Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học | Đại học Yersin Đà Lạt

Tiểu luận môn Phương pháp nghiên cứu khoa học | Đại học Yersin Đà Lạt. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 11 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC YERSIN ĐÀ LẠT
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH-DU LỊCH -QHCC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NCKH
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU:
NHU CẦU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA MẠNG
FACEBOOK ĐẾN SINH VIÊN ĐẠI HỌC YERSIN
GVHD : TRỊNH THỊ HÀ
SVTH : ĐINH VĂN PHONG 12108116
:LƯ GIA HUY 12108040
Năm học : 2021-2022
Đà Lạt , Tháng năm 2022
Vào những năm 90 của thế kỉ XX, hay những năm đầu của thê kỉ XXI tại Việt
Nam, cuộc sống của người dân vẫn còn sự lạc hậu, kém phát triển và chưa tiếp cận
được công nghệ thông tin. Tuy nhiên, trong vòng 10 năm trở lại đây, cùng với sự
phát triển như vũ bão của các ngành công nghệ thông tin và thiết bị điện tử trên
Thê Giới,kèm theo đó là sự du nhập nền văn hóa phương Tây vào Việt Nam, đã có
những tác động to lớn đến thói quen sinh hoạt của hoạt cũng như cách nghĩ và lối
sống của giới trẻ, đặc biệt là các bạn học sinh sinh viên.
Ở một phương diện nào đấy, thật không thể phủ nhận được những lợi ích mà mạng
xã hội đã mang lại đã giúp ích rất nhiều cho cuộc sống chúng ta: tìm kiếm cơ hội
để phát triển khả năng của bản thân; là môi trường kinh doanh vô cùng lý tưởng để
quảng cáo sản phẩm với một mức chi phí thấp hơn rất nhiều so với kinh doanh
truyền thống. Theo nhiều nghiên cứu cho thấy, sử dụng mạng xã hội và Internet
hợp lý sẽ cải thiện não bộ và nâng cao khả năn phán đoán và ra quyết định. Nhưng,
đấy là khi bạn sử dụng chúng một cách hiệu quả, nếu không thì nó sẽ trở thành một
con dao hai lưỡi gây ra các hậu qua vô cùng trầm trngj đến cuộc sống và sức khỏe
cho chính bản thân bạn. Theo nghiên cứu từ Ustralia, sử dụng quá nhiều mạng xã
hội và Internet sẽ gây cảm giác bị loại khỏi cuộc sống thực và ngày càng cô đơn.
Theo nghiên cứu mới đăng trên tờ Computers in Human Behavior, những người
dành nhiều thời gian cho việc sử dụng mạng xã hội hàng ngày có nguy cơ ly dị
nhiều hơn. Theo tiến sĩ Sebastián Valenzuela từ ĐH Pontifical Catholic ở Chile, có
thể những người đang gặp căng thẳng trong quan hệ gia đình thích dùng việc đăng
hình và like ảnh để tránh đối mặt với vợ hoặc chồng.(Ảnh hưởng của Mạng xã hội
và Internet )
Đối với các bạn học sinh, sinh viên sử dụng MXH và Internet quá nhiều có kết quả
học tập kém hơn 20% so với học sinh sinh viên khác khác. Ngoài giờ học, 88%
sinh viên không sử dụng MXH và Internet tích cực tham gia các hoạt động ngoại
khóa, 75% sinh viên sử dụng MXH và Internet không nghĩ rằng mạng xã hội này
làm giảm sút kết quả học tập….
3.Mục tiêu nghiên cứu
Từ những thực trạng và quan điểm nêu trên, nhóm chúng em quyết định chọn đề
tài “ Nghiên cứu về sự ảnh hưởng của mạng xã hội và Internet đối với sinh viên”
với mong muốn tìm hiểu các tác động của chúng lên sinh viên và từ đó tìm ra các
biện pháp khắc phục.
Mục tiêu nghiên cứu là phân tích các tác động tích cực lẫn tiêu cực của mạng xã
hội và internet lên giới trẻ đặc biệt là sinh viên, để biết được các mặt hiệu quả của
nó nhằm nâng cao chất lượng của các mặt trên, và nêu ra được những phần hạn chế
và khắc phục chúng. Cụ thể sẽ tiến hành:
Nghiên cứu về hành vi sử dụng MXH và Internet của sinh viên Đại học YERSIN
Đà Lạt: mục đích sử dụng,tần suất, địa điểm, khả năng chi trả cho Internet,….
Phân tích tác động và sức ảnh hưởng của MXH và Internet lên giới trẻ
Xây dựng mô hình hồi quy để đo lường mức độ ảnh hưởng lên đời sống của giới
trẻ
Đề xuất các giải phá nhằm cải thiện những mặt hạn chế của MXH và Internet và
phát huy những mặt hiệu quả của chúng
4. Câu hỏi nghiên cứu
Những câu hỏi sau đây được đặt ra để trả lời và làm rõ mục tiêu nghiên cứu đã nêu
ra bên mục trên, gồm:
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng mạng xã hội và Internet của sinh
viên: tính đa dạng về nội dung, tính dễ sử dụng, tính hữu dụng,…
+ Tác hại và lợi ích khi người dùng phụ thuộc và nhiều vào mạng xã hội và
Internet
+ Các giải pháp, phương án đặt ra để hòa thiện mạng xã hội và Internet
+ Có nên hay không nên ủng hộ luật an ninh mạng vừa được thông qua?(Ảnh
hưởng của Mạng xã hội và Internet )
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tương nghiên cứu là sự ảnh hưởng của mạng xã hội và Internet lên sinh viên
Khách thể nghiên cứu là sinh viên trường Đại học YERSIN Đà Lạt
Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đại học Yersin Đà Lạt
Về thời gian: số liệu nghiên cứu được tiến hành khảo sát vào những năm gần đây
từ 2022
6. Ý nghĩa của kết quả nghiên cứu
Học sinh, sinh viên là thế hệ trẻ của đất nước, là tài nguyên vô giá của dân tộc.
Mạng xã hội đem lại những lợi ích lớn lao không gì thay thế, nhưng bên cạnh nó
nó còn có khả năng hủy hoại tương những mầm non tương lai của quốc gia. Vì
vaayk, tìm hiểu về sức ảnh hưởng của nó lên cuộc sống của giới trẻ là điều cấp
bách và vô cùng cần thiết.
