








Preview text:
TRƯỜNG: ĐẠI HỌC UEH
KHOA: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
- - - - - - TIỂU LUẬN
BỘ MÔN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH LÝ LUẬN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỀ CÁCH
THỨC VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA SỰ VẬT, HIỆN TƯỢNG
TRONG THẾ GIỚI. VẬN DỤNG LÝ LUẬN NÀY VÀO HOẠT ĐỘNG
NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN CỦA BẢN THÂN.
Giảng viên hướng dẫn : ĐỖ HƯƠNG GIANG
Sinh viên thực hiện
: NGƯ NỮ TRINH NGUYÊN MSSV : 31221024418
Khóa - Lớp : K48 - MR002
Năm học: 2022 – 2023 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................ 1
PHẦN NỘI DUNG .................................................................... 1
1. Phân tích lý luận của phép biện chứng duy vật về cách thức vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng ...................................................................... 1
1.1. Một số các khái niệm ................................................................................. 1- 2
1.2. Nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
và ngược lại ........................................................................................................... 3
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận… ........................................................................ 4
2. Vận dụng nội dung quy luật Lượng – Chất vào hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn của bản thân ..................................................................... 4
2.1. Vận dụng vào hoạt động nhận thức ............................................................... 4
2.2. Vận dụng vào hoạt động thực tiễn ................................................................. 5
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................... 6
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong đời sống hàng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn hình, muôn vẻ, con
người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của các
hiện tượng, từ đó hình thành các khái niệm “Quy luật” là sản phẩm của tư duy
khoa học, phản ánh sự liên hệ của các sự vật và tính chỉnh thể của chúng. Các
quy luật của tự nhiên, của xã hội cũng như của tư duy con người đều mang tính
khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc tự ý xóa bỏ được quy luật mà chỉ
nhận thức và vận dụng nó trong thực tiễn. Quy luật “từ những thay đổi về lượng
dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại” là một trong ba quy luật của phép biện
chứng duy vật, nó cho biết phương thức của sự vận động, phát triển. Nhận thức
được các quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn khi
chúng ta xem xét các sự vật, hiện tượng. Nếu nhận thức không đúng quy luật
này sẽ dẫn đến tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh. Tả khuynh là phủ nhận sự tích
lũy về lượng, muốn có ngay sự thay đổi về chất, còn hữu khuynh là khi chất đã
biến đổi vượt quá giới hạn về độ nhưng không dám thực hiện sự thay đổi căn bản về chất.
Trong phạm vi của tiểu luận này, em xin được trình bày những cơ sở lý luận
chung về nội dung của quy luật lượn - chất, trên cơ sở đó rút ra những mối quan
hệ và sự vận dụng quy luật này để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tuy đã hoàn thành nhưng bài tiểu luận sẽ có ít nhiều thiếu sót, em rất mong
nhận được ý kiến và đánh giá đến từ Cô NỘI DUNG
1. Phân tích lý luận của phép biện chứng duy vật về cách thức vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng
1.1. Một số các khái niệm:
Khái niệm nguyên lí sự phát triển: Phát triển là một hình thức vận động. Vận
động ở đây là sự thay đổi diễn ra theo nhiều khuynh hướng. Phát triển chỉ phản
ánh một khuynh hướng vận động: vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Nguồn gốc của sự phát triển
nằm ngay trong bản thân sự vật.
Khái niệm về chất: Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn
có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo
nên sự vật, hiện tượng làm cho sự vật, hiện tượng là nó mà không phải sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ: Ớt thì cay, chanh thì chua,…
Từ những quan niệm trên chúng ta không nên đồng nhất khái niệm chất với khái niệm thuộc tính.
Mỗi sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính. Nhưng những thuộc tính này không
tham gia vào việc quy định chất như nhau, mà chỉ có những thuộc tính cơ bản
mới quy định chất của sự vật. Vì thế, chỉ khi nào thuộc tính cơ bản thay đổi thì
chất của sự vật mới thay đổi. Khi các thuộc tính không cơ bản có thể thay đổi,
nhưng không làm cho chất cuả sự vật thay đổi.
Mặt khác, cácc thuộc tính cũng như chất của sự vật chỉ bộc lộ qua những mối
liên hệ cụ thể. Do đó, việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chất và
thuộc tính cũng chỉ là tương đối. Và như vậy, mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ
có một chất, mà có nhiều chất tùy theo những mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác.
Chất biểu hiện tính ổn định tương đối của sự vật, là cái vốn có và không tách rời
sự vật. Do đó, không thể có chất tồn tại “thuần túy” hoặc là phụ thuộc vào cảm
giác chủ quan của con người như các nhà triết học duy tâm chủ quan quan niệm. 1
Khái niệm về lượng: Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của
sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số
lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại dương, ở tốc độ và nhịp điệu
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Lượng còn biểu hiện ở kích thước
dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp,
tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt…
Ví dụ: Nguyên tử đồng có nguyên tử khối là 63,54đcV
Đặc trưng của lượng được biểu thị bằng con số hoặc các đại lượng chỉ kích
thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, tổng số nhiều hay ít, trình độ cao hay
thấp, tốc độ nhanh hay chậm v.v.. Nhưng đối với các sự vật phức tạp, không thể
chỉ diễn tả bằng những con số chính xác, mà còn phải được nhận thức bằng khả năng trừu tượng hoá.
Cũng giống như chất, lượng là cái khách quan vốn có bên trong của sự vật.
Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng là tương đối, nghĩa là, có cái ở trong quan
này là chất, nhưng trong quan hệ khác là lượng và ngược lại. Do đó, cần chống
quan điểm siêu hình tuyệt đối hoá ranh giới giữa chất và lượng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng chỉ ra rằng trong mỗi sự vật, hiện tượng đều là
một thể thống nhất giữa hai mặt lượng và chất ở một độ nhất định. “Độ là khái
niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau giữa chất và
lượng; là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà trong đó, sự thay đổi về
lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; sự vật, hiện tượng vẫn là nó, chưa
chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác”.
“Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của
sự vật, hiện tượng do những thay đổi lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ
bản trong sự biến đổi về lượng. Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về
lượng, là sự gián đoạn trong quá trình vận động liện tục của sự vật, hiện tượng”. 2
1.2. Nội dung quy luật từ những thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi
về chất và ngược lại:
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội cũng như sự
phát triển nhận thức tư duy con người đều đi từ sự thay đổi dần về lượng được
tích luỹ lại khi vượt quá giới hạn độ tới điểm nút thì thì gây nên sự thay đổi căn
bản về chất. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế. Sở dĩ như vậy là vì chất
và lượng là hai mặt đối lập vốn có của sự vật hiện tượng. Lượng thì thường
xuyên biến đổi, còn chất tương đối ổn định. Do đó sự phát triển của lượng tới
một lúc nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ. Khi chất cũ kìm hãm thì qua đó nảy
sinh yêu cầu tất yếu phải phá vỡ chất cũ, mở ra một độ mới để mở đường cho
lượng phát triển. Sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay
đổi vê chất, diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Quy luật
này còn có chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi
về chất mà sau khi chất mới ra đời do sự biến đổi về lượng gây nên thì chất đó lạ
quy định sự biến đổi về lượng, ảnh hởng của chất mới đến lượng thể hiện ở quy
mô, mức độ, nhịp điệu phát triển mới.
Tóm lại: Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi dần dần về lượng dẫm đếm sự
thay đổi về chất và ngược lại là thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt
lượng và chất trong một sự vật, hiện tượng. Chất là mặt tương đối ổn định,
lượng là mặt thường xuyên biến đổi. Lượng biến đổi vượt độ phá vỡ chất cũ,
chất mới ra đời với lượng mới. Lượng mới tiếp tục biến đổi đến một giới hạn
nào đó lại phá vỡ chất mà nay đã cũ đi đang kìm hãm. Cứ như vậy quá trình tác
động biện chứng giữa hai mặt lượng và chất tạo lên cách thức, trạng thái vận
động phát triển của sự vật.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu cách thức của sự phát triển.
- Trong hoạt động nhận thức thực tiễn, cần phải coi trọng quá trình tích luỹ về
lượng, nếu không coi trọng quá trình này thì sự không có sự biến đổi về chất.
-Phải từng bước tích lũy về Lượng để đạt được sự biến đổi về Chất hợp quy luật. 3
- Phải biết vận dụng linh hoạt hình thức các bước nhảy. Thực hiện các bước
nhảy trong lĩnh vực xã hội phải chú ý cả điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan. Khi có thời cơ thì kiên quyết tổ chức thực hiện bước nhảy để giành thắng lợi.
- Chống tư tưởng tả khuynh: chủ quan, nóng vội, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn,
chưa tích lũy đủ về lượng đã vội thực hiện bước nhảy về chất.
- Chống tư tưởng hữu khuynh: bảo thủ, trì trệ, ngại khó, sợ sệt, không dám thực
hiện bước nhảy về Chất khi đã có đủ tích lũy về Lượng.
2. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận từ quy luật Lượng – Chất vào hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn của bản thân.
2.1. Vận dụng vào hoạt động nhận thức:
Rèn luyện quan điểm toàn diện trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, đòi hỏi
nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật, hiện tượng
phải đặt trong sự vận động và phát triển. Không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn
tại của sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của
chúng; phải thấy được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá
trình của nó. Để tìm ra phương hướng, giải pháp hiệu quả thì phải nghiên cứu,
phát hiện ra mẫu thuẫn của sự vật; phải xem xét sự vật trong thể thống nhất
những mặt. Hiểu rõ quá trình phát triển của sự vật không phải lúc nào cũng đi
theo đường thẳng, mà nhiều khi diễn ra quanh co, phức tạp, bao gồm nhiều chu
kỳ khác nhau và ở mỗi chu kỳ này, sự vật có những đặc điểm riêng biệt, nên
phải có cách tác động phù hợp.
Qua những tác động từ môi trường tự nhiên và yếu tố bẩm sinh, cá nhân tạo cho
mình nền móng cơ sở để hình thành nhân cách, lối sống tình cảm và quan điểm.
Nhân cách được xem như một yếu tố xã hội, chịu ảnh hưởng của điều kiện tự
nhiên thông qua những giá trị vật chất và tinh thần, qua lối sống, sinh hoạt địa
phương và cả những phát triển về mặt thể lực qua mối liên hệ với điều kiện tự
nhiên và phương thức sinh hoạt, sản xuất. 4
2.2. Vận dụng vào hoạt động thực tiễn cuả bản thân:
Trong thực tiễn đời sống của con người, muốn có sự thay đổi về chất, cần có sự
tích lũy về lượng, sự tích lũy ấy là do tự bản thân mỗi chúng ta phấn đấu, đánh
đổi bằng sức lao động mà có được, chứ không nhờ vào một sự giúp đỡ nào khác.
Không riêng bản thân tôi mà mỗi học sinh, sinh viên cần phải tích đủ lượng. Thể
hiện với các lộ trình bài giảng theo chương trình học.
Bản thân là sinh viên UEH, công dân Việt Nam, đứng trước nhiều cơ hội thử
thách, bản thân em ý thức được rằng mình phải có cách nhìn toàn diện hơn, đa
chiều, tiếp thu những tinh hoa từ môi trường sống tự nhiên, đặc điểm di truyền
là nền móng để phát triển hoàn thiện nhân cách. Bên cạnh đó không ngừng tìm
tòi, học hỏi qua các phương pháp từ chương trình học, các hoạt động, mối quan
hệ xã hội và tích lũy kinh nghiệm cho bản thân từ những hoạt động thực tiễn
nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách của bản thân theo hướng đúng đắn, phù
hợp với chuẩn mực của xã hội mang đậm tính cá nhân, đặc sắc với lí tưởng sống
rõ ràng, lành mạnh, là nguồn lực vững mạnh cho sự phát triển bền vững của
nguồn lực sản xuất và kinh tế nước nhà. Để hiện thực hóa lí tưởng đó, trước hết
chúng ta cần phải có ý thức tự giác, tự học, tự nghiên cứu, giải thích thực tiễn
biến đổi, đưa ra những giải pháp mà thực tiễn đặt ra..Có phương pháp học tập,
làm việc đúng đắn; không học vẹt, học tủ; mà học hiểu, biết vận dụng, biết đánh
giá và sáng tạo tri thức mới. Loại bỏ tư duy siêu hình, cứng nhắc, bảo thủ, trì
trệ…Luôn tiếp nhận tri thức một cách khoa học, sáng tạo.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng
và chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc
học tập và rèn luyện của bản thân tôi và sinh viên hiện nay. Lượng và chất là hai
mặt thống nhất biện chứng của sự vật, chỉ khi nào lượng được tích lũy tới một
độ nhất đinh mới làm thay đổi về chất, do đó trong hoạt động học tập của sinh
viên phải tích lũy dần về lượng và đồng thời phải biết thực hiện và thực hiện kịp
thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi để biến đổi về chất. 5
PHẦN KẾT LUẬN
Sau khi nghiên cứu kỹ đề tài trên chúng ta có thể nhận ra rằng ta có thể nắm
được cơ sở lý luận và nội dung cơ bản của nguyên lý của phép biện chứng duy
vật, nắm cơ bản được các quy luật và vai trò của nó đối với hoạt động nhận thức
và thực tiễn. Đây là một trong những vấn đề quan trọng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, góp phần định hướng cho sự hình thành nhận thức và hành động đúng
đắn của mỗi con người. Với vai trò những là học viên của chủ nghĩa Mác -
Lênin, việc vận dụng các quy luật Lượng - Chất vào nhận thức và thực tiễn cuộc
sống là một điều vô cùng cần thiết bởi nó sẽ giúp ta có cái nhìn đúng đắn và bao
quát nhất về tất cả những vấn đề.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn Triết học Mác - Lênin, Khoa Lý
luận chính trị, NXB Kinh tế TP Hồ Chí Minh. 2. 6