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ được tri
thức, công nghệ hiện đại trong một số ngành và lĩnh vực.
Thời gian qua, đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức khoa học và công
nghệ với trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế,
trong đó có gần 500 tổ chức ngoài nhà nước; 197 trường đại học và cao đẳng, trong
đó có 30 trường ngồi công lập. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các viện, trung tâm nghiên
cứu, các phòng thí nghiệm, các trung tâm thông tin khoa học và công nghệ, thư viện,
cũng được tăng cường và nâng cấp. Đã xuất hiện một số loại hình gắn kết tốt giữa
nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với sản xuất - kinh doanh. - Khoa học và
công nghệ đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội.

Khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần quan trọng lý giải và khẳng định giá trị
khoa học và thực tiễn của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch
định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; góp phần vào thành
công của cong cuộc đổi mới nói chung và vào q trình đổi mới tư duy kinh tế nói riêng.
Các kết quả điều tra cơ bản và nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên
đã phục vụ xây dựng luận cứ khoa học cho các phương án phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Khoa học và công nghệ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp thu, làm chủ, thích
nghi và khai thác có hiệu quả các cơng nghệ nhập từ nước ngồi. Nhờ đó, trình độ cơng
nghệ trong một số ngành sản xuất, dịch vụ đã được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm
hàng hố có sức cạnh tranh cao hơn. Đặc biệt, trong lĩnh vực nông nghiệp khoa học và
công nghệ đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng và năng suất cao,
góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa nước ta từ chỗ là nước nhập khẩu
lương thực trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo, cà phê, v.v... hàng đầu trên
thế giới. Các chương trình nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu, tự động hóa, công nghệ cơ khí chế tạo máy, đã góp phần
nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng cao năng
suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế.
Khoa học và công nghệ trong những năm qua đã góp phần đào tạo và nâng cao
trình độ nhân lực, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc và
phát huy truyền thống văn hoả tốt đẹp của dân tộc. - Cơ chế quản lý khoa học và công
nghệ từng bước được đổi mới Hệ thống quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ
được tổ chức từ trung ương đến địa phương đã đẩy mạnh phát triển khoa học và công
nghệ, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa
phương. Thực hiện Luật Khoa học và công nghệ, các chương trình, đề tài, dự án khoa
học và công nghệ đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Cơ chế tuyển
chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã bước đầu được thực
hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai. Hoạt động của các tổ chức khoa học và công
nghệ đã mở rộng từ nghiên cứu - phát triển đến sản xuất và dịch vụ khoa học và công
nghệ. Quyền tự chủ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động KH&CN bước đầu được
tăng cường. Quyền tự chủ về hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học
và công nghệ được mở rộng.
Vốn huy động cho khoa học và công nghệ từ các nguồn hợp đồng với khu vực sản
xuất- kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ quốc tế và các nguồn khác, tăng đáng kể
nhờ chính sách đa dạng hố nguồn vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ. Đã cải tiến
một bước việc cấp phát kinh phí đến nhà khoa học theo hướng giảm bớt các khâu trung gian .
Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ từng
bước được hồn thiện thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm
của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân
ngàycàng được nâng cao.
Nhờ có sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động tích cực của
các tổ chức khoa học và công nghệ, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư và công tác
phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của khoa học và công nghệ đến sản xuất
và đời sống, nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng tri thức khoa học và công nghệ
của người dân trong thời gian qua đã tăng lên rõ rệt. Hoạt động khoa học và công nghệ
ngày càng được xã hội hoá trên phạm vi cả nước.
2.3. Hạn chế và nguyên nhân: 2.3.1. Hạn chế
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung khoa học và công
nghệ nước ta cịn nhiều mặt yếu kém, cịn có khoảng cách khá xa so với thế giới và khu
vực, chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng và động lực phát triển kinh tế - xã hội.
- Năng lực khoa học và công nghệ còn nhiều yếu kém:
Đội ngũ cán bộ khoa học và cơng nghệ còn thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, đặc biệt là
thiếu cán bộ khoa học và cơng nghệ trẻ kế cận có trình độ cao. Cơ cấu nhân lực khoa
học và công nghệ theo ngành nghề và lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý.
Đầu tư của xã hội cho khoa học và công nghệ còn rất thấp, đặc biệt là đầu tư từ
khu vực doanh nghiệp. Trang thiết bị của các viện nghiên cứu, trường đại học nhìn
chung cịn rất thiếu, không đồng bộ, lạc hậu so với những cơ sở sản xuất tiên tiến cùng
ngành. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực
khoa học và công nghệ chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực khoa học và
công nghệ tiên tiến; chưa đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học và công nghệ cũng như
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hệ thống dịch vụ khoa học và công nghệ, bao gồm thông tin khoa học và công
nghệ, tư vấn chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn - đo lường chất lượng
còn yếu kém cả về cơ sở vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ đáp ứng các yêu cầu
của hội nhập khu vực và quốc tế.