6.1. Các khái niệm liên quan
6.1.1. Mạng xã hội
Theo nguồn Wikipedia- Bách khoa toàn thư mở, Dịch vụ mạng xã hội, tiếng Anh:
social networking service là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên
Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt không gian và
thời gian. Những người tham gia vào dịch vụ mạng xã hội còn được gọi là cư dân
mạng. Dịch vụ mạng xã hội có những tính năng như chat, e-mail, phim ảnh, voice
chat, chia sẻ file, blog và xã luận. Mạng đổi mới hoàn toàn cách cư dân mạng liên
kết với nhau và trở thành một phần tất yếu của mỗi ngày cho hàng trăm triệu thành
viên khắp thế giới.Các dịch vụ này có nhiều phương cách để các thành viên tìm
kiếm bạn bè, đối tác: dựa theo group (ví dụ như tên trường hoặc tên thành phố),
dựa trên thông tin cá nhân (như địa chỉ e-mail hoặc screen name), hoặc dựa trên sở
thích cá nhân (như thể thao, phim ảnh, sách báo, hoặc ca nhạc), lĩnh vực quan tâm:
kinh doanh, mua bán…Về mặt toán học, MXH có thể xem như một hệ thống gồm
các đỉnh (node) gắn với nhau thành một mạng gồm các liên kết (hoặc các cung).
Theo hướng tiếp cận này, MXH được xem như mạng phức hợp, nghĩa là một tập
hợp các hệ thống được đào tạo bởi các yếu tố đồng nhất hoặc không đồng nhất kết
nối với nhau thông qua sự tương tác khác nhau giữa các yếu tố này và đucợ trỉa ra
trên diện rộng. Mạng phức hợp có hai thuộc tính quan trọng là “hiệu ứng thế giới
nhỏ” (small-world effect) và “đặc trưng co dãn tự do”
Theo Thư ký Lãnh đạo Bộ Kinh Tế Thương Mại Vũ Kiêm Văn: MXH như một đồ
thị trong đó các nút có thể là một cá thể hoặc là một tổ chức, còn các liên kết là mô
phỏng các quan hệ trong xã hội thực. MXH là khác rất nhiều so với blog vì MXH
là một khái niệm rộng lớn hơn. Blog là một dịch vụ, một loại hình giao tiếp trong
MXH. Có những MXH dựa trên nền tảng chính là blog, có những MXH không có
blog.
Như vậy có thể hiểu, MXH là một dịch vụ kết nối các thành viên có cùng sở thích
trên internet lại với nhau, với nhiều mục đích khác nhau. Khi các cá nhân tham gia
vào MXH thì khoảng cách về không gian địa lí, giới tính, độ tuổi, thời gian trở nên
vô nghĩa. Những người sử dụng MXH được gọi là cư dân mạng. Nhờ vào những
ưu việt này mà MXH đang có tốc độ lây lan chóng mặt ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là
các thanh niên trên toàn thế giới.
6.1.2. Internet
Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công cộng gồm
các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo kiểu
nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao thức liên mạng đã
được chuẩn hóa (giao thức IP). Hệ thống này bao gồm hàng ngàn mạng máy tính
nhỏ hơn của các doanh nghiệp, của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của
người dùng cá nhân và các chính phủ trên toàn cầu. (Nguồn: Theo Wikipedia-
Bách khoa toàn thư mở)(Ảnh hưởng của Mạng xã hội và Internet )
6.1.3. Dịch vụ MXH (social networking service)
Hay MXH trực tuyến là dịch vụ xây dựng và phản ánh MXH hay mối quan hệ giữa
người với người, dựa trên nền tảng chung về sở thích, môi trường hay lĩnh vực
hoạt động, từ đó cho phép người dùng chia sẻ các nội dung do mình tạo ra để thiết
lập nên cộng đồng của chính mình. Dịch vụ mạng xã hội có những tính năng như
chat, e-mail, phim ảnh, voice chat, chia sẻ file, blog và xã luận. Mạng đổi mới hoàn
toàn cách cư dân mạng liên kết với nhau và trở thành một phần tất yếu của mỗi
ngày cho hàng trăm triệu thành viên khắp thế giới. Các dịch vụ này có nhiều
phương cách để các thành viên tìm kiếm bạn bè, đối tác: dựa theo group (ví dụ như
tên trường hoặc tên thành phố), dựa trên thông tin cá nhân (như địa chỉ e-mail hoặc
screen name), hoặc dựa trên sở thích cá nhân (như thể thao, phim ảnh, sách báo,
hoặc ca nhạc), lĩnh vực quan tâm: kinh doanh, mua bán…
6.1.4. Toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền
kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc
gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế… trên quy mô toàn cầu.
Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để chỉ các tác
động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay “tự do thương mại”
nói riêng.
Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu
kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hóa. (Theo
Bách khoa toàn thư- Wikipedia)
Toàn cầu hóa là một hiện tượng có ý nghĩa cách mạng trong tiến trình phát triển
của lịch sử nhân loại. Quá trình này dẫn tới những biến đổi mạnh mẽ trong cấu trúc
kinh tế – chính trị của quan hệ quốc tế, song song với những thay đổi về đời sống
văn hóa-xã hội của người dân trên khắp toàn cầu. Tuy nhiên, đây không phải là
một hiện tượng đơn nhất, bất biến mà là một quá trình phức tạp, đa phương diện,
đa chiều hướng và luôn vận động, biến đổi.(Ảnh hưởng của Mạng xã hội và
Internet )
6.2. Cơ sở lý thuyết
Lý thyết toàn cầu hóa: được thể hiện trong các vấn đề sau:
Toàn cầu hóa tài chính nhằm xóa bỏ sự điều hành thị trường dẫn đến sự hợp nhất
các loại hình công ty xuyên quốc gia
Toàn cầu hóa về công nghệ và sự phát triển công nghệ
Toàn cầu hóa về cảm thụ ý thức toàn cầu để hình thành 1 loại hình thế giới và văn
hóa
Lý thuyết này giúp tìm ra được sự phát triển của đất nước nhất là trong lĩnh vực
công nghệ thông tin đã tạo điều kiện cho giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng
trong việc tiếp cận Internet và MXH. Từ đó có thể thấy được nhu cầu sử dụng
MXH và Internet của sinh viên trong thời kì toàn cầu hóa đất nước
6.3. Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
6.3.1. Tổng quan các quan điểm của tác giả nước ngoài
Cùng với sự phát triển của dịch vụ internet, thì các báo cáo lâm sàng về những
trường hợp sử dụng internet quá mức cũng tăng nhanh.
Theo Maressa Orzack, giám đốc Trung tâm nghiên cứu nghiện máy tính tại Bệnh
viện McLean thuộc Đại học Harvard, khoảng 5-10% người nghiện máy tính phải
chịu đựng một vài hình thức lệ thuộc vào mạng internet(Ảnh hưởng của Mạng xã
hội và Internet )
Nghiên cứu của David Greenfield (The Center for Internet and Technology
Addiction) vào năm 1999 trên 18.000 người thì có khoảng 5,7% người lạm dụng
Internet quá mức. Ông cũng cho rằng có nhiều dịch vụ trên internet tạo ra sự chia
ly, sự sai lệch về thời gian, ảnh hưởng đến cuộc sống. Ông cũng khẳng định tình
dục, trò chơi, đánh bạc và mua sắm trực tuyến có thể tác động làm thay đổi tâm
trạng của người sử dụng.Trong khi xã hội ngày càng lo ngại về việc lạm dụng
Internet. Khảo sát tại Mỹ và châu Âu cho thấy tầm 1.5% đến 8.2% dân số sử dụng
Internet quá mức.
Nhóm các nhà nghiên cứu về thần kinh do Antonio Damasio, giám đốc Viện Não
và óc sáng tạo tại ĐH nam California (Mỹ), vừa thực hiện đề tài ảnh hưởng của các
mạng xã hội tới cảm xúc con người. Trái ngược với nhiều suy nghĩ rằng mạng xã
hội giúp chúng ta cập nhật với thế giới, bà Mary Helen Immordino-Yang, một
trong những nhà nghiên cứu, cho biết họ nhận thấy các cảm xúc liên quan tới cảm
giác về đạo đức chậm phản ứng hơn trước tin tức và sự kiện. Mạng xã hội cũng
không giúp con người bắt nhịp kịp thế giới hiện đại. Chúng ta cần có thời gian để
“tiêu hóa” tin tức, cảm xúc với tin tức, mà các mạng xã hội liên tục cập nhật thông
tin. Vì vậy con người dễ bị trơ lỳ cảm xúc.
Theo Telegraph, các nhà nghiên cứu cho rằng các hoạt động thường ngày như đọc
sách, gặp gỡ người thân, giao lưu bạn bè, vốn là những hoạt động giúp chúng ta
định nghĩa được các giá trị đạo đức. Tuy nhiên, những hoạt động này đang bị lấn át
và ngày càng ít đi vì sự hấp dẫn của những website cập nhật các dòng tin ngắn vô
hồn.
Với trẻ em, các mạng xã hội đặc biệt có tác dụng tiêu cực, vì dễ bị tổn thương do
não đang phát triển. Nếu mọi việc xảy ra quá nhanh, con người sẽ không thể cảm
thụ được đầy đủ các cảm xúc mang tính trạng thái tâm lý.
Jay P. Campisi, tác giả nghiên cứu từ Đại học Regis, tin rằng việc sử mạng xã hội
không phải là câu trả lời để cảm thấy tốt hơn, cả về cảm xúc, tinh thần, lẫn thể
chất.(Ảnh hưởng của Mạng xã hội và Internet
Tuy nhiên, trong một báo cáo, Collin et al. (2011) tóm tắt các lợi ích của mạng xã
hội bao gồm nâng cao kết quả học tập, hỗ trợ các mối quan hệ xã hội, xác định cái
tôi, cảm giác tự tin và cảm thấy là một phầncủa cộng đồng.
6.3.2. Tổng quan các quan điểm của tác giả trong nước
Trong một luận văn thạc sĩ của sinh viên Bùi Thu Hoài, đã nêu lên sự ảnh hưởng
của mạng xã hội cùng với sự phụ thuộc vào báo chí trong bói cảnh truyền thông xã
hội, và anh đã đè ra các biện pháp quản lý nhà nước về mạng xã hội để nâng cao
hiệu quả của sử dụng mạng xã hội ở giới trẻ.
Chia sẻ kết quả nghiên cứu của VPIS, Tiến sĩ tâm lý Trần Thành Nam cho biết:
“Báo cáo về Tác động tâm lý của MXH với tâm lý người dùng 2017 là nghiên cứu
đầu tiên tại Việt Nam sử dụng phương pháp thực nghiệm 72 giờ không Facebook
để đo lường sự thay đổi trạng thái tâm lý của người tham gia và mức độ gắn bó với
Facebook sau 3 ngày. Kết quả đáng chú ý là gần 43,1% người tham gia thực
nghiệm đã vi phạm cam kết ngay sau 6 tiếng đầu tiên tham gia. Những trạng thái
cảm xúc thường thấy ở mức cao hơn trung bình quá trình diễn ra thực nghiệm là
khách thể tham gia cảm thấy mất kết nối với bạn bè, lạc hậu do không nắm được
các thông tin đang diễn ra và luôn bứt rứt, thiếu thốn một thứ gì đó.”
TS. Lê Minh Công, Phó trưởng khoa, Khoa Tâm lý học, Trường ĐH KHXH&NV,
Đại học Quốc gia TP. HCM, một trong những diễn giả của Hội thảo đã đưa ra
những tiếp cận khái niệm về nghiện Internet, trong đó có hai tiếp cận được xem xét
rộng rãi, tiếp cận dựa trên nền tảng “rối loạn kiểm soát xung lực (Impulse control
disorder) (Young,1996; Block,2008) và tiếp cận dựa trên rối loạn sử dụng chất
(Goldberg (1996; Griffiths,1996,2007). Tiếp cận rối loạn kiểm soát xung lực cho
rằng, nghiện Internet là sự thiếu khả năng kháng cự một hành động có tính bị
cưỡng bức hay hành vi mà có thể gây hại cho bản thân hay người khác và là một
nhóm các rối loạn về mất kiểm soát hành vi …”.(Ảnh hưởng của Mạng xã hội và
Internet )
Nghiên cứu của TS. Lê Minh Công và Nguyễn Văn Thọ năm 2015 đối với thanh
thiếu niên nghiện Internet ở Đồng Nai có các dấu hiệu nổi bật: Mất kiểm soát, Sự
dung nạp (ngày càng gia tăng), Nói dối gia đình, thầy cô về hành vi truy cập, Có
các biểu hiện của hội chứng cai (lo lắng, buồn chán, mất hứng thú) và Ảnh hưởng
nghiêm trọng đến học tập, công việc, mối quan hệ xã hội.
