Tiểu luận môn tư tưởng Hồ Chí Minh| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................1
NỘI DUNG................................................................................................................................ 1
CHƯƠNG I. LUẬN QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CẤU KINH TẾ
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM..........................1
1. Khái quát chung.................................................................................................................1
1.1. Khái niệm......................................................................................................................1
1.2. Phân loại.......................................................................................................................2
1.2.1.Cơ cấu ngành kinh tế................................................................................................2
1.2.2. Cơ cấu thành phần kinh tế.......................................................................................2
2. Quan điểm của Mác – Lênin về cơ cấu kinh tế.............................................................3
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh vềcấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam................................................................................................................4
CHƯƠNG II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ NƯỚC TA................................6
1. Thực tiễn vận dụng............................................................................................................6
2. Hạn chế...............................................................................................................................8
3. Đề xuất giải pháp................................................................................................................9
KẾT LUẬN..............................................................................................................................10
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................... 11
MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ đại, nhà quân sự thiên tài, người thầy của Cách
mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Bên cạnh đó, Người
cũng là một nhà chính trị bàn về kinh tế, tư tưởng kinh tế của Người bản là tư tưởng kinh tế
- chính trị. Người đã mở đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta đến thắng lợi. Trong công
cuộc đổi mới xây dựng đất nước hiện nay, tư tưởng này vẫn là kim chỉ nam cho cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đèn soi đường cho sự nghiệp đổi mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo về xây dựng phát triển
kinh tế một nước nông nghiệp quá độ lên chủ nghĩa hội, chưa trải qua chế độ bản chủ
nghĩa. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là một bộ phận đặc sắc trong tư tưởng kinh tế của Người và vẫn giữ nguyên giá trị
chỉ đạo đối với đất nước ta trong công cuộc đổi mới và phát triển cơ cấu nền kinh tế nước ta
hiện nay.
Ngày nay, sự nghiệp đổi mới đất nước, phát triển kinh tế vẫn luôn vấn đề nóng hổi
cấp bách. Đảng Nhà nước ta hiện nay vẫn nghiên cứu quan điểm này nhận ra rằng
mang ý nghĩa chiến lược, với tư duy logic vượt thời đại cho tới tận bây giờ Đảng Chính
phủ vẫn tiếp tục học tập và làm theo lời Bác để thực hiện phát triển kinh tế quốc dân. Để tìm
hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin được nghiên cứu đề tài: “Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích
quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội ở Việt
Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền
kinh tế nước ta hiện nay” để làm bài tập lớn.
Trong quá trình nghiên cứu làm bài vẫn còn xảy ra thiếu sót, mong thầy/cô quan tâm
cho em ý kiến đóng góp để bài làm được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH TẾ
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Khái quát chung
1.1. Khái niệm
Theo C.Mác, của hội toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp vớicấu kinh tế
quá trình phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất. Mác đồng thời nhấn mạnh,
khi phân tích cơ cấu, phải chú ý đến cả hai khía cạnh là chất lượng và số lượng, cơ cấu chính là
sự phân chia về chất tỉ lệ về số lượng của những quá trình sản xuất hội. Như vậy, cơ cấu
1
kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỉ trọng tương ứng của chúng
và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.
1
Cơ cấu kinh tế tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỉ trọng tương
ứng của chúng mối quan hệ hữu tương đối ổn định hợp thành. Theo tác giả, cấu kinh
tế được hiểu như sau: cơ cấu kinh tế tổng thể những nhân tố cấu thành nền kinh tế, đó các
ngành sản xuất, các thành phần kinh tếcác vùng kinh tế. Chúng mối liên hệ chặt chẽ với
nhau được biểu hiện về chất và lượng tùy thuộc vào mục tiêu của nền kinh tế trong từng thời kỳ
nhất định
2
1.2. Phân loại
1.2.1.Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành quan hệ gắn bó với nhau theo nhưng tỉ lệ nhất định giữa các ngành sản
xuất, trong nội bộ nền kinh tế quốc dân cũng như giữa các ngành nghề các doanh nghiệp
trong các ngành.
cấu ngành bộ phận then chốt trong cấu kinh tế, cấu ngành quyết định
trạng thái chung và tỉ lệ đầu vào, đầu ra của nền kinh tế quốc dân.
Theo hệ thống tài khoản quốc gia, nền kinh tế thị trường được phân làm 3 nhóm ngành
(Khu vực) là:
(1) Khu vực I gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (đối với nhiều nước khác các
ngành khai thác trực tiếp tài nguyên thiên nhiên).
(2) Khu vực II gồm công nghiệp và xây dựng (đối với nhiều nước khác là các chế biến).
(3) Khu vực III là ngành dịch vụ
1.2.2. Cơ cấu thành phần kinh tế
cấu thành phần kinh tế gắn liền với các loại hình sở hữu nhất định về liệu sản
xuất. Tùy theo phương thức sản xuất các thành phần kinh tế chiếm địa vị chi phối hay
chủ đạo và các thành phần kinh tế khác cùng tồn tại.
Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, là động lực thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng
của nền kinh tế.
Kinh tế tập thể có ý nghĩa quan trọng với nhiều hình thức tổ chức trên cơ sở tham gia tự
nguyện, bình đẳng dân chủ, cùng có lợi giữa các thành viên tham gia.
Kinh tế cá thể với tiềm năng to lớn đóng vai trò quan trọng lâu dài đối với việc phát kinh
tế xã hội của đất nước
https://daotaomof.vn/tai-co-cau-nen-kinh-te-va-nhung-van-de-dat-ra/
https://daotaomof.vn/tai-co-cau-nen-kinh-te-va-nhung-van-de-dat-ra/
2
Kinh tế tư bản, tư nhân, đang có những đóng góp nhất định cho nền kinh tế với tiềm lực
về tiền vốn, công nghệ, quản lý, thị trườnggiải quyết tốt vấn đề gay gắt hiện nay vấn đề
lao động việc làm.
Kinh tế bản nhà nước khả năng to lớn với hình thức liên doanh giữa nhà nước với
tư bản trong nước và nước ngoài.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phát triển mạnh trong những năm gần đây hướng vào
sản xuất hàng hóa và dich vụ công nghệ cao.