Thiếu sự liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu khoa học và công nghệ, giáo dục - đào
tạo và sản xuất - kinh doanh; thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức nghiên cứu
phát triển, các trường đại học và doanh nghiệp. So với các nước trong khu vực và trên
thế giới, nước ta cịn có khoảng cách rất lớn về tiềm lực và kết quả hoạt động khoa học
và công nghệ: tỷ lệ cán bộ nghiên cứu khoa học và công nghệ trong dân số và mức
đầu tư cho nghiên cứu khoa học theo đầu người thấp; các kết quả nghiên cứu phát triển
theo chuẩn mực quốc tế còn rất ít. Nhìn chung, năng lực khoa học và công nghệ nước
ta cịn yếu kém, chưa giải đáp được kịp thời nhiều vấn đề của thực tiễn đổi mới, chưa
gắn kết chặt chẽ và đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội.
- Trình độ công nghệ của nhiều ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu:
Ngoài những công nghệ tiên tiến được đầu tư mới trong một số ngành, lĩnh vực
như bưu chính - viễn thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng,
nhìn chung trình độ công nghệ của các ngành sản xuất nước ta hiện lạc hậu khoảng 2
- 3 thế hệ công nghệ so với các nước trong khu vực. Tình trạng này hạn chế năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm được đổi mới, còn mang
nặng tính hành chính: Quản lý hoạt động khoa học và công nghệ cịn tập trung chủ yếu
vào các yếu tố đầu vào, chưa chủ trọng đúng mức đến quản lý chất lượng sản phẩm
đầu ra và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Các nhiệm vụ khoa học và công
nghệ chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác
đánh giá nghiệm thu kết quả nghiên cứu chưa tương hợp với chuẩn mực quốc tế.
- Cơ chế quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ không phù hợp với đặc
thùcủa lao động sáng tạo và thể chế kinh tế thị trường định hưởng xã hội chủ nghĩa:
Các tổ chức khoa học và công nghệ chưa có được đầy đủ quyền tự chủ về kế hoạch,
tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế để phát huy tính năng động, sáng tạo. Việc quản
lý cán bộ khoa học và công nghệ theo chế độ công chức không phù hợp với hoạt động
khoa học và công nghệ, làm hạn chế khả năng lưu chuyển và đổi mới cán bộ. Thiếu
cơ chế đảm bảo để cán bộ khoa học và công nghệ được tự do chính kiến, phát huy khả
năng sáng tạo, tự chịu trách nhiệm trong khuôn khổ pháp luật. Chưa có những chính
sách hữu hiệu tạo động lực đối với cán bộ khoa học và công nghệ và chính sách thu
hút, trọng dụng nhân tài, chế độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý, không khuyến khích
cán bộ khoa học và công nghệ tòan tâm với sự nghiệp khoa học và công nghệ. Cơ chế
quản lý tài chính trong hoạt động khoa học và công nghệ chưa tạo thuận lợi cho nhà
khoa học, chưa huy động được nhiều nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; cơ chế tự
chủ về tài chính của các tổ chức khoa học và cơng nghệ chưa đi liền với tự chủ về
quản lý nhân lực nên hiệu quả còn hạn chế. Thị trường khoa học và công nghệ chậm
phát triển. Hoạt động mua, bản công nghệ và lưu thông kết quả nghiên cứu khoa học
và cơng nghệ cịn bị hạn chế do thiếu các tổ chức trung gian, môi giới, các quy định
pháp lý cần thiết, đặc biệt là hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ. Tóm lại,
công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ cịn chưa đổi mới kịp so với yêu
cầu chuyển sang kinh tế thị trường. 2.3.2. Nguyên nhân:
Đường lối chính sách phát triển khoa học và công nghệ của Đảng và Nhà nước chưa
được quán triệt đầy đủ và chậm được triển khai trong thực tiễn:
Quan điểm khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực phát triển đất nước đã
được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng nhưng trên thực tế chưa được các cấp,
các ngành, các địa phương quán triệt đầy đủ và triển khai trong thực tiễn phát triển
kinh tế - xã hội. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển
khoa học và công nghệ chậm được thể chế hố bằng các văn bản quy phạm pháp luật;
việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện chính sách thiếu kiên quyết nên kết quả còn hạn chế.
Năng lực của các cơ quan tham mưu, quản lý khoa học và công nghệ các cấp còn yếu
kém: Cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp ăn sâu vào tiềm thức và thói quen của
không ít cán bộ khoa học và công nghệ và quản lý khoa học và công nghệ đã tạo ra
sức ỳ không dễ khắc phục trong cơ chế mới, không đáp ứng được yêu cầu về đổi mới
quản lý khoa học và công nghệ trong nền kinh tế thị trường định hưởng xã hội chủ
nghĩa, bối cảnh tồn cầu hổ và hội nhập quốc tế.
Chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với những hoạt động khoa học và công
nghệ mà Nhà nước cần đầu tư phát triển như: các lĩnh vực khoa học và công nghệ
trọng điểm, ưu tiên; nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển; nghiên cứu cơ bản;
nghiên cứu mang tính công ích, v.v...; cũng như chưa có cơ chế, chính sách phù hợp
đối với các hoạt động khoa học và cơng nghệ cần và có thể vận dụng cơ chế thị trường,
như nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ.
Quản lý nhà nước đối với khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp trong hệ thống
khoa học và công nghệ chưa được tách biệt rõ ràng, làm cho công tác quản lý các tổ
chức khoa học và công nghệ còn mang nặng tính hành chính.