Phó Giáo sư Bùi Thị Hồng Thái, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
chia sẻ kết quả nghiên cứu “Mạng xã hội với thanh niên Việt Nam – Thực trạng và
Giải pháp (GS.Trần Hữu Luyến chủ nhiệm, thời gian thực hiện: 2012-2015) cho
thấy, sinh viên thường sử dụng MXH với mục đích tương tác và giải trí trên mạng
ở mức cao nhất, tiếp đó là mục đích thể hiện bản thân (bày tỏ cảm xúc, ý kiến, chia
sẻ khó khăn tâm lý) và ở mức thấp nhất là việc sử dụng MXH nhằm kinh doanh và
thử nghiệm cuộc sống. Sinh viên sử dụng MXH thường chịu áp lực về mặt thời
gian (thời gian sử dụng MXH ngày càng tăng lên) và ảnh hưởng tới các hoạt động
sống (học tập, giao tiếp với bạn bè, sức khỏe). Nhưng ảnh hưởng tới khả năng làm
chủ bản thân đối với việc sử dụng MXH là không đáng kể.(Ảnh hưởng của Mạng
xã hội và Internet )
Với kinh nghiệm đào tạo, nghiên cứu và điều trị nghiện chất ở Việt Nam, Bs, Ths.
Vũ Huy Hoàng, Hiệp hội Y học Nghiện Quốc tế (ISAM) đưa ra nhận định: “Chúng
ta có thể thấy rằng hiện tại thế giới đang có nhiều nỗ lực nghiên cứu, phân loại và
đưa ra những tiêu chí chuẩn đoán các rối loạn liên quan đến các ứng dụng trên
internet. Hiện các rối loạn do nghiện chất gây nên biểu hiện như buộc phải sử
dụng, thèm nhớ, thời gian và tần xuất sử dụng ngày càng tăng, mong muốn nhưng
không giảm hoặc ngừng sử dụng được, và thậm chí còn sử dụng bất chấp các hậu
quả để mà thuyên giảm các triệu chứng của bệnh nghiện. Với các thông tin đã có
về nghiện hành vi và nghiện chất, chúng ta hiểu đây là các rối loạn có liên quan
đến y sinh-tâm lý-xã hội. Bởi vậy, cần dự phòng và can thiệp sớm nhất nếu có thể
kể cả về mặt thực thể và hành vi, cũng như giải quyết sớm vấn đề kỳ thị và phân
biệt đối xử, một yếu tố luôn là rào cản lớn trong giải quyết vấn đề nghiện. Trước
mắt có lẽ các mô hình can thiệp ở viện, trường, hoặc ở các nhóm VPIS sẽ cung cấp
thêm thông tin sâu hơn về những biểu hiện, các vấn đề về tâm lý và thể chất liên
quan đến sử dụng MXH, giúp chẩn đoán sớm và cung cấp những can thiệp phù
hợp.”( Theo Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp)
6.4. Các giả thuyết nghiên cứu
Các giả thuyết kiểm định được đặt ra dựa trên mục tiêu, cơ sở lý thuyết như sau:
H1: Tính hữu dụng của MXH và interet có tác động tích cực đối với sinh viên
H2: Tính dễ sử dụng ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng MXH và Interet của
người dùng
H3: Tính đa dạng trong các trang mạng góp phần tăng sự hứng thú cho người sử
dụng
H4: Các yếu tố gián tiếp tăng mức độ ảnh hưởng của internet và MXH đến sinh
viên như sự tò mò, định hướng thị trường, nhận thức về sự hữu ích,…
Phương pháp NC trong bài báo cáo là kết hợp giữa thống kê, mô tả và hồi quy,
phương pháp phân tích- tổng hợp và xử lý dữ liệu trên máy qua phần mầm SPSS
20, kết hợp giữa NC định lượng và NC định tính, được thực hiện cụ thể như sau:
Nghiên cứu định tính(xác định mô hình, các nhân tố ảnh hưởng, biến phụ thuộc, để
thiết lập bảng khảo sát)
Nghiên cứu định lượng ( dựa trên kết quả NC, sử dụng bảng khảo sát sinh viên ĐH
YERSIN để thu thập dữ liệu,sau đó phân tích dữ liệu)
7. Cách tiếp cận đề tài nghiên cứu
Sử dụng bảng hỏi làm khảo sát 40 học sinh tại trường Đại học YERSIN để khảo sát
về thời gian, mức độ thường xuyên, mục đích sử dụng, suy nghĩ về các tác hại
cũng như lợi ích có được từ việc sử dụng MXH và Internet,….
8. Phương pháp chọn mẫu/ quy mô mẫu(Ảnh hưởng của Mạng xã hội và
Internet )
Đối tượng chọn mẫu để khảo sát là sinh viên của trường ĐH YERSIN Đà Lạt gồm
khoảng 40 người người đến từ các năm khác nhau.
