
















Preview text:
--------- - BÀI TIỂU LUẬN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH NỘI DUNG
NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH – TRÁCH NHIỆM CỦA
SINH VIÊN TRONG HỌC TẬP MÔN HỌC
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Họ và tên: NGUYỄN THỊ LAN ANH MSSV: 20063011 Lớp: K65LKD-A
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Hồ Viết Thanh Hà Nội, 12/2021 MỤC LỤC
Phần mở đầu..................................................................................................
Phần nội dung................................................................................................
1 . Nguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh.........................................
1 .1. Cơ sở thực tiễn.......................................................................................
1 .2. Cơ sở lí luận...........................................................................................
1 .3. Nhân tố chủ quan của Hồ Chí .................................................................
2 . Quá trình hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh...........................
2 .1 Từ nhỏ đến khi ra đi tìm đường cứu nước trước tháng 6/1911......................
2 .2. Hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc VIệt Nam theo con
đường cách mạng vô sản (1911 – 1920)...............................................................
2 .3. Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành cơ bản (1920 – 1930)...............
2 .4. Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương pháp cách mạng Việt
Nam đúng đắn, sáng tạo (1930 – 1941).................................................................
2 .5. Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện, soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta (1941 – 1969)...................................
3 . Trách nhiệm sinh viên trong học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh..............
Phần kết luận..........................................................................................................
Danh mục tài liệu tham khảo.................................................................................. NỘI DUNG Phần mở đầu
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một khoa học, dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin
và trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2011) nêu khái
niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” như sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của n¬ước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô
cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”1. Từ khái niệm này cũng có thể thấy
được vai trò của cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhận thấy tầm quan
trọng của việc nghiên cứu về nguồn gốc, cơ sở hình thành và phát triển của tư
tưởng Hồ Chí Minh nên tôi đã lựa chọn đề tài “Nguồn gốc, quá trình hình
thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh - Trách nhiệm của sinh viên
trong học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh” để làm bài tiểu luận kết thúc học phần này. Phần nội dung
1 . Nguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh
1 .1. Cơ sở thực tiễn
Tình hình quốc tế:
Vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Phần lớn các nước châu
Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc của
chúng. Cùng với mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản, chủ nghĩa đế quốc đã làm
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2 011, tr.88.
phát sinh thêm mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực
dân. Vì vậy, từ đầu thế kỷ XX phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa ngày càng phát triển, nhưng chưa ở đâu giành được thắng lợi. Trong điều
kiện chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác
- Lênin. Sự xuất hiện chủ nghĩa Lênin là một nhân tố đặc biệt quan trọng đối với
việc ra đời và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Do những mâu thuẫn tranh
chấp thuộc địa giữa các nước tư bản ngày càng gay gắt, nên Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất đã nổ ra (1914 – 1918). Cuộc thế chiến này đã làm chủ chủ nghĩa tư
bản thế giới suy yếu, tạo điều kiện cho Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga dành
thắng lợi, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người - thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở ra con đường
giải phóng cho các dân tộc bị áp bức.
Tình hình Việt Nam:
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ
máy thống trị ở Việt Nam, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành thuộc
địa nửa phong kiến. Chế độ phong kiến suy tàn đã công khai câu kết và làm tay
sai cho thực dân Pháp. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam ta với thực dân Pháp
và bè lũ tay sai ngày càng gay gắt, khát vọng đấu tranh giành độc lập dân tộc
ngày càng trở nên bức thiết. Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, rất nhiều phong
trào đấu tranh yêu nước chống Pháp xâm lược nổ ra như: các cuộc khởi nghĩa
của Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám, Trần Tấn, Phan Đình Phùng, Trương
Định, Nguyễn Trung Trực, v.v...tuy nhiên các phong trào này đều thất bại.