2. Quan điểm của Mác – Lênin về cơ cấu kinh tế
Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới, nin luôn đánh giá cao vị trí vai
trò của thành phần kinh tế chủ nghĩa bản nhà nước, sử dụng kinh tế đầu bản nhà nước
dưới hình thức tô nhượng, hợp tác xã, tư nhân đại lý, cho tư nhân thuế cơ sở sản xuất,...Phương
thức, hình thức này được xem như chủ nghĩa bản“chiếc cầu nhỏ vững chắc xuyên qua”
để phát triển tiến tới chủ nghĩa hội. Phát triển chủ nghĩa bản nhà nước không chỉ là biện
pháp còn khâu để chuẩn bị điều kiện vật chất đầy đủ“quá độ đặc biệt” “trung gian”
nhất cho việc chuyển mình sang chủ nghĩa xã hội.
Về kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần thì xuất phát điểm phải đáp ứng lợi ích kinh tế cho đại đa số nông dân, trước
hết là từ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp dựa vào khôi phục và phát triển kinh tế tiểu nông để
khôi phục và phát triển tại công nghiệp.
Về kinh tế bản nhân, khi chính sách kinh tế mới được áp dụng thực tiễn vào Nga,
Lênin hiểu rõ có thể chủ nghĩa tư bản sẽ sống lại, nhưng ông cho rằng không sợ nó, mà kêu gọi
Chính quyền Xô Viết cần sử dụng tư nhân nông dân, thợ thủ công, thương nhân,... để phát triển
kinh tế đất mước do tư bản nhân sẽ tạo ra nhiều hàng hóa tiêu dùng cho hội – làsở ổn
định chính trị. Còn về kinh tế chủ nghĩa xã hội, nhà triết học đại tài đánh giá cao vị trí và vai trò
của thành phần kinh tế này. Đây chính là xương sống của nền kinh tế - những mạch máy kinh tế
bản như công nghiệp, ngân hàng, tài chính tín dụng luôn nằm trong tay chính quyền
Viết, thuộc sở hữu nhà nước.
Về thứ tự các thành phần kinh tế, Lênin đã cố tình sắp xếp các thành phần kinh tế theo
thứ tự, cấp độ tăng lên về tính chất hội chủ nghĩa của mỗi thành phần kinh tế; tỷ trọng của
các thành phần kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử; sự biến đổi tỷ trọng các thành phần kinh tế
phải theo hướng hội chủ nghĩa; tính đan xen, mâu thuẫn, đấu tranh thống nhất giữa các
thành phần kinh tế, tạo ra một cấu kinh tế bền vững, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển
kinh tế của đất nước và tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội
3
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội ở Việt Nam
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm,tưởng chỉ đạo sáng suốt về cơ kinh tế nước ta trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cụ thể:
Nội dung kinh tế được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao động trên cơ sở
tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Đối với cơ cấu kinh tế: Hồ Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu các thành phần kinh
tế, cấu kinh tế vùng, lãnh thổ…Người quan niệm hết sức độc đáo về cấu kinh tế nông -
công nghiệp – thương nghiệp, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương
nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất hội, thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của
nhân dân. Bên cạnh đó, với sự gia tăng ngày càng cao trong nhu cầu về đời sống của nhân dân
từ sẽ dần dần phát triển lên nhu cầu “ăn ngon, mặc đẹp” sẽ đi cùng với những“ăn no, mặc ấm”
yêu cầu ngày càng cao trong trình độ phát triển các ngành kinh tế, một nền nông nghiệp – công
nghiệp hiện đại gắn liền với sự áp dụng khoa học thuật tiên tiến. Đặc biệt quan trọng hơn
cả, phải xóa bỏ dần sự bóc lột bản chủ nghĩa đã dần sinh mầm mống hình thành trong 100
năm đô hộ thực dân nhân tố chính gây nên những mâu thuẫn trong quan hệ sản xuất đồng
thời làm nhân tố gây nên sự suy giảm năng suất của người lao động, triệt tiêu động lực và sự
sáng tạo trong lực lượng lao động, hiện hữu nên những rào cản trong việc chuẩn bị những yếu
tố kinh tế cần thiết để đi lên chủ nghĩa cộng sản ở nước ta.
Đối với kinh tế vùng: lãnh thổ, Hồ Chí Minh lưu ý phải phát triển đồng đều giữa kinh tế
đô thị kinh tế nông thôn. Người đặc biệt chú trọng chỉ đạo phát triển kinh tế vùng núi hải
đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của đồng bào, vừa bảo đảm
an ninh, quốc phòng cho đất nước. Đi đôi với việc phát triển kinh tế những vũng lãnh thổ các
tầm quan trọng về an ninh biên giới, việc đẩy mạnh đầu tư phát triển những vùng kinh tế trọng
điểm cũng như các ngành nông nghiệp công nghiệp mũi nhọn của đất nước cùng thiết
yếu, góp phần tạo nền tảng vững chắc trong công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước, phát triển kinh tế toàn diện theo chiều sâu, tránh bị bão hòa lệ thuộc vào các nền
kinh tế bên ngoài. Điều này cùng giá trị trong công cuộc cải tạo cấu nền kinh tế cũ,
xây dựng nền cơ cấu mới.
nước ta, Hồ Chí Minh người đầu tiên chủ trương phát triển cấu kinh tế nhiều
thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Người yêu cầu phải xây dựng cơ cấu
4
các thành phần kinh tế nhiều thành phần một cách hợp lý. Hồ Chí Minh đã xác định cơ cấu các
thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm 5 thành phần:
(1) Kinh tế quốc doanh;
(2) Các hợp tác xã;
(3) Kinh tế của các các nhân, nông dân và thủ công nghệ;
(4) Tư bản của tư nhân
(5) Tư bản của nhà nước.
Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế. Nước ta cần
ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa hội, thúc đẩy
việc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, Nhà nước cần đặc
biệt khuyến khích, hướng dẫn giúp đỡ phát triển. Về tổ chức hợp tác xã, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, gò ép,
hình thức.
Đối với người làm nghề thủ công lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu về liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi
vào con đường hợp tác.
Đối với những nhà tư sản công thương, vì họ đã tham gia ủng hộ cách mạng dân tộc dân
chủ, có đóng góp nhất định trong khôi phục kinh tế sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần
xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa hội, nên Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về
liệu sản xuất của cải khác của họ, hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân
sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước, khuyến khích giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩahội
bằng hình thức tư bản nhà nước.
Hồ Chí Minh đã kế thừa vận dụng sáng tạo quan điểm của Các Mác - Ăngghen,
Lênin về những vấn đề kinh tế - chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, trong đó
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc phát triển kinh tế của nước nhà trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Từ quan điểm của Lênin về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Hồ Chí Minh đã vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam, Người đã chỉ ra những thành phần kinh tế trong vùng tự do trước năm 1954
nước ta bao gồm: Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô; kinh tế quốc doanh; các hợp tác
xã; kinh tế nhân của nông dân và của thủ công nghệ; kinh tế tư bản nhân; kinh tế tư bản
quốc gia. Khi miền bắc hoàn toàn giải phóng đi lên chủ nghĩa hội, Hồ Chí Minh đã chỉ ra
những hình thức sở hữu các thành phần kinh tế cụ thể tương ứng sở hữu Nhà nước, sở hữu
5
tập thể sở hữu nhân; tương ứng với ba loại hình sử hữu đó năm thành phần kinh tế:
Kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã; kinh tế của cá nhân, nông dân thủ công nghệ; bản
nhân; tư bản nhà nước. Trong các thành phần kinh tế nêu trên thì thành phần kinh tế quốc
doanh là thành phần kinh tế lãnh đạo, phát triển mau hơn cả.
Bên cạnh chế độ quan hệ sở hữu, Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối
quản kinh tế. Quản kinh tế phải dựa trên sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử dụng
tốt các đòn bẩy trong phát triển sản xuất. Người chủ trương chỉ các điều kiện thực hiện
nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không
hưởng. Gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao động, Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề
khoán trong sản xuất, “Chế độ làm khoán một điều kiện của chủ nghĩa hội, khuyến
khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung lại
lợi riêng... làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”
3
CHƯƠNG II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ NƯỚC TA
1. Thực tiễn vận dụng
Vận dụng tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong nền kinh tế vào điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu, làm sáng tỏ về cả lý luận
thực tiễn vấn đề về các thành phần kinh tế khẳng định, đặc điểm kinh tếbản có tính quy
luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội ở Việt Nam tồn tại khách quan của nhiều thành
phần kinh tế dựa trên nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Đây đặc trưng kinh tế bản của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội ở Việt Nam. nước ta, đây thành phần kinh tế đóng vai
trò trung gian giữa Thành phần kinh tế nhân với Thành phần kinh tế nhà nước, đó là sự kiên
kết giữa nhân trong nước, nước ngoài với tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước. Thông
qua đó chúng ta thể học hỏi kinh nghiệm quản doanh nghiệp, công ty, tổng công ty, tập
đoàn kinh tế kinh tế nhân trong thời kỳ đẩy mạnh kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Từ công nghiệp hóa theo kiểu cũ, khép kín, hướng nội, thiên về phát triển công nghiệp
nặng, chủ yếu dựa o lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các nước
xã hội chủ nghĩa đi trước đã chuyển dần sang công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa trong
nền kinh tế mở; chuyển dịch cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ,
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Sđd, tr.537
6
gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với từng bước phát triển nền kinh tế tri thức, các ngành, lĩnh
vực kinh tế đòi hỏi hàm lượng trí tuệ, chất xám cao. Theo Tổng cục Thống kê, năm 1986, nông
nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với 38,1%. Tỷ trọng ngành dịch vụ 33%, còn công
nghiệp chiếm tỷ trọng thấp nhất với 28,9%. cấu kinh tế năm 2022 chuyển dịch theo hướng
tích cực: Nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 27,37%, công nghiệp và xây dựng chiếm 30,05%,
dịch vụ chiếm 38,16%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 4,42%.
4
Từ chỗ xác định lực lượng chủ yếu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là Nhà nước
và doanh nghiệp Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
sự nghiệp của toàn dân, của toàn xã hội.
Về cơ chế phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa, từ chỗ chủ yếu bằng chế kế hoạch
hóa tập trung của Nhà nước giao cho doanh nghiệp nhà nước làm, đã dần dần chuyển sang
phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường, lấy tiêu chuẩn trước hết là hiệu quả kinh tế để đầu tư;
Nhà nước chính sách khuyến khích ưu đãi cho một số ngành, lĩnh vực, địa bàn, doanh
nghiệp vừa và nhỏ và một số mục tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo
Kết quả của 37 năm đổi mới (từ năm 1986 năm 2023) về kinh tế nước ta tốc độ tăng
trưởng bình quân khá cao, trong điều kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, môi trường quốc tế
không thuậnl ợi). Cụ thể:
Tiềm lực, quy của nền kinh tế được nâng lên, GDP năm 2020 đạt 343,6 tỉ USD
(đứng thứ 4 Đông Nam Á; Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt khoảng
6%/năm, năm 2020 đạt 2,91%; Thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD năm 2020. ( xếp
thứ 6 ASEAN); Dự trữ ngoại hối đạt gần 100 tỷ USD; Xếp thứ 42/131 quốc gia nền kinh tế
về chỉ số đổi mới và sáng tạo.
Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) mức tăng trưởng GDP bình quân
hàng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 1991-1995 GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt
8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016-2019 đạt mức
bình quân 6,8%. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước
tăng trưởng cao nhất thế giới, một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Đặc biệt,
trong năm 2020, trong khi phần lớn các nước có mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy
thoái do tác động của dịch COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dương 2,91%, góp
phần làm cho GDP trong 5 năm qua tăng trung bình 5,9 %/năm, thuộc nhóm nước tốc độ
Thanh Sang (2023), Trang thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh Dấu ấn kinh tế - xã hội năm 2022 và những kỳ vọng năm 2023,
Bình Định https://binhdinh.dcs.vn/kinh-te/-/view-content/190233/dau-an-kinh-te-xa-hoi-nam-2022-va-nhung-k-vong-nam-
2023
7
tăng trưởng cao nhất trong khu vực trên thế giới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng
lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm, thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ
USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất tinh thần được cải thiện rệt, năm 1985 bình
quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm, thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750
USD/năm. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ - tiêu dùng, tiết kiê Œm - đầu tư, năng
lượng, lương thực, lao đô Œng - viê Œc làm,… tiếp tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc
nền tảng kinh tế vĩ mô.
5
Những kết quả nêu trên, một lần nữa khẳng định rằng chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào
đường lối lãnh đạo của Đảng; đi lên chủ nghĩa hội sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam đảm bảo tính
quy luật chungtính đặc thù phù hợp với thực tiễn đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Mỗi thành phần kinh tế tồn tại có ví trí, vai trò riêng để thực hiện các nhiệm vụ có
ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn chủ nghĩa xã hội
và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế tuân thủ theo pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp
tục khẳng định: “Kiên định vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng
Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi
mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựngbảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
2. Hạn chế
Thứ nhất, chất lượng tăng trưởng của các ngành kinh tế còn chưa bền vững, vẫn còn
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác, chủ yếu do dịch bệnh, bất ổn kinh tế - chính trị của
các nước trên thế giới, chuyển biến cơ cấu nội bộ ngành chưa được rõ nét và bền vững, chuyển
dịch cấu lao động diễn ra nhưng còn chậm, không theo kịp với chuyển dịch cấu ngành
kinh tế.
Thứ hai, đối với ngành nông nghiệp vẫn còn tồn tại những thách thức do thiên tai: hạn
hán, lụt, nắng nóng kéo dài, dịch bệnh ảnh hưởng đến năng suất sản lượng cây trồng
vật nuôi. Điển hình dịch tả lợn châu Phi lây lan nhanh trên phạm vi rộng lớn các địa
phương đã gây thiệt hại nặng nề cả cho ngành chăn nuôi và người tiêu dùng. Trong những năm
qua, cũng phải kể đến đại dịch toàn cầu Covid-19 đã diễn ra phức tạp ở cả Việt Nam và thế giới
PGS, TS Đặng Quang Định ( 2022), Những thành tựu to lớn của đất nước sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Đảng ủy khối các cơ quan Trung ương http://dukcqtw.dcs.vn/nhung-thanh-tuu-to-lon-cua-
dat-nuoc-sau-35-nam-thuc-hien-duong-loi-doi-moi-do-dang-khoi-xuong-va-lanh-dao-duk15671.aspx
8
tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu nổng sản. Lao động ngành nông
nghiệp gặp nhiều khó khăn do tỷ trọng ngành nông nghiệp ngày càng giảm mạnh.
Thứ ba, vẫn còn tồn tại một số ngành mức tăng thấp hoặc giảm trong ngành công
nghiệp như: máy tính, sản phẩm quang học, sản xuất điện tử, linh kiện điện tử sản xuất
phương tiện vận tải,..
Thứ tư, dịch bệnh lại tiếp tục diễn ra phức tạp ảnh hưởng tiêu cực đến ngành dịch vụ.
Các hoạt động buôn bán hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng, vui chơi giải trí, du lịch, vận tải viễn
thông đều giảm, gây tác động xấu đến cơ cấu ngành những năm gần đây.
Thứ năm, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, vùng bị ảnh hưởng
thiên tai vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề trong
hội như: tưởng chính trị lệch lạc, suy thoái đạo đức, tình trạng bạo lực gia đình, xâm phạm
phụ nữ, trẻ em.. Tình trạng tham nhũng vẫn đang vấn đề nhức nhối trong hội hiện nay.
Đặc biệt, có nhiều thế lực phản động, tuyên truyền, chống phá cách mạng…
Thứ sáu, việc tổ chức thực hiện phân cấp phối hợp trong quản nền kinh tế,
giữa các bộ/ngành trung ương với chính quyền địa phương chưa thực sự nhịp nhàng hiệu
quả nên vẫn chưa thực sự chuyên nghiệp trong quá trình hoạt động, đùn đẩy trách nhiệm cho
nhau khi xảy ra vấn đề.
Bên cạnh những hạn chế, quá trình chuyển dịch cấu ngành kinh tế của nước ta còn
đối mặt với nhiều thách thức mới trong tương lai, hướng đến sự phát triển toàn diện bền
vững.
3. Đề xuất giải pháp
Một là, Đảng Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng tưởng Hồ Chí Minh,
quán triệt trong hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở mỗi giai
đoạn xây dựng và phát triển nền kinh tế
Hai là, Đảng nước cần giải quyết hài hòa các quan hệ về lợi ích, trước hết lợi ích
kinh tế của các thành phần kinh tế, các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa lợi ích cá nhân lợi ích
tập thể, giữa chủ và thợ, giữa lợi ích của công nhân, nông dân, trí thức, doanh nghiệp và lợi ích
của Nhà nước, lợi ích trước mắt và lâu dài, lợi ích quốc gia và quốc tế
Ba là, tiếp tục tập trung đầu tư nghiên cứu bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ về nhận thức
luận, hoàn thiện về mặt thể chế quyết liệt, đồng bộ trong tổ chức thực thi để đấy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
KẾT LUẬN
9
Tóm lại, tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội Việt Nam đã thể hiện những nội dung đặc sắc, trên sở kế thừa phát triển sáng tạo
những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin vào đặc điểm, tình hình hội Việt Nam. Đảng
Nhà nước ta cần tiếp tục được quán triệt và vận dụng sáng tạo để định hướngcho sự nghiệp tiếp
tục đổi mới nền kinh tế đất nước
Với những thành tựu trước mắt đi cùng với sự phát triển kinh tế đất nước theo chiều sâu:
thay đổi tỷ trọng cấu các ngành kinh tế - đi lên từ một quốc gia trọng nông nay dần hình
thành các ngành công nghiệp trọng điểm và dịch vụ phát triển vững chắc; nền kinh tế thị trường
định hướng hội chủ nghĩa có sự tổ chức, định hướng cao về mặt xã hội cho thấy con đường
vận dụng quan điểm của Người là vô cùng cần thiết và chính xác.
Có thể nói, 5 thành phần kinh tế ở nước ta khi đi lên chủ nghĩa xã hội được Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ ra nay đã hiện hữu đầy đủ trong đường lối của Đảng thời kỳ đổi mới. Những
thành phần này được Đảng nhận thức sâu sắc luôn cố gắng hoàn thiện trong thực tiễn. Trên
cơ sở nhận thức đó, Đảng đề ra đường lối chính sách ngày càng phù hợp và nhất quán với từng
loại hình kinh tế, cũng như mục tiêu, phương hướng của nền kinh tế nhiều thành phần qua từng
Đại hội trong thời kì đổi mới. Nhờ vậy mà nền kinh tế của nước ta đã có sự phát triển vượt bậc,
góp phần tạo nên thành công của thời kỳ đổi mới, nâng cao và cải thiện đời sống nhân dân.