9. Loại dữ liệu cần thu thập
+ Dữ liệu sơ cấp: được thu thập từ bảng khảo sát đã làm bên trên
+ Dữ liệu thứ cấp: thu thập từ các trang web uy tín như cafe.vn, các trang báo
mạng như Báo Dân Trí, VNexpress, Báo Tuổi trẻ online,…
Bài nghiên cứu sẽ được trình bày theo bố cục như sau:
Phần mở đầu:
Lý do chon đề tài, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, đối tương và phạm vi
nghiên cứu
Phần nội dung:
Cơ sở lý thuyết
Các khái niệm liên quan
Đặc điểm của MXH và Internet ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động và cuộc
sống của người sử dụng
Các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng MXH và Internet
Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
Phần dữ liệu
Phần nêu lên tác hại và lợi ích, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục và phương
hướng hoàn thiện quy mô MXH và Internet
Tiến độ thực hiện
Từ ngày 10- ngày 15: thu thập dữ liêu nghiên cứu
Từ ngày 16-ngày 18: xử lý dữ liệu đã thu thập
Từ ngày 19- ngày : Hoàn thiện bài nghiên cứu
| 1/11

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC YERSIN ĐÀ LẠT
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH-DU LỊCH -QHCC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NCKH
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU:
NHU CẦU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA MẠNG
FACEBOOK ĐẾN SINH VIÊN ĐẠI HỌC YERSIN
GVHD : TRỊNH THỊ HÀ
SVTH : ĐINH VĂN PHONG 12108116 :LƯ GIA HUY 12108040 Năm học : 2021-2022 Đà Lạt , Tháng năm 2022
Vào những năm 90 của thế kỉ XX, hay những năm đầu của thê kỉ XXI tại Việt
Nam, cuộc sống của người dân vẫn còn sự lạc hậu, kém phát triển và chưa tiếp cận
được công nghệ thông tin. Tuy nhiên, trong vòng 10 năm trở lại đây, cùng với sự
phát triển như vũ bão của các ngành công nghệ thông tin và thiết bị điện tử trên
Thê Giới,kèm theo đó là sự du nhập nền văn hóa phương Tây vào Việt Nam, đã có
những tác động to lớn đến thói quen sinh hoạt của hoạt cũng như cách nghĩ và lối
sống của giới trẻ, đặc biệt là các bạn học sinh sinh viên.
Ở một phương diện nào đấy, thật không thể phủ nhận được những lợi ích mà mạng
xã hội đã mang lại đã giúp ích rất nhiều cho cuộc sống chúng ta: tìm kiếm cơ hội
để phát triển khả năng của bản thân; là môi trường kinh doanh vô cùng lý tưởng để
quảng cáo sản phẩm với một mức chi phí thấp hơn rất nhiều so với kinh doanh
truyền thống. Theo nhiều nghiên cứu cho thấy, sử dụng mạng xã hội và Internet
hợp lý sẽ cải thiện não bộ và nâng cao khả năn phán đoán và ra quyết định. Nhưng,
đấy là khi bạn sử dụng chúng một cách hiệu quả, nếu không thì nó sẽ trở thành một
con dao hai lưỡi gây ra các hậu qua vô cùng trầm trngj đến cuộc sống và sức khỏe
cho chính bản thân bạn. Theo nghiên cứu từ Ustralia, sử dụng quá nhiều mạng xã
hội và Internet sẽ gây cảm giác bị loại khỏi cuộc sống thực và ngày càng cô đơn.
Theo nghiên cứu mới đăng trên tờ Computers in Human Behavior, những người
dành nhiều thời gian cho việc sử dụng mạng xã hội hàng ngày có nguy cơ ly dị
nhiều hơn. Theo tiến sĩ Sebastián Valenzuela từ ĐH Pontifical Catholic ở Chile, có
thể những người đang gặp căng thẳng trong quan hệ gia đình thích dùng việc đăng
hình và like ảnh để tránh đối mặt với vợ hoặc chồng.(Ảnh hưởng của Mạng xã hội và Internet )
Đối với các bạn học sinh, sinh viên sử dụng MXH và Internet quá nhiều có kết quả
học tập kém hơn 20% so với học sinh sinh viên khác khác. Ngoài giờ học, 88%
sinh viên không sử dụng MXH và Internet tích cực tham gia các hoạt động ngoại
khóa, 75% sinh viên sử dụng MXH và Internet không nghĩ rằng mạng xã hội này
làm giảm sút kết quả học tập….
3.Mục tiêu nghiên cứu
Từ những thực trạng và quan điểm nêu trên, nhóm chúng em quyết định chọn đề
tài “ Nghiên cứu về sự ảnh hưởng của mạng xã hội và Internet đối với sinh viên”
với mong muốn tìm hiểu các tác động của chúng lên sinh viên và từ đó tìm ra các biện pháp khắc phục.
Mục tiêu nghiên cứu là phân tích các tác động tích cực lẫn tiêu cực của mạng xã
hội và internet lên giới trẻ đặc biệt là sinh viên, để biết được các mặt hiệu quả của
nó nhằm nâng cao chất lượng của các mặt trên, và nêu ra được những phần hạn chế
và khắc phục chúng. Cụ thể sẽ tiến hành:
Nghiên cứu về hành vi sử dụng MXH và Internet của sinh viên Đại học YERSIN
Đà Lạt: mục đích sử dụng,tần suất, địa điểm, khả năng chi trả cho Internet,….
Phân tích tác động và sức ảnh hưởng của MXH và Internet lên giới trẻ
Xây dựng mô hình hồi quy để đo lường mức độ ảnh hưởng lên đời sống của giới trẻ
Đề xuất các giải phá nhằm cải thiện những mặt hạn chế của MXH và Internet và
phát huy những mặt hiệu quả của chúng
4. Câu hỏi nghiên cứu
Những câu hỏi sau đây được đặt ra để trả lời và làm rõ mục tiêu nghiên cứu đã nêu ra bên mục trên, gồm:
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng mạng xã hội và Internet của sinh
viên: tính đa dạng về nội dung, tính dễ sử dụng, tính hữu dụng,…
+ Tác hại và lợi ích khi người dùng phụ thuộc và nhiều vào mạng xã hội và Internet
+ Các giải pháp, phương án đặt ra để hòa thiện mạng xã hội và Internet
+ Có nên hay không nên ủng hộ luật an ninh mạng vừa được thông qua?(Ảnh
hưởng của Mạng xã hội và Internet )
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu:
Đối tương nghiên cứu là sự ảnh hưởng của mạng xã hội và Internet lên sinh viên
Khách thể nghiên cứu là sinh viên trường Đại học YERSIN Đà Lạt Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đại học Yersin Đà Lạt
Về thời gian: số liệu nghiên cứu được tiến hành khảo sát vào những năm gần đây từ 2022
6. Ý nghĩa của kết quả nghiên cứu
Học sinh, sinh viên là thế hệ trẻ của đất nước, là tài nguyên vô giá của dân tộc.
Mạng xã hội đem lại những lợi ích lớn lao không gì thay thế, nhưng bên cạnh nó
nó còn có khả năng hủy hoại tương những mầm non tương lai của quốc gia. Vì
vaayk, tìm hiểu về sức ảnh hưởng của nó lên cuộc sống của giới trẻ là điều cấp
bách và vô cùng cần thiết.
6.1. Các khái niệm liên quan 6.1.1. Mạng xã hội
Theo nguồn Wikipedia- Bách khoa toàn thư mở, Dịch vụ mạng xã hội, tiếng Anh:
social networking service là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên
Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt không gian và
thời gian. Những người tham gia vào dịch vụ mạng xã hội còn được gọi là cư dân
mạng. Dịch vụ mạng xã hội có những tính năng như chat, e-mail, phim ảnh, voice
chat, chia sẻ file, blog và xã luận. Mạng đổi mới hoàn toàn cách cư dân mạng liên
kết với nhau và trở thành một phần tất yếu của mỗi ngày cho hàng trăm triệu thành
viên khắp thế giới.Các dịch vụ này có nhiều phương cách để các thành viên tìm
kiếm bạn bè, đối tác: dựa theo group (ví dụ như tên trường hoặc tên thành phố),
dựa trên thông tin cá nhân (như địa chỉ e-mail hoặc screen name), hoặc dựa trên sở
thích cá nhân (như thể thao, phim ảnh, sách báo, hoặc ca nhạc), lĩnh vực quan tâm:
kinh doanh, mua bán…Về mặt toán học, MXH có thể xem như một hệ thống gồm
các đỉnh (node) gắn với nhau thành một mạng gồm các liên kết (hoặc các cung).
Theo hướng tiếp cận này, MXH được xem như mạng phức hợp, nghĩa là một tập
hợp các hệ thống được đào tạo bởi các yếu tố đồng nhất hoặc không đồng nhất kết
nối với nhau thông qua sự tương tác khác nhau giữa các yếu tố này và đucợ trỉa ra
trên diện rộng. Mạng phức hợp có hai thuộc tính quan trọng là “hiệu ứng thế giới
nhỏ” (small-world effect) và “đặc trưng co dãn tự do”
Theo Thư ký Lãnh đạo Bộ Kinh Tế Thương Mại Vũ Kiêm Văn: MXH như một đồ
thị trong đó các nút có thể là một cá thể hoặc là một tổ chức, còn các liên kết là mô
phỏng các quan hệ trong xã hội thực. MXH là khác rất nhiều so với blog vì MXH
là một khái niệm rộng lớn hơn. Blog là một dịch vụ, một loại hình giao tiếp trong
MXH. Có những MXH dựa trên nền tảng chính là blog, có những MXH không có blog.
Như vậy có thể hiểu, MXH là một dịch vụ kết nối các thành viên có cùng sở thích
trên internet lại với nhau, với nhiều mục đích khác nhau. Khi các cá nhân tham gia
vào MXH thì khoảng cách về không gian địa lí, giới tính, độ tuổi, thời gian trở nên
vô nghĩa. Những người sử dụng MXH được gọi là cư dân mạng. Nhờ vào những
ưu việt này mà MXH đang có tốc độ lây lan chóng mặt ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là
các thanh niên trên toàn thế giới. 6.1.2. Internet
Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công cộng gồm
các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo kiểu
nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao thức liên mạng đã
được chuẩn hóa (giao thức IP). Hệ thống này bao gồm hàng ngàn mạng máy tính
nhỏ hơn của các doanh nghiệp, của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của
người dùng cá nhân và các chính phủ trên toàn cầu. (Nguồn: Theo Wikipedia-
Bách khoa toàn thư mở)(Ảnh hưởng của Mạng xã hội và Internet )
6.1.3. Dịch vụ MXH (social networking service)
Hay MXH trực tuyến là dịch vụ xây dựng và phản ánh MXH hay mối quan hệ giữa
người với người, dựa trên nền tảng chung về sở thích, môi trường hay lĩnh vực
hoạt động, từ đó cho phép người dùng chia sẻ các nội dung do mình tạo ra để thiết
lập nên cộng đồng của chính mình. Dịch vụ mạng xã hội có những tính năng như
chat, e-mail, phim ảnh, voice chat, chia sẻ file, blog và xã luận. Mạng đổi mới hoàn
toàn cách cư dân mạng liên kết với nhau và trở thành một phần tất yếu của mỗi
ngày cho hàng trăm triệu thành viên khắp thế giới. Các dịch vụ này có nhiều
phương cách để các thành viên tìm kiếm bạn bè, đối tác: dựa theo group (ví dụ như
tên trường hoặc tên thành phố), dựa trên thông tin cá nhân (như địa chỉ e-mail hoặc
screen name), hoặc dựa trên sở thích cá nhân (như thể thao, phim ảnh, sách báo,
hoặc ca nhạc), lĩnh vực quan tâm: kinh doanh, mua bán… 6.1.4. Toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền
kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc
gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế… trên quy mô toàn cầu.
Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để chỉ các tác
động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay “tự do thương mại” nói riêng.
Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu
kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hóa. (Theo
Bách khoa toàn thư- Wikipedia)
Toàn cầu hóa là một hiện tượng có ý nghĩa cách mạng trong tiến trình phát triển
của lịch sử nhân loại. Quá trình này dẫn tới những biến đổi mạnh mẽ trong cấu trúc
kinh tế – chính trị của quan hệ quốc tế, song song với những thay đổi về đời sống
văn hóa-xã hội của người dân trên khắp toàn cầu. Tuy nhiên, đây không phải là
một hiện tượng đơn nhất, bất biến mà là một quá trình phức tạp, đa phương diện,
đa chiều hướng và luôn vận động, biến đổi.(Ảnh hưởng của Mạng xã hội và Internet )
6.2. Cơ sở lý thuyết
Lý thyết toàn cầu hóa: được thể hiện trong các vấn đề sau:
Toàn cầu hóa tài chính nhằm xóa bỏ sự điều hành thị trường dẫn đến sự hợp nhất
các loại hình công ty xuyên quốc gia
Toàn cầu hóa về công nghệ và sự phát triển công nghệ
Toàn cầu hóa về cảm thụ ý thức toàn cầu để hình thành 1 loại hình thế giới và văn hóa
Lý thuyết này giúp tìm ra được sự phát triển của đất nước nhất là trong lĩnh vực
công nghệ thông tin đã tạo điều kiện cho giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng
trong việc tiếp cận Internet và MXH. Từ đó có thể thấy được nhu cầu sử dụng
MXH và Internet của sinh viên trong thời kì toàn cầu hóa đất nước
6.3. Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
6.3.1. Tổng quan các quan điểm của tác giả nước ngoài
Cùng với sự phát triển của dịch vụ internet, thì các báo cáo lâm sàng về những
trường hợp sử dụng internet quá mức cũng tăng nhanh.
Theo Maressa Orzack, giám đốc Trung tâm nghiên cứu nghiện máy tính tại Bệnh
viện McLean thuộc Đại học Harvard, khoảng 5-10% người nghiện máy tính phải
chịu đựng một vài hình thức lệ thuộc vào mạng internet(Ảnh hưởng của Mạng xã hội và Internet )
Nghiên cứu của David Greenfield (The Center for Internet and Technology
Addiction) vào năm 1999 trên 18.000 người thì có khoảng 5,7% người lạm dụng
Internet quá mức. Ông cũng cho rằng có nhiều dịch vụ trên internet tạo ra sự chia
ly, sự sai lệch về thời gian, ảnh hưởng đến cuộc sống. Ông cũng khẳng định tình
dục, trò chơi, đánh bạc và mua sắm trực tuyến có thể tác động làm thay đổi tâm
trạng của người sử dụng.Trong khi xã hội ngày càng lo ngại về việc lạm dụng
Internet. Khảo sát tại Mỹ và châu Âu cho thấy tầm 1.5% đến 8.2% dân số sử dụng Internet quá mức.
Nhóm các nhà nghiên cứu về thần kinh do Antonio Damasio, giám đốc Viện Não
và óc sáng tạo tại ĐH nam California (Mỹ), vừa thực hiện đề tài ảnh hưởng của các
mạng xã hội tới cảm xúc con người. Trái ngược với nhiều suy nghĩ rằng mạng xã
hội giúp chúng ta cập nhật với thế giới, bà Mary Helen Immordino-Yang, một
trong những nhà nghiên cứu, cho biết họ nhận thấy các cảm xúc liên quan tới cảm
giác về đạo đức chậm phản ứng hơn trước tin tức và sự kiện. Mạng xã hội cũng
không giúp con người bắt nhịp kịp thế giới hiện đại. Chúng ta cần có thời gian để
“tiêu hóa” tin tức, cảm xúc với tin tức, mà các mạng xã hội liên tục cập nhật thông
tin. Vì vậy con người dễ bị trơ lỳ cảm xúc.
Theo Telegraph, các nhà nghiên cứu cho rằng các hoạt động thường ngày như đọc
sách, gặp gỡ người thân, giao lưu bạn bè, vốn là những hoạt động giúp chúng ta
định nghĩa được các giá trị đạo đức. Tuy nhiên, những hoạt động này đang bị lấn át
và ngày càng ít đi vì sự hấp dẫn của những website cập nhật các dòng tin ngắn vô hồn.
Với trẻ em, các mạng xã hội đặc biệt có tác dụng tiêu cực, vì dễ bị tổn thương do
não đang phát triển. Nếu mọi việc xảy ra quá nhanh, con người sẽ không thể cảm
thụ được đầy đủ các cảm xúc mang tính trạng thái tâm lý.
Jay P. Campisi, tác giả nghiên cứu từ Đại học Regis, tin rằng việc sử mạng xã hội
không phải là câu trả lời để cảm thấy tốt hơn, cả về cảm xúc, tinh thần, lẫn thể
chất.(Ảnh hưởng của Mạng xã hội và Internet
Tuy nhiên, trong một báo cáo, Collin et al. (2011) tóm tắt các lợi ích của mạng xã
hội bao gồm nâng cao kết quả học tập, hỗ trợ các mối quan hệ xã hội, xác định cái
tôi, cảm giác tự tin và cảm thấy là một phầncủa cộng đồng.
6.3.2. Tổng quan các quan điểm của tác giả trong nước
Trong một luận văn thạc sĩ của sinh viên Bùi Thu Hoài, đã nêu lên sự ảnh hưởng
của mạng xã hội cùng với sự phụ thuộc vào báo chí trong bói cảnh truyền thông xã
hội, và anh đã đè ra các biện pháp quản lý nhà nước về mạng xã hội để nâng cao
hiệu quả của sử dụng mạng xã hội ở giới trẻ.
Chia sẻ kết quả nghiên cứu của VPIS, Tiến sĩ tâm lý Trần Thành Nam cho biết:
“Báo cáo về Tác động tâm lý của MXH với tâm lý người dùng 2017 là nghiên cứu
đầu tiên tại Việt Nam sử dụng phương pháp thực nghiệm 72 giờ không Facebook
để đo lường sự thay đổi trạng thái tâm lý của người tham gia và mức độ gắn bó với
Facebook sau 3 ngày. Kết quả đáng chú ý là gần 43,1% người tham gia thực
nghiệm đã vi phạm cam kết ngay sau 6 tiếng đầu tiên tham gia. Những trạng thái
cảm xúc thường thấy ở mức cao hơn trung bình quá trình diễn ra thực nghiệm là
khách thể tham gia cảm thấy mất kết nối với bạn bè, lạc hậu do không nắm được
các thông tin đang diễn ra và luôn bứt rứt, thiếu thốn một thứ gì đó.”
TS. Lê Minh Công, Phó trưởng khoa, Khoa Tâm lý học, Trường ĐH KHXH&NV,
Đại học Quốc gia TP. HCM, một trong những diễn giả của Hội thảo đã đưa ra
những tiếp cận khái niệm về nghiện Internet, trong đó có hai tiếp cận được xem xét
rộng rãi, tiếp cận dựa trên nền tảng “rối loạn kiểm soát xung lực (Impulse control
disorder) (Young,1996; Block,2008) và tiếp cận dựa trên rối loạn sử dụng chất
(Goldberg (1996; Griffiths,1996,2007). Tiếp cận rối loạn kiểm soát xung lực cho
rằng, nghiện Internet là sự thiếu khả năng kháng cự một hành động có tính bị
cưỡng bức hay hành vi mà có thể gây hại cho bản thân hay người khác và là một
nhóm các rối loạn về mất kiểm soát hành vi …”.(Ảnh hưởng của Mạng xã hội và Internet )
Nghiên cứu của TS. Lê Minh Công và Nguyễn Văn Thọ năm 2015 đối với thanh
thiếu niên nghiện Internet ở Đồng Nai có các dấu hiệu nổi bật: Mất kiểm soát, Sự
dung nạp (ngày càng gia tăng), Nói dối gia đình, thầy cô về hành vi truy cập, Có
các biểu hiện của hội chứng cai (lo lắng, buồn chán, mất hứng thú) và Ảnh hưởng
nghiêm trọng đến học tập, công việc, mối quan hệ xã hội.
Phó Giáo sư Bùi Thị Hồng Thái, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
chia sẻ kết quả nghiên cứu “Mạng xã hội với thanh niên Việt Nam – Thực trạng và
Giải pháp (GS.Trần Hữu Luyến chủ nhiệm, thời gian thực hiện: 2012-2015) cho
thấy, sinh viên thường sử dụng MXH với mục đích tương tác và giải trí trên mạng
ở mức cao nhất, tiếp đó là mục đích thể hiện bản thân (bày tỏ cảm xúc, ý kiến, chia
sẻ khó khăn tâm lý) và ở mức thấp nhất là việc sử dụng MXH nhằm kinh doanh và
thử nghiệm cuộc sống. Sinh viên sử dụng MXH thường chịu áp lực về mặt thời
gian (thời gian sử dụng MXH ngày càng tăng lên) và ảnh hưởng tới các hoạt động
sống (học tập, giao tiếp với bạn bè, sức khỏe). Nhưng ảnh hưởng tới khả năng làm
chủ bản thân đối với việc sử dụng MXH là không đáng kể.(Ảnh hưởng của Mạng xã hội và Internet )
Với kinh nghiệm đào tạo, nghiên cứu và điều trị nghiện chất ở Việt Nam, Bs, Ths.
Vũ Huy Hoàng, Hiệp hội Y học Nghiện Quốc tế (ISAM) đưa ra nhận định: “Chúng
ta có thể thấy rằng hiện tại thế giới đang có nhiều nỗ lực nghiên cứu, phân loại và
đưa ra những tiêu chí chuẩn đoán các rối loạn liên quan đến các ứng dụng trên
internet. Hiện các rối loạn do nghiện chất gây nên biểu hiện như buộc phải sử
dụng, thèm nhớ, thời gian và tần xuất sử dụng ngày càng tăng, mong muốn nhưng
không giảm hoặc ngừng sử dụng được, và thậm chí còn sử dụng bất chấp các hậu
quả để mà thuyên giảm các triệu chứng của bệnh nghiện. Với các thông tin đã có
về nghiện hành vi và nghiện chất, chúng ta hiểu đây là các rối loạn có liên quan
đến y sinh-tâm lý-xã hội. Bởi vậy, cần dự phòng và can thiệp sớm nhất nếu có thể
kể cả về mặt thực thể và hành vi, cũng như giải quyết sớm vấn đề kỳ thị và phân
biệt đối xử, một yếu tố luôn là rào cản lớn trong giải quyết vấn đề nghiện. Trước
mắt có lẽ các mô hình can thiệp ở viện, trường, hoặc ở các nhóm VPIS sẽ cung cấp
thêm thông tin sâu hơn về những biểu hiện, các vấn đề về tâm lý và thể chất liên
quan đến sử dụng MXH, giúp chẩn đoán sớm và cung cấp những can thiệp phù
hợp.”( Theo Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp)
6.4. Các giả thuyết nghiên cứu
Các giả thuyết kiểm định được đặt ra dựa trên mục tiêu, cơ sở lý thuyết như sau:
H1: Tính hữu dụng của MXH và interet có tác động tích cực đối với sinh viên
H2: Tính dễ sử dụng ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng MXH và Interet của người dùng
H3: Tính đa dạng trong các trang mạng góp phần tăng sự hứng thú cho người sử dụng
H4: Các yếu tố gián tiếp tăng mức độ ảnh hưởng của internet và MXH đến sinh
viên như sự tò mò, định hướng thị trường, nhận thức về sự hữu ích,…
Phương pháp NC trong bài báo cáo là kết hợp giữa thống kê, mô tả và hồi quy,
phương pháp phân tích- tổng hợp và xử lý dữ liệu trên máy qua phần mầm SPSS
20, kết hợp giữa NC định lượng và NC định tính, được thực hiện cụ thể như sau:
Nghiên cứu định tính(xác định mô hình, các nhân tố ảnh hưởng, biến phụ thuộc, để
thiết lập bảng khảo sát)
Nghiên cứu định lượng ( dựa trên kết quả NC, sử dụng bảng khảo sát sinh viên ĐH
YERSIN để thu thập dữ liệu,sau đó phân tích dữ liệu)
7. Cách tiếp cận đề tài nghiên cứu
Sử dụng bảng hỏi làm khảo sát 40 học sinh tại trường Đại học YERSIN để khảo sát
về thời gian, mức độ thường xuyên, mục đích sử dụng, suy nghĩ về các tác hại
cũng như lợi ích có được từ việc sử dụng MXH và Internet,….
8. Phương pháp chọn mẫu/ quy mô mẫu(Ảnh hưởng của Mạng xã hội và Internet )
Đối tượng chọn mẫu để khảo sát là sinh viên của trường ĐH YERSIN Đà Lạt gồm
khoảng 40 người người đến từ các năm khác nhau.
9. Loại dữ liệu cần thu thập
+ Dữ liệu sơ cấp: được thu thập từ bảng khảo sát đã làm bên trên
+ Dữ liệu thứ cấp: thu thập từ các trang web uy tín như cafe.vn, các trang báo
mạng như Báo Dân Trí, VNexpress, Báo Tuổi trẻ online,…
Bài nghiên cứu sẽ được trình bày theo bố cục như sau: Phần mở đầu:
Lý do chon đề tài, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, đối tương và phạm vi nghiên cứu Phần nội dung: Cơ sở lý thuyết Các khái niệm liên quan
Đặc điểm của MXH và Internet ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động và cuộc
sống của người sử dụng
Các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng MXH và Internet
Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu Phần dữ liệu
Phần nêu lên tác hại và lợi ích, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục và phương
hướng hoàn thiện quy mô MXH và Internet Tiến độ thực hiện
Từ ngày 10- ngày 15: thu thập dữ liêu nghiên cứu
Từ ngày 16-ngày 18: xử lý dữ liệu đã thu thập
Từ ngày 19- ngày : Hoàn thiện bài nghiên cứu