Việc Pháp xâm lược và tiến hành khai thác nước ta một cách mạnh mẽ đã làm
cho cơ cấu giai cấp, tầng lớp trong xã hội ở nước ta có nhiều biến đổi. Đầu tiên
là sự xuất hiện của những giai cấp mới: giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và
tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị. Đến đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước ở VIệt
Nam xuất hiện theo khuynh hướng dân chủ tư sản do ảnh hưởng của các cuộc
vận động cải cách, của cách mạng tư sản Trung Quốc, tiêu biểu có thể kể đến:
Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng (1905-1909), Phong trào
Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động (1906-1908), v.v... nhưng đều thất bại.
Các phong trào kháng chiến đều bị chìm trong máu lửa, đất nước lâm vào tình
trạng khủng hoảng đường lối. Cả dân tộc chìm đắm trong đêm dài nô lệ, tưởng
chừng như không có đường ra.
Từ những bối cảnh quốc tế và trong nước nêu trên, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường
cứu nước và từng bước hình thành tư tưởng của mình, đáp ứng đòi hỏi bức thiết
của dân tộc và thời đại.
1 .2. Cơ sở lý luận
1 .2.1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Quan điểm của Bác khi kế thừa các giá trị truyền thống, học tập các nền văn hóa
là kế thừa một cách có chọn lọc, vận dụng sáng tạo và phát triển nó cho phù hợp
với thời đại, luôn đấu tranh để bảo vệ tính cách mạng khoa học của các nguồn
góc đó. Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ nhiều truyền thống quý báu, tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam ta như truyền thống cần cù lao động, anh dũng chiến đấu
trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết, sống có tình nghĩa, nhân
ái, đoàn kết, v.v... Trong những truyền thống đó thì chủ nghĩa yêu nước là dòng
chủ lưu, là giá trị xuyên suốt lịch sử dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước là động lực,
sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại vượt qua mọi khó khăn trong dựng
nước và giữ nước, là niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong giá trị tinh thần
của con người Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị văn hóa cao nhất, nó tạo
nên sức mạnh to lớn từ quá khứ tiếp sức cho hiện tại để vượt qua mọi khó khăn
giúp cho dân tộc Việt Nam ta đứng vững trước sự xâm lăng của các cường quốc
trên thế giới. Trong “Báo cáo chính trị” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trình bày tại
đại hội lần thứ hai của Đảng Lao Động Việt Nam họp tại Việt Bắc tháng 2 năm
1 951, Người đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì
tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ cướp nước và lũ bán nước!”2.
Chủ nghĩa yêu nước là tài sản giá trị nhất trong hành trang của Hồ Chí Minh.
Chính sức mạnh từ giá trị truyền thống ấy đã thúc giục người thanh niên Nguyễn
Tất Thành (Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước, đưa Bác đến với chủ nghĩa
Mác – Lênin để từ đó Bác nâng chủ nghĩa yêu nước lên một tầm cao mới: từ chủ
nghĩa yêu nước thành chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đây cũng chính là cơ sở để Bác
gắn mình với vận mệnh dân tộc, sinh mệnh của Đảng và tâm tư nguyện vọng
của người dân. Tóm lại, truyền thống dân tộc là cội nguồn tác động xuyên suốt
quá trình hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó chủ nghĩa
yêu nước là nhân tố cơ bản.
1 .2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Tinh hoa văn hóa phương Đông:
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hóa
phương Đông, tiêu biểu như Nho giáo, Phật giáo và Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc).
Nho giáo là một trong những học thuyết lớn ảnh hưởng nhiều nhất tới Hồ Chí
Minh. Bởi Người được giáo giục từ nhỏ nên đạo đức Nho giáo đã sớm thấm
nhuần vào tư tưởng tình cảm của Người không phải là những tư tưởng đẳng cấp,
phân biệt quân tử với tiểu nhân, đề cao trí tuệ và coi khinh lao động chân tay,
coi kinh phụ nữ, mà ngược lại là tinh thần “nhân nghĩa”, Đạo tu thân”, sự ham
học hỏi, đức “khiêm tốn”, tính “hoà nhã”, cách đối nhân xử thế “có lý, có tình”.
Những mệnh đề “trung hiếu”, “nhân nghĩa”, “tứ hải giai huynh đệ”, “dân vi quý,
xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, phương châm “khắc kỷ phục lễ”, v.v....
Hồ Chí Minh cũng chú ý tới kế thừa những quan điểm tích cực trong triết lý của
Đạo Phật từ đó vận dụng sáng tạo để đoàn kết đồng bào, đoàn kết toàn dân vì
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, chứ không
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019, t.6, tr.171.
phải những quan điểm tiêu cực, bi quan, coi cuộc đời chỉ là phù hoa, là sống gửi
thác về, chùn bước khi gặp khó khăn, nghĩ trắc trở là số phận, nghiệp chướng,
chỉ có niềm tin vào tu tâm dưỡng tính. Trong thư gửi Hội Phật tử năm 1947,
Người có viết: “Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng
sinh ra khỏi khổ nạn... Nay đồng bào ta đại đoàn kết,... kháng chiến đến cùng,...
để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ
quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng
chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ"3.
Đến với Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh đã phát triển
sáng tạo các quan điểm về dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn
trong cách mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc lập - Tự do -
Hạnh phúc của con người và dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô
sản. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn chú ý kế thừa, phát triển nhiều ý tưởng của
các trường phái khác nhau trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại khác như
Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử, v.v... Là nhà mácxít sáng tạo, Hồ Chí Minh đã
kế thừa và phát triển những tinh hoa trong tư tưởng, văn hóa phương Đông để
giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam thời hiện đại.
Tinh hoa văn hóa phương Tây:
Ngay từ khi còn trẻ. Hồ Chí Minh đã luôn ấn tượng và muốn tìm hiểu về khẩu
hiệu nổi tiếng của Đại Cách mạng Pháp năm 1789: Tự do – Bình đẳng – Bác ái.
Người đã nghiên cứu Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ, Bản Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Pháp để kế thừa và phát triển
những quan điểm về nhân quyền, dân quyền và từ đó đề xuất quyền mưu được
độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc. Bên cạnh đó, Thiên chúa Giáo cũng là
một trong những tư tưởng được Bác chọn để kế thừa. Ở đây, Bác tiếp thu những
tư tưởng tích cực đó là lòng nhân ái cao cả, sự hy sinh thân mình vì các con
chiên; không kế thừa sự hạn chế trong tư tưởng là không chỉ ra được con đường
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr 228.
đấu tranh, đặt con người ở vị trí trung tâm nhất nhưng lại hạ thấp vai trò của quần chúng.
Tóm lại, trong hành trình đi tìm đường cứu nước, Người đã sống và hoạt động
thực tiễn, nghiên cứu lý luận tại nhiều trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa khác
nhau trên thế giới để từ đó rút ra con đường đấu tranh phù hợp với dân tộc ta.
1 .2.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận cương của Lênin tháng 7 năm 1920 và trở
thành người cộng sản vào cuối năm đó đã tạo nên bước ngoặt căn bản trong tư
tưởng của Người. Đến được với Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng yêu nước của
Người có bước nhảy vọt, từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống phát triển lên chủ
nghĩa yêu nước theo lập trường vô sản. Bác đã khẳng định chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là Chủ nghĩa Mác – Lênin. Con đường
duy nhất đúng mà Bác tìm ra để giải phóng dân tộc ta lúc bấy giờ đó là con
đường cách mạng vô sản. Khi ra đi tìm đường cứu nước, Bác đã được gia đình,
quê hương, dân tộc trang bị một vốn học chắc chắn; Bác đến với chủ nghĩa Mác
– Lênin là để tìm kiếm kim chỉ nam cho sự nghiệp giải phóng dân tộc; Bác đã
tiếp thu chủ nghĩa này theo phương pháp nhận thức macxit, đồng thời theo lối
“đ ắc ý, vong ngôn” của phương Đông (phương pháp nhận thức không dập
khuôn máy móc, không “trói buộc trong cái vỏ ngôn từ” hoặc đưa những kết
luận chỉ có trong sách vở).
Có thể nói, Chủ nghĩa Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp luận giúp Hồ
Chí Minh tổng kết kiến thức và thực tiễn của mình, tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn. Thế giới quan, phương pháp luận của Mác – Lênin cũng là của Hồ
Chí Minh hay Chủ nghĩa Mác – Lênin chính là Tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt
Nam. Đây là nhân tố quyết định bản chất giai cấp tư tưởng của Hồ Chí Minh, là
nhân tố ảnh hưởng to lớn đến sức ống của Tư tưởng Hồ Chí Minh.
1 .3. Nhân tố chủ quan của Hồ Chí Minh
Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con người sáng
tạo ra trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan. Ngay từ khi còn trẻ, Hồ Chí
Minh đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu lòng nhân ái và sớm có chí
cứu nước, tự tin vào mình.
Tư chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo tính ham hiểu biết và nhạy bén với
cái mới là những đức tính dễ thấy ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Phẩm
chất đó được rèn luyện, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người. Nhờ vậy, giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa nhiều học thuyết,
quan điểm khác nhau, giữa biết bao tình huống phức tạp, Hồ Chí Minh đã tìm
hiểu, phân tích tổng hợp, khái quát hình thành những luận điểm đúng đắn và
sáng tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.4
2 . Quá trình hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh
2 .1 Từ nhỏ đến khi ra đi tìm đường cứu nước trước tháng 6/1911
Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan, trong
một gia đình nhà nho yêu nước. Từ thuở nhỏ, Hồ Chí Minh đã hấp thụ truyền
thống chống ngoại xâm của dân tộc, nền văn hiến của nước nhà và những tinh
hoa văn hoá phương Đông, và được hưởng nền giáo huấn yêu nước, thương nòi
của gia đình, truyền thống đấu tranh bất khuất của đất Lam Hồng.
Đất nước, quê hương, gia đình và nhà trường đã hình thành nên ở người thanh
niên Nguyễn Tất Thành một nhân cách giàu lòng yêu nước, nhân ái, thương
người, có hoài bão cứu nước và thấu hiểu được sức mạnh ý chí độc lập tự cường
của dân tộc. Vốn có tư chất thông minh, linh khiếu chính trị sắc sảo, với ý chí
lớn tìm đường cứu nước, cứu dân. Tuy rất khâm phục tinh thần yêu nước của
các vị tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám, v.v.
nhưng Người vẫn sáng suốt phê phán, không tán thành, không đi theo con
đường phong kiến, lối mòn đó. Đến ngày 5/6/1911, Hồ Chí Minh quyết định đi
4 “Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh” (2019), quangbinh.gov.vn.
ra nước ngoài để tìm con đường cứu nước, cứu dân với hành trang tri thức chắc
chắn, lòng yêu nước, chí hướng rõ rệt trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc.5
2 .2. Hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc VIệt Nam theo con
đường cách mạng vô sản (1911 – 1920)
Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước trên thế giới để tìm hiểu, khảo sát, lựa chọn con
đường cứu nước. Qua cuộc hành trình này, Người đã hình thành một nhận thức
mới: Nhân dân lao động các nước, trong đó có giai cấp công nhân, đều bị bóc lột
có thể là bạn của nhau; còn chủ nghĩa đế quốc, bọn thực dân ở đâu cũng là kẻ
bóc lột, là kẻ thù của nhân dân lao động.
Thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã
gửi đến Hội nghị Vécxây (18/6/1919) “Yêu sách của nhân dân An Nam” đòi các
cường quốc thừa nhận quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam.
Tiếng nói chính nghĩa đó có ảnh hưởng lớn tới các phong trào yêu nước ở Việt
Nam. Cuối cùng, Hồ Chí Minh đã tìm thấy và xác định rõ phương hướng đấu
tranh giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản qua
nghiên cứu “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa” (Để trình bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản) của Lênin và nhiều tài
liệu liên quan đến Quốc tế Cộng sản vào tháng 7/1920. Đến đây, Người khẳng
định con đường cứu nước của mình: giải phóng dân tộc bằng con đường cách
mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vô sản. Người rời
bỏ Đảng Xã hội theo quan điểm Đệ nhị quốc tế để đến với Quốc tế III - Quốc tế
Cộng sản do Lênin sáng lập (3/1919). Tháng 12/1920, đại hội lần thứ 18 của
Đảng Xã hội Pháp gắn liền với việc Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản đánh
dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách
mạng của Người - chủ nghĩa yêu nước chân chính đã gặp chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính.
2 .3. Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành cơ bản (1920 – 1930)
5 “Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh” (2019), quangbinh.gov.vn.
Đây là thời kỳ mục tiêu, phương hướng cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
từng bước được cụ thể hóa, thể hiện rõ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh tích cực sử dụng báo chí Pháp lên án chủ nghĩa thực dân Pháp,
thức tỉnh lương tri nhân dân Pháp và nhân loại tiến bộ, khơi dậy lòng yêu nước
của nhân dân các dân tộc thuộc địa và của dân tộc Việt Nam. Đồng thời đẩy
mạnh hoạt động lý luận chính trị, tổ chức, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thông qua báo chí và các
hoạt động thực tiễn Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ những năm 20 của thế kỷ
XX, do việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh, phong trào cách
mạng Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Đặc biệt là sự ra đời của ba tổ
chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng
(9/1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (l/1930). Trước tình hình ở Đông
Dương có các tổ chức cộng sản xuất hiện, ngày 28/11/1929, Quốc tế Cộng sản
đã có nghị quyết về việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực hiện
Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị hợp nhất
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930. Hội nghị hợp nhất đã thông
qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn
tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo. Các văn kiện quan
trọng này đã trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta. Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu mục tiêu và con đường cách mạng là
“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”6, “đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến An Nam và giai cấp tư sản phản cách
mạng”7, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; khẳng định sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; liên minh công nông là lực lượng nòng
cốt; cách mạng Việt Nam là một bộ phận cách mạng thế giới. Bản Cương lĩnh
chính trị đầu tiên này đã thể hiện rõ sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
6 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1.
7 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.22.
Mác - Lênin trong việc giải quyết mối quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế trong
đường lối cách mạng Việt Nam.
Như vậy, ngay từ khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, phân tích đúng đắn đặc điểm của xã
hội, sắp xếp đúng vị trí của từng giai cấp, tầng lớp và cá nhân trong lực lượng
cách mạng, tạo điều kiện cho Đảng vừa ra đời đã nắm trọn quyền lãnh đạo cách
mạng, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo cách mạng
Việt Nam kéo dài suốt từ cuối thế kỷ XIX sang đầu năm 1930.
2 .4. Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương pháp cách mạng Việt
Nam đúng đắn, sáng tạo (1930 – 1941)
Những thử thách lớn với Hồ Chí Minh xuất hiện không chỉ từ phía kẻ thù, mà
còn từ trong nội bộ những người cách mạng. Một số người trong Quốc tế Cộng
sản và Đảng Cộng sản Việt Nam có những nhìn nhận sai lầm về Hồ Chí Minh
do chịu ảnh hưởng quan điểm giáo điều tả khuynh xuất hiện trong Đại hội VI
của Quốc tế Cộng sản. Do không nắm vững tình hình các dân tộc thuộc địa và ở
Đông Dương, nên tư tưởng mới mẻ, đúng đắn, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên chẳng những không được hiểu và chấp nhận mà
còn bị họ phê phán. Tuy bị phê phán, song đường lối cách mạng của Hồ Chí
Minh đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn. Đó là cơ sở để Thường vụ
Trung ương ra chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh (18/l l/1930), tiếp đó là
Chỉ thị về vấn đề thanh Đảng ở Trung kỳ (20/5/1931). Những chỉ thị này đã uốn
nắn quan điểm xa rời thực tiễn Việt Nam, làm cho toàn Đảng thấy được sức
mạnh của chủ nghĩa yêu nước và vai trò của Mặt trận phản đế trong sứ mệnh
đoàn kết toàn dân đưa cách mạng đến thắng lợi. Đến Đại hội lần thứ VII Quốc tế
Cộng sản (7/1935), trước nguy cơ của chủ nghĩa phátxít và chiến tranh thế giới
mới, khi Quốc tế Cộng sản đã nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm “tả”
khuynh trong Nghị quyết Đại hội VI của mình, thì những quan điểm đúng đắn
của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, về đoàn kết các lực lượng cách mạng
chống đế quốc đã trình bày trong Cương lĩnh mới được Quốc tế Cộng sản thừa nhận.
Cuối tháng 9/1939, Quốc tế Cộng sản đã quyết định điều động Người về công
tác ở Đông Dương. Sau gần 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28/1/1941 Hồ Chí Minh
vượt qua cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung về nước. Đây là điều kiện
thuận lợi để Hồ Chí Minh biến tư tưởng của mình thành sức mạnh quần chúng
đưa cách mạng đến thắng lợi.
2 .5. Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện, soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta (1941 – 1969)
Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của đảng về cơ bản là thống
nhất. Sau thắng lợi to lớn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thì ngày
2 /9/1945, Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa – mở ra mọt kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam,
kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Từ 1945 -1969, Hồ Chí Minh với cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước ta, trực
tiếp lãnh đạo hai cuộc kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tư
tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung phát triển hệ thống quan điểm cơ bản của
cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực nhằm hướng tới mục tiêu nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, dân chủ, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội. Trước khi đi xa, Người để lại Di chúc - một văn kiện lịch
sử vô giá. Điều mong muốn cuối cùng của Hồ Chí Minh là: “Toàn Đảng, toàn
dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới"8. Và cho đến nay, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục được Đảng
Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam,
đưa sự nghiệp đổi mới vững bước đi lên.
3 . Trách nhiệm sinh viên trong học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh
8 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019, t.15, tr. 624.
Tư tưởng Hồ Chí Minh từ khi ra đời đã trở thành ngọn cờ tư tưởng dẫn đường
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là hệ thống nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam, định hướng hoạt động
cho Đảng ta và nhân dân ta. Với ý nghĩa đó, tư tưởng Hồ Chí Minh là những
phương hướng về lý luận và thực tiễn hành động cho những người Việt Nam yêu nước.
Bản thân tôi là một sinh viên Việt Nam, là một thanh niên trẻ, một công dân
Việt Nam, tôi nhận thấy tầm quan trọng và giá trị lý luận, giá trị thực tiễn mà
môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh đem lại. Môn học đã góp phần trang bị cho
sinh viên chúng tôi những tri thức khoa học về hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về cách mạng Việt Nam; hình thành năng lực, phương pháp làm việc,
niềm tin, tình cảm cách mạng; góp phần củng cố cho chúng tôi về lập trường,
quan điểm cách mạng đúng đắn trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Leenin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; giúp chúng tôi kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội; tích cực, chủ động đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái để
bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuốc
sống. Học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh đã góp phần nâng cao năng lực
tư duy lý luận, giúp giáo dục và thực hành đạo đức cách mạng, củng cố niềm tin
khoa học gắn liền với trau dồi tình cảm cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu nước,
qua đó xây dựng, rèn luyện phương pháp và phong cách công tác tốt.
Để trở thành những công dân Việt Nam tốt với tư tưởng lý luận vững chắc, tôi
biết trước hết mình cần học tập tốt và vận dụng những kiến thức quý báu mà
môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh đem lại. Đầu tiên tôi phải tuyệt đối trung thành
với Đảng, thực hiện nghiêm chỉnh cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ
trương, nghị quyết của Đảng, sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật của
nước Việt Nam. Không được để bản thân có những suy nghĩ, tư tưởng lệch lạc,
bị ảnh hưởng bởi thế lực thù địch dẫn tới những hành động sai trái, phản cách
mạng. Không chỉ nguyên bản thân thực hiện tốt pháp luật mà còn phải biết cách
tuyên truyền, vận động mọi người cùng hiểu và thực hiện pháp luật để xây dựng
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Bên cạnh việc xây dựng, giữ lập trường tư tưởng vững chắc thì sinh viên chúng
tôi còn cần tích cực noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh để tu đưỡng đạo đức. Nền
tảng của đời sống mới, phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh mà sinh viên chúng tôi cần học tập là quan niệm
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Trong lời Bác dạy ngày 30 tháng 5 năm
1 949, Bác cũng đã từng viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người”9.
“Cần” là cần cù, siêng năng lao động; “kiệm” là tiết kiệm sức, của, không hoang
phí, bừa bãi; “liêm” là trong sạch, là phẩm chất cần thiết của người cán bộ thi
hành công vụ; “chính” là ngay thẳng, chính trực, không tự cao, không dối trá;
“chí công vô tư” là rất mực công bằng, công tâm, vô tư với người, với việc,
muốn “chí công vô tư” thì phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân. Đây là
những giá trị đạo đức cao đẹp của thời đại mà sinh viên chúng tôi cần học tập và
rèn luyện. Bên cạnh những phẩm chất đạo đức trên, chúng tôi cũng cần trau dồi
cho mình niềm tin vào Tư tưởng Hồ Chí Minh, vào Đảng, vào nhà nước, từ đó
trung với Đảng, hiếu với dân, có lòng yêu thương con người, có tinh thần quốc
tế vô sản, v.v.... Cho dù có trở thành cán bộ hay không thì cũng luôn chú ý tới
mối quan hệ với nhân dân, với cộng đồng, không sống xa rời người dân.
9 Trích lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết: “Thế nào là Cần”, ký bút danh Lê Quyết Thắng, đăng trên
báo Cứu quốc, số 1255, ngày 30 tháng 5 năm 1949.
Ngoài lập trường tư tưởng vững chắc, rèn luyện đạo đức tốt thì thế hệ sinh viên
chúng tôi cũng cần tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ trước mắt gần nhất là luôn
học tập trau dồi kỹ năng, tri thức, nâng cao trình độ về mọi mặt; luôn biết chịu
trách nhiệm, không trốn tránh, không sợ khó, sợ khổ; phải tự tin, năng động,
sáng tạo để đưa nước ta phát triển cả về chính trị, kinh tế, văn hóa và mọi mặt
của đời sống. Là người trẻ, thế hệ sinh viên phải là những người tiên phong
trong việc phòng, chống các tiêu cực, đấu tranh các luận điệu phản cách mạng
để từ đó cải tạo xã hội, thế giới và tự cải tạo chính mình ngày một tốt đẹp hơn. Phần kết luận
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn,
ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thể kỷ qua. Cùng
với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi
soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội
của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”10. Thật vậy,
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những giá trị quan trọng đối với dân ta, với
Đảng ta. Nghiên cứu về Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và nguồn gốc, quá
trình hình thành, phát triển của tư tưởng này là hết sức cần thiết. Nó không chỉ
giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn mà còn tạo dựng cho mỗi người bản lĩnh,
kiến thức lý luận chính trị vững chắc, từ đó rút ra bài học, trách nhiệm của bản
thân đối với gia đình, xã hội, với Đảng, Nhà nước Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 0 Đại tướng Võ Nguyên Giáp, “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.99.
1 . Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.99.
2 . Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.88.
3 . Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh: dành cho bâc ̣đại học không chuyên ngành
Lý luân ̣chính trị, NXB Lý luân ̣chính trị, Hà Nôi ̣, 2019.
4 . Hồ Chí Minh: Toàn tâp ̣, tâp ̣3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nôi ̣, 2011.
5 . Hồ Chí Minh: Toàn tâp ̣, tâp ̣5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nôi ̣, 2011.
6 . Hồ Chí Minh: Toàn tâp ̣, tâp ̣6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nôi ̣, 2019.
7 . Hồ Chí Minh: Toàn tâp ̣, tâp ̣15, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nôi ̣, 2019.
8 . “Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh” (2019), quangbinh.gov.vn.
https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/nguon-goc-qua-trinh-hinh-thanh-va-phat-
trien-tu-tuong-ho-chi-minh*.htm
9 . Trích lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết: “Thế nào là Cần”, ký bút
danh Lê Quyết Thắng, đăng trên báo Cứu quốc, số 1255, ngày 30 tháng 5 năm 1949.