Như vậy từ những phân tích trên thể thấy đó những dấu ấn thành tựu tích cực
sau một khoảng thời gian dài Đảng Nhà nước đã học hỏi, phát huy rút ra bài học kinh
nghiệm từ những tưởng đại của Hồ Chí Minh về cấu kinh tế Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2021), Nxb Chínhtrị Quốc
gia, Hà Nội
2. https://daotaomof.vn/tai-co-cau-nen-kinh-te-va-nhung-van-de-dat-ra/
3. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Sđd, tr.537
4. Thanh Sang (2023), Dấu ấn kinh tế - hội năm 2022 những kỳ vọng năm 2023,
Trang thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh Bình Định https://binhdinh.dcs.vn/kinh-te/-/view-
content/190233/dau-an-kinh-te-xa-hoi-nam-2022-va-nhung-k-vong-nam-2023
5. PGS, TS Đặng Quang Định ( 2022), Những thành tựu to lớn của đất nước sau 35 năm
thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Đảng ủy khối các cơ quan Trung
10
ương http://dukcqtw.dcs.vn/nhung-thanh-tuu-to-lon-cua-dat-nuoc-sau-35-nam-thuc-hien-
duong-loi-doi-moi-do-dang-khoi-xuong-va-lanh-dao-duk15671.aspx
11
| 1/12

Preview text:

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................1
NỘI DUNG................................................................................................................................1
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH TẾ
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
..........................1
1. Khái quát chung.................................................................................................................1
1.1. Khái niệm...................................................................................................................... 1
1.2. Phân loại....................................................................................................................... 2
1.2.1.Cơ cấu ngành kinh tế................................................................................................2
1.2.2. Cơ cấu thành phần kinh tế.......................................................................................2
2. Quan điểm của Mác – Lênin về cơ cấu kinh tế.............................................................3
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
................................................................................................................4
CHƯƠNG II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ NƯỚC TA
................................6
1. Thực tiễn vận dụng............................................................................................................6
2. Hạn chế...............................................................................................................................8
3. Đề xuất giải pháp................................................................................................................9
KẾT LUẬN..............................................................................................................................10
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................11 MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, nhà quân sự thiên tài, người thầy của Cách
mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Bên cạnh đó, Người
cũng là một nhà chính trị bàn về kinh tế, tư tưởng kinh tế của Người cơ bản là tư tưởng kinh tế
- chính trị. Người đã mở đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta đến thắng lợi. Trong công
cuộc đổi mới xây dựng đất nước hiện nay, tư tưởng này vẫn là kim chỉ nam cho cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đèn soi đường cho sự nghiệp đổi mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển
kinh tế ở một nước nông nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa trải qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là một bộ phận đặc sắc trong tư tưởng kinh tế của Người và vẫn giữ nguyên giá trị
chỉ đạo đối với đất nước ta trong công cuộc đổi mới và phát triển cơ cấu nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
Ngày nay, sự nghiệp đổi mới đất nước, phát triển kinh tế vẫn luôn là vấn đề nóng hổi và
cấp bách. Đảng và Nhà nước ta hiện nay vẫn nghiên cứu quan điểm này và nhận ra rằng nó
mang ý nghĩa chiến lược, với tư duy logic vượt thời đại mà cho tới tận bây giờ Đảng và Chính
phủ vẫn tiếp tục học tập và làm theo lời Bác để thực hiện phát triển kinh tế quốc dân. Để tìm
hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin được nghiên cứu đề tài: “Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích
quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền
kinh tế nước ta hiện nay”
để làm bài tập lớn.
Trong quá trình nghiên cứu và làm bài vẫn còn xảy ra thiếu sót, mong thầy/cô quan tâm
cho em ý kiến đóng góp để bài làm được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH TẾ
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 1. Khái quát chung
1.1. Khái niệm
Theo C.Mác, cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với
quá trình phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất. Mác đồng thời nhấn mạnh,
khi phân tích cơ cấu, phải chú ý đến cả hai khía cạnh là chất lượng và số lượng, cơ cấu chính là
sự phân chia về chất và tỉ lệ về số lượng của những quá trình sản xuất xã hội. Như vậy, cơ cấu 1
kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỉ trọng tương ứng của chúng
và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.1
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỉ trọng tương
ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. Theo tác giả, cơ cấu kinh
tế được hiểu như sau: cơ cấu kinh tế là tổng thể những nhân tố cấu thành nền kinh tế, đó là các
ngành sản xuất, các thành phần kinh tế và các vùng kinh tế. Chúng có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau được biểu hiện về chất và lượng tùy thuộc vào mục tiêu của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định2 1.2. Phân loại
1.2.1.Cơ cấu ngành kinh tế

Cơ cấu ngành là quan hệ gắn bó với nhau theo nhưng tỉ lệ nhất định giữa các ngành sản
xuất, trong nội bộ nền kinh tế quốc dân cũng như giữa các ngành nghề và các doanh nghiệp trong các ngành.
Cơ cấu ngành là bộ phận then chốt trong cơ cấu kinh tế, vì cơ cấu ngành quyết định
trạng thái chung và tỉ lệ đầu vào, đầu ra của nền kinh tế quốc dân.
Theo hệ thống tài khoản quốc gia, nền kinh tế thị trường được phân làm 3 nhóm ngành (Khu vực) là:
(1) Khu vực I gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (đối với nhiều nước khác các
ngành khai thác trực tiếp tài nguyên thiên nhiên).
(2) Khu vực II gồm công nghiệp và xây dựng (đối với nhiều nước khác là các chế biến).
(3) Khu vực III là ngành dịch vụ
1.2.2. Cơ cấu thành phần kinh tế
Cơ cấu thành phần kinh tế gắn liền với các loại hình sở hữu nhất định về tư liệu sản
xuất. Tùy theo phương thức sản xuất mà có các thành phần kinh tế chiếm địa vị chi phối hay
chủ đạo và các thành phần kinh tế khác cùng tồn tại.
Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, là động lực thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế.
Kinh tế tập thể có ý nghĩa quan trọng với nhiều hình thức tổ chức trên cơ sở tham gia tự
nguyện, bình đẳng dân chủ, cùng có lợi giữa các thành viên tham gia.
Kinh tế cá thể với tiềm năng to lớn đóng vai trò quan trọng lâu dài đối với việc phát kinh
tế xã hội của đất nước
https://daotaomof.vn/tai-co-cau-nen-kinh-te-va-nhung-van-de-dat-ra/
https://daotaomof.vn/tai-co-cau-nen-kinh-te-va-nhung-van-de-dat-ra/ 2
Kinh tế tư bản, tư nhân, đang có những đóng góp nhất định cho nền kinh tế với tiềm lực
về tiền vốn, công nghệ, quản lý, thị trường và giải quyết tốt vấn đề gay gắt hiện nay là vấn đề lao động việc làm.
Kinh tế tư bản nhà nước có khả năng to lớn với hình thức liên doanh giữa nhà nước với
tư bản trong nước và nước ngoài.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phát triển mạnh trong những năm gần đây hướng vào
sản xuất hàng hóa và dich vụ công nghệ cao.
2. Quan điểm của Mác – Lênin về cơ cấu kinh tế
Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới, Lê nin luôn đánh giá cao vị trí và vai
trò của thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, sử dụng kinh tế đầu tư bản nhà nước
dưới hình thức tô nhượng, hợp tác xã, tư nhân đại lý, cho tư nhân thuế cơ sở sản xuất,...Phương
thức, hình thức này được xem như là “chiếc cầu nhỏ vững chắc xuyên qua” chủ nghĩa tư bản
để phát triển tiến tới chủ nghĩa xã hội. Phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ là biện
pháp “quá độ đặc biệt” mà còn là khâu “trung gian” để chuẩn bị điều kiện vật chất đầy đủ
nhất cho việc chuyển mình sang chủ nghĩa xã hội.
Về kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần thì xuất phát điểm là phải đáp ứng lợi ích kinh tế cho đại đa số nông dân, mà trước
hết là từ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp dựa vào khôi phục và phát triển kinh tế tiểu nông để
khôi phục và phát triển tại công nghiệp.
Về kinh tế tư bản tư nhân, khi chính sách kinh tế mới được áp dụng thực tiễn vào Nga,
Lênin hiểu rõ có thể chủ nghĩa tư bản sẽ sống lại, nhưng ông cho rằng không sợ nó, mà kêu gọi
Chính quyền Xô Viết cần sử dụng tư nhân nông dân, thợ thủ công, thương nhân,... để phát triển
kinh tế đất mước do tư bản tư nhân sẽ tạo ra nhiều hàng hóa tiêu dùng cho xã hội – là cơ sở ổn
định chính trị. Còn về kinh tế chủ nghĩa xã hội, nhà triết học đại tài đánh giá cao vị trí và vai trò
của thành phần kinh tế này. Đây chính là xương sống của nền kinh tế - những mạch máy kinh tế
cơ bản như công nghiệp, ngân hàng, tài chính tín dụng luôn nằm trong tay chính quyền Xô
Viết, thuộc sở hữu nhà nước.
Về thứ tự các thành phần kinh tế, Lênin đã cố tình sắp xếp các thành phần kinh tế theo
thứ tự, cấp độ tăng lên về tính chất xã hội chủ nghĩa của mỗi thành phần kinh tế; tỷ trọng của
các thành phần kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử; sự biến đổi tỷ trọng các thành phần kinh tế
phải theo hướng xã hội chủ nghĩa; tính đan xen, mâu thuẫn, đấu tranh và thống nhất giữa các
thành phần kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế bền vững, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển
kinh tế của đất nước và tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội 3
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng suốt về cơ kinh tế nước ta trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cụ thể:
Nội dung kinh tế được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao động trên cơ sở
tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Đối với cơ cấu kinh tế: Hồ Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu các thành phần kinh
tế, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ…Người quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế nông -
công nghiệp – thương nghiệp, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương
nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất xã hội, thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của
nhân dân. Bên cạnh đó, với sự gia tăng ngày càng cao trong nhu cầu về đời sống của nhân dân
từ “ăn no, mặc ấm” sẽ dần dần phát triển lên nhu cầu “ăn ngon, mặc đẹp” sẽ đi cùng với những
yêu cầu ngày càng cao trong trình độ phát triển các ngành kinh tế, một nền nông nghiệp – công
nghiệp hiện đại gắn liền với sự áp dụng khoa học – kĩ thuật tiên tiến. Đặc biệt quan trọng hơn
cả, phải xóa bỏ dần sự bóc lột tư bản chủ nghĩa đã dần sinh mầm mống hình thành trong 100
năm đô hộ thực dân – nhân tố chính gây nên những mâu thuẫn trong quan hệ sản xuất đồng
thời làm nhân tố gây nên sự suy giảm năng suất của người lao động, triệt tiêu động lực và sự
sáng tạo trong lực lượng lao động, hiện hữu nên những rào cản trong việc chuẩn bị những yếu
tố kinh tế cần thiết để đi lên chủ nghĩa cộng sản ở nước ta.
Đối với kinh tế vùng: lãnh thổ, Hồ Chí Minh lưu ý phải phát triển đồng đều giữa kinh tế
đô thị và kinh tế nông thôn. Người đặc biệt chú trọng chỉ đạo phát triển kinh tế vùng núi hải
đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của đồng bào, vừa bảo đảm
an ninh, quốc phòng cho đất nước. Đi đôi với việc phát triển kinh tế những vũng lãnh thổ các
tầm quan trọng về an ninh biên giới, việc đẩy mạnh đầu tư phát triển những vùng kinh tế trọng
điểm cũng như các ngành nông nghiệp – công nghiệp mũi nhọn của đất nước là vô cùng thiết
yếu, góp phần tạo nền tảng vững chắc trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước, phát triển kinh tế toàn diện và theo chiều sâu, tránh bị bão hòa và lệ thuộc vào các nền
kinh tế bên ngoài. Điều này vô cùng có giá trị trong công cuộc cải tạo cơ cấu nền kinh tế cũ,
xây dựng nền cơ cấu mới.
Ở nước ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Người yêu cầu phải xây dựng cơ cấu 4
các thành phần kinh tế nhiều thành phần một cách hợp lý. Hồ Chí Minh đã xác định cơ cấu các
thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm 5 thành phần: (1) Kinh tế quốc doanh; (2) Các hợp tác xã;
(3) Kinh tế của các các nhân, nông dân và thủ công nghệ; (4) Tư bản của tư nhân
(5) Tư bản của nhà nước.
Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế. Nước ta cần
ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy
việc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, Nhà nước cần đặc
biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển. Về tổ chức hợp tác xã, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, gò ép, hình thức.
Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi
vào con đường hợp tác.
Đối với những nhà tư sản công thương, vì họ đã tham gia ủng hộ cách mạng dân tộc dân
chủ, có đóng góp nhất định trong khôi phục kinh tế và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần
xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nên Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về
tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân
sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước, khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội
bằng hình thức tư bản nhà nước.
Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của Các Mác - Ăngghen,
Lênin về những vấn đề kinh tế - chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc phát triển kinh tế của nước nhà trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Từ quan điểm của Lênin về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Hồ Chí Minh đã vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam, Người đã chỉ ra những thành phần kinh tế trong vùng tự do trước năm 1954 ở
nước ta bao gồm: Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô; kinh tế quốc doanh; các hợp tác
xã; kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản
quốc gia.
Khi miền bắc hoàn toàn giải phóng đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã chỉ ra
những hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế cụ thể tương ứng sở hữu Nhà nước, sở hữu 5
tập thể và sở hữu tư nhân; tương ứng với ba loại hình sử hữu đó là năm thành phần kinh tế:
Kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; tư bản tư
nhân; tư bản nhà nước.
Trong các thành phần kinh tế nêu trên thì thành phần kinh tế quốc
doanh là thành phần kinh tế lãnh đạo, phát triển mau hơn cả.
Bên cạnh chế độ và quan hệ sở hữu, Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối và
quản lý kinh tế. Quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử dụng
tốt các đòn bẩy trong phát triển sản xuất. Người chủ trương và chỉ rõ các điều kiện thực hiện
nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không
hưởng. Gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao động, Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề
khoán trong sản xuất, “Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến
khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại
lợi riêng... làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”
3
CHƯƠNG II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ NƯỚC TA
1. Thực tiễn vận dụng
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong nền kinh tế vào điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu, làm sáng tỏ về cả lý luận và
thực tiễn vấn đề về các thành phần kinh tế và khẳng định, đặc điểm kinh tế cơ bản có tính quy
luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là tồn tại khách quan của nhiều thành
phần kinh tế dựa trên nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Đây là đặc trưng kinh tế cơ bản của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, đây là thành phần kinh tế đóng vai
trò trung gian giữa Thành phần kinh tế tư nhân với Thành phần kinh tế nhà nước, đó là sự kiên
kết giữa tư nhân trong nước, nước ngoài với tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước. Thông
qua đó chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp, công ty, tổng công ty, tập
đoàn kinh tế kinh tế tư nhân trong thời kỳ đẩy mạnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Từ công nghiệp hóa theo kiểu cũ, khép kín, hướng nội, thiên về phát triển công nghiệp
nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các nước
xã hội chủ nghĩa đi trước đã chuyển dần sang công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa trong
nền kinh tế mở; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ,
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Sđd, tr.537 6
gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với từng bước phát triển nền kinh tế tri thức, các ngành, lĩnh
vực kinh tế đòi hỏi hàm lượng trí tuệ, chất xám cao. Theo Tổng cục Thống kê, năm 1986, nông
nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với 38,1%. Tỷ trọng ngành dịch vụ là 33%, còn công
nghiệp chiếm tỷ trọng thấp nhất với 28,9%. Cơ cấu kinh tế năm 2022 chuyển dịch theo hướng
tích cực: Nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 27,37%, công nghiệp và xây dựng chiếm 30,05%,
dịch vụ chiếm 38,16%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 4,42%.4
Từ chỗ xác định lực lượng chủ yếu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là Nhà nước
và doanh nghiệp Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
sự nghiệp của toàn dân, của toàn xã hội.
Về cơ chế phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa, từ chỗ chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch
hóa tập trung của Nhà nước và giao cho doanh nghiệp nhà nước làm, đã dần dần chuyển sang
phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường, lấy tiêu chuẩn trước hết là hiệu quả kinh tế để đầu tư;
Nhà nước có chính sách khuyến khích và ưu đãi cho một số ngành, lĩnh vực, địa bàn, doanh
nghiệp vừa và nhỏ và một số mục tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo
Kết quả của 37 năm đổi mới (từ năm 1986 – năm 2023) về kinh tế nước ta tốc độ tăng
trưởng bình quân khá cao, trong điều kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, môi trường quốc tế
không thuậnl ợi). Cụ thể:
Tiềm lực, quy mô của nền kinh tế được nâng lên, GDP năm 2020 đạt 343,6 tỉ USD
(đứng thứ 4 Đông Nam Á; Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt khoảng
6%/năm, năm 2020 đạt 2,91%; Thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD năm 2020. ( xếp
thứ 6 ASEAN); Dự trữ ngoại hối đạt gần 100 tỷ USD; Xếp thứ 42/131 quốc gia và nền kinh tế
về chỉ số đổi mới và sáng tạo.
Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) mức tăng trưởng GDP bình quân
hàng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 1991-1995 GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt
8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016-2019 đạt mức
bình quân 6,8%. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước
tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Đặc biệt,
trong năm 2020, trong khi phần lớn các nước có mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy
thoái do tác động của dịch COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dương 2,91%, góp
phần làm cho GDP trong 5 năm qua tăng trung bình 5,9 %/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ
Thanh Sang (2023), Dấu ấn kinh tế - xã hội năm 2022 và những kỳ vọng năm 2023, Trang thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh
Bình Định https://binhdinh.dcs.vn/kinh-te/-/view-content/190233/dau-an-kinh-te-xa-hoi-nam-2022-va-nhung-k-vong-nam- 2023 7
tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng
lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm, thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ
USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình
quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm, thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750
USD/năm. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ - tiêu dùng, tiết kiê Œm - đầu tư, năng
lượng, lương thực, lao đô Œng - viê Œc làm,… tiếp tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc
nền tảng kinh tế vĩ mô.5
Những kết quả nêu trên, một lần nữa khẳng định rằng chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào
đường lối lãnh đạo của Đảng; đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam đảm bảo tính
quy luật chung và tính đặc thù và phù hợp với thực tiễn đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Mỗi thành phần kinh tế tồn tại có ví trí, vai trò riêng để thực hiện các nhiệm vụ có
ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn chủ nghĩa xã hội
và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế tuân thủ theo pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp
tục khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi
mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
2. Hạn chế
Thứ nhất, chất lượng tăng trưởng của các ngành kinh tế còn chưa bền vững, vẫn còn
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác, chủ yếu là do dịch bệnh, bất ổn kinh tế - chính trị của
các nước trên thế giới, chuyển biến cơ cấu nội bộ ngành chưa được rõ nét và bền vững, chuyển
dịch cơ cấu lao động diễn ra nhưng còn chậm, không theo kịp với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Thứ hai, đối với ngành nông nghiệp vẫn còn tồn tại những thách thức do thiên tai: hạn
hán, lũ lụt, nắng nóng kéo dài, dịch bệnh ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng và
vật nuôi. Điển hình là dịch tả lợn châu Phi lây lan nhanh trên phạm vi rộng lớn ở các địa
phương đã gây thiệt hại nặng nề cả cho ngành chăn nuôi và người tiêu dùng. Trong những năm
qua, cũng phải kể đến đại dịch toàn cầu Covid-19 đã diễn ra phức tạp ở cả Việt Nam và thế giới
PGS, TS Đặng Quang Định ( 2022), Những thành tựu to lớn của đất nước sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Đảng ủy khối các cơ quan Trung ương http://dukcqtw.dcs.vn/nhung-thanh-tuu-to-lon-cua-
dat-nuoc-sau-35-nam-thuc-hien-duong-loi-doi-moi-do-dang-khoi-xuong-va-lanh-dao-duk15671.aspx 8
tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu nổng sản. Lao động ở ngành nông
nghiệp gặp nhiều khó khăn do tỷ trọng ngành nông nghiệp ngày càng giảm mạnh.
Thứ ba, vẫn còn tồn tại một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm trong ngành công
nghiệp như: máy tính, sản phẩm quang học, sản xuất điện tử, linh kiện điện tử và sản xuất phương tiện vận tải,..
Thứ tư, dịch bệnh lại tiếp tục diễn ra phức tạp ảnh hưởng tiêu cực đến ngành dịch vụ.
Các hoạt động buôn bán hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng, vui chơi giải trí, du lịch, vận tải và viễn
thông đều giảm, gây tác động xấu đến cơ cấu ngành những năm gần đây.
Thứ năm, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, vùng bị ảnh hưởng
thiên tai vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề trong xã
hội như: tư tưởng chính trị lệch lạc, suy thoái đạo đức, tình trạng bạo lực gia đình, xâm phạm
phụ nữ, trẻ em.. Tình trạng tham nhũng vẫn đang là vấn đề nhức nhối trong xã hội hiện nay.
Đặc biệt, có nhiều thế lực phản động, tuyên truyền, chống phá cách mạng…
Thứ sáu, việc tổ chức thực hiện phân cấp và phối hợp trong quản lý vĩ mô nền kinh tế,
giữa các bộ/ngành trung ương với chính quyền địa phương chưa thực sự nhịp nhàng và hiệu
quả nên vẫn chưa thực sự chuyên nghiệp trong quá trình hoạt động, đùn đẩy trách nhiệm cho
nhau khi xảy ra vấn đề.
Bên cạnh những hạn chế, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta còn
đối mặt với nhiều thách thức mới trong tương lai, hướng đến sự phát triển toàn diện và bền vững.
3. Đề xuất giải pháp
Một là, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh,
quán triệt trong hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở mỗi giai
đoạn xây dựng và phát triển nền kinh tế
Hai là, Đảng và nước cần giải quyết hài hòa các quan hệ về lợi ích, trước hết là lợi ích
kinh tế của các thành phần kinh tế, các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
tập thể, giữa chủ và thợ, giữa lợi ích của công nhân, nông dân, trí thức, doanh nghiệp và lợi ích
của Nhà nước, lợi ích trước mắt và lâu dài, lợi ích quốc gia và quốc tế
Ba là, tiếp tục tập trung đầu tư nghiên cứu bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ về nhận thức
lý luận, hoàn thiện về mặt thể chế và quyết liệt, đồng bộ trong tổ chức thực thi để đấy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. KẾT LUẬN 9
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam đã thể hiện những nội dung đặc sắc, trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo
những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin vào đặc điểm, tình hình xã hội Việt Nam. Đảng và
Nhà nước ta cần tiếp tục được quán triệt và vận dụng sáng tạo để định hướngcho sự nghiệp tiếp
tục đổi mới nền kinh tế đất nước
Với những thành tựu trước mắt đi cùng với sự phát triển kinh tế đất nước theo chiều sâu:
thay đổi tỷ trọng cơ cấu các ngành kinh tế - đi lên từ một quốc gia trọng nông nay dần hình
thành các ngành công nghiệp trọng điểm và dịch vụ phát triển vững chắc; nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có sự tổ chức, định hướng cao về mặt xã hội cho thấy con đường
vận dụng quan điểm của Người là vô cùng cần thiết và chính xác.
Có thể nói, 5 thành phần kinh tế ở nước ta khi đi lên chủ nghĩa xã hội được Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ ra nay đã hiện hữu đầy đủ trong đường lối của Đảng thời kỳ đổi mới. Những
thành phần này được Đảng nhận thức sâu sắc và luôn cố gắng hoàn thiện trong thực tiễn. Trên
cơ sở nhận thức đó, Đảng đề ra đường lối chính sách ngày càng phù hợp và nhất quán với từng
loại hình kinh tế, cũng như mục tiêu, phương hướng của nền kinh tế nhiều thành phần qua từng
Đại hội trong thời kì đổi mới. Nhờ vậy mà nền kinh tế của nước ta đã có sự phát triển vượt bậc,
góp phần tạo nên thành công của thời kỳ đổi mới, nâng cao và cải thiện đời sống nhân dân.
Như vậy từ những phân tích trên có thể thấy đó là những dấu ấn và thành tựu tích cực
sau một khoảng thời gian dài Đảng và Nhà nước đã học hỏi, phát huy và rút ra bài học kinh
nghiệm từ những lý tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2021), Nxb Chínhtrị Quốc gia, Hà Nội
2. https://daotaomof.vn/tai-co-cau-nen-kinh-te-va-nhung-van-de-dat-ra/
3. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Sđd, tr.537
4. Thanh Sang (2023), Dấu ấn kinh tế - xã hội năm 2022 và những kỳ vọng năm 2023,
Trang thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh Bình Định https://binhdinh.dcs.vn/kinh-te/-/view-
content/190233/dau-an-kinh-te-xa-hoi-nam-2022-va-nhung-k-vong-nam-2023
5. PGS, TS Đặng Quang Định ( 2022), Những thành tựu to lớn của đất nước sau 35 năm
thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Đảng ủy khối các cơ quan Trung 10 ương
http://dukcqtw.dcs.vn/nhung-thanh-tuu-to-lon-cua-dat-nuoc-sau-35-nam-thuc-hien-
duong-loi-doi-moi-do-dang-khoi-xuong-va-lanh-dao-duk15671.aspx 11