Tiểu luận Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực - Pháp luật đại cương | Đại học Tôn Đức Thắng
Luật quốc tế là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật, được các quốcgia và chủ thể khác của Luật quốc tế thỏa thuận dựa trên cơ sở tự nguyện và bìnhđẳng, nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể kháctrong các lĩnh vực. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (PL101)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
Viết tiểu luận về quá trình hình thành và phát triển của Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực
và đe dọa sử dụng vũ lực và quá trình áp dụng nguyên tắc trong thực tiễn quan hệ quốc
tế (phải có tình huống liên quan trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc). LỜI NÓI ĐẦU
Luật quốc tế là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật, được các quốc
gia và chủ thể khác của Luật quốc tế thỏa thuận dựa trên cơ sở tự nguyện và bình
đẳng, nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể khác
trong các lĩnh vực. Trong bối cảnh sự phát triển của khoa học kĩ thuật thế giới hiện
nay, việc các quốc gia phát triển khoa học kĩ thuật của mình vào các lĩnh vực nhằm
phục vụ cho mục đích an ninh quốc gia là điều tất yếu. Tuy nhiên, nếu quốc gia lại
dùng những nghiên cứu của mình để phát động chiến tranh xâm lược quốc gia khác
hay bằng các biện pháp phi quân sự khác, mục đích sử dụng sức mạnh của mình nhằm
đạt được một số lợi ích nhất định thì đây lại là những hành động vi phạm nghiêm trọng
các nguyên tắc của luật quốc tế. Cụ thể đó là nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa
sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. I.
Lý do chọn đề tài
Trước khi nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ lực hoặc dùng vũ lực trong quan
hệ quốc tế ra đời, nhân loại đã phải trải qua những thảm họa kinh hoàng của cuộc
Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 –1945). Sau sự kiện đó, các quốc gia trên thế giới
đã lập ra một tổ chức quốc tế lấy tên là Liên hợp quốc (LHQ). Với mục tiêu cao cả là
“phòng ngừa cho thế hệ mai sau khỏi thảm họa chiến tranh”, Khoản 2 Điều 4 Hiến
chương Liên hợp quốc quy định: “Tất cả các nước thành viên LHQ từ bỏ đe dọa bằng
vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm
phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào cũng như bằng
cách khác trái với những mục đích của LHQ”. Trong khuôn khổ bài tiểu luận của
mình, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Quá trình hình thành và phát triển của
Nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực và quá trình áp dụng
nguyên tắc trong thực tiễn quan hệ quốc tế”. 1 II.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận này chủ yếu là các quy định của pháp luật
quốc tế đối với nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan
hệ quốc tế. Trong đó, tiểu luận tập trung phân tích nguyên nhân, bối cảnh lịch sử hình
thành và phát triển của nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực
trong quan hệ quốc tế, là loại nguyên tắc được áp dụng đối với tất cả các quốc gia đang
hoặc chưa tham gia Liên hợp quốc nhằm hạn chế các hoạt động “vũ trang”, “đe dọa sử
dụng vũ trang” dưới bất kỳ lý do nào của bất kỳ quốc gia nào dẫn đến sự vi phạm quy
định của Luật quốc tế, các khái niệm liên quan trực tiếp đến nội tại của nguyên tắc
này: “đe dọa sử dụng vũ lực”, “sử dụng vũ lực”.
Về phạm vi nghiên cứu, bài tiểu luận này tập trung trình bày và phân tích về
quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử
dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, các vấn đề áp dụng nguyên tắc trong thực tiễn quan
hệ quốc tế so với quy định của Hiến chương Liên hợp quốc, và các văn bản của Luật
quốc tế. Bên cạnh đó, việc áp dụng nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử
dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế còn có những ngoại lệ, thông qua đó đánh giá và
phân tích tính hợp pháp, tính phù hợp khi sử dụng ngoại lệ trong thực tiễn áp dụng
nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế và
một số khuyến nghị đối với việc thực thi nguyên tắc trong thời kỳ hiện đại. III.
Mục tiêu của đề tài
Tiểu luận này được nghiên cứu với mục tiêu hiểu rõ về quá trình hình thành và
phát triển của nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan
hệ quốc tế và quá trình áp dụng nguyên tắc trong thực tiễn quan hệ quốc tế, phân biệt
được các khái niệm nội tại của nguyên tắc, vận dụng quy định pháp luật quốc tế để
phân tích tính hợp pháp của ngoại lệ của nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ lực hoặc
sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế trong thực tiễn áp dụng ngoại lệ của các quốc gia
và các chủ thể của Luật quốc tế. 2 IV.
Kết cấu tiểu luận
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA NGUYÊN TẮC CẤM ĐE DỌA SỬ DỤNG VŨ LỰC HOẶC SỬ
DỤNG VŨ LỰC TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ 1.
Quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc
Nếu như từ thế kỷ XIX trở về trước, trong quan hệ giữa các nước, chiến tranh
thường được sử dụng để giải quyết tranh chấp, thì từ thế kỷ XIX trở đi, đã có sự
chuyển biến khá rõ về việc hạn chế dùng sức mạnh trong quan hệ khá rõ về việc hạn
chế dùng sức mạnh trong quan hệ quốc tế. Văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên đề cập ở
khía cạnh của nguyên tắc này là Công ước Lahaye 1899 về giải quyết hòa bình các
tranh chấp quốc tế, Công ước về hạn chế áp dụng sức mạnh trong trường hợp cam kết
quốc tế, Quy chế của Hội quốc liên,...
Công ước Lahaye năm 1899 về hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế và Công
ước năm 1907 về hạn chế sử dụng vũ lực đối với quốc gia vi phạm cam kết quốc tế là
những công ước quốc tế toàn cầu đầu tiên đã không coi việc tiến hành chiến tranh là
quyền của quốc gia, nhưng cũng chưa đưa ra quy định ngăn cấm chiến tranh, mà chỉ
kêu gọi các quốc gia “với khả năng có thể” thì ngăn ngừa nguy cơ dùng vũ lực. Như
vậy, trước chiến tranh thế giới thứ II những quy định về việc không sử dụng chiến
tranh chỉ là những quan điểm, ý tưởng và chưa trở thành nguyên tắc mang tính bắt buộc chung.
Nguyên tắc khước từ chiến tranh, không đe dọa sử dụng sức mạnh hoặc sử
dụng sức mạnh để giải dụng sức mạnh để giải quyết tranh chấp quốc tế được hình
thành trong Luật quốc tế gắn liền với tên hai chính khách là ông A. Briand - Bộ trưởng
Bộ Ngoại giao Pháp và ông F Kellogg - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ. Ngày
27/8/1928, hai ông thay mặt Chính phủ của mình ký Hiệp ước Pari về khước từ chiến
tranh với tính chất là công cụ của chính sách nhà nước hay còn gọi là Hiệp ước
Kellogg - Briand (sau đây gọi tắt là Hiệp ước Pari năm 1928). Hiệp ước này sau đó
được thừa nhận rộng rãi và trở thành điều ước quốc tế đa phương. Điều 1 của Hiệp ước
ghi nhận: “Các bên trịnh trọng tuyên bố, nhân danh nước mình, lên án việc dùng chiến
tranh để giải quyết tranh chấp quốc tế khước từ chiến tranh trong quan hệ quốc tế như 3
một công cụ của chính sách nhà nước”. Điều 2 khẳng định: “Các bên tham gia Hiệp
ước có nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình”.
Tuy nhiên, việc xác định vấn đề không đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ
lực trong các văn bản pháp luật kể trên còn nhiều hạn chế. Ví dụ: Điều 12 Quy chế của
Hội quốc liên quy định các quốc gia thành viên không được sử dụng chiến tranh khi
chưa áp dụng các biện pháp hòa bình. Như vậy, việc sử dụng vũ lực ở đây vẫn hợp
pháp khi các bên đã áp dụng các biện pháp hòa bình nhưng được các tranh chấp quốc
tế. Còn Hiệp ước Pari năm 1928 thì số lượng quốc gia tham gia rất hạn chế.
Sự ra đời của Liên hợp quốc với bản Hiến chương của mình được đánh giá rất
cao vì mục đích giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế. Tại khoản 4 Điều 2 của Hiến
chương này quy định rằng: “Trong quan hệ quốc tế, các hội viên Liên hợp quốc không
được có hành động đe dọa bằng vũ lực hay dùng vũ lực để chống lại quyền bất khả
xâm phạm về lãnh thổ hay nến độc lập chính trị của bất cứ một nước nào, hoặc bằng
cách này hay cách khác làm trái với những mục đích của Liên hợp quốc”. Theo quy
định nêu trên thì việc một chủ thể dùng các loại sức mạnh nhằm khống chế, đe dọa tấn
công, tấn công, hoặc cưỡng bức trái pháp luật quốc tế đối với một chủ thể khác trong
quan hệ quốc tế là hành vi vi phạm luật quốc tế.
Tuy nhiên, với quy định trên đây, Hiến chương Liên hợp quốc mới chỉ dừng lại
ở việc đưa ra tên gọi của nguyên tắc này, còn việc giải thích định nghĩa như thế nào là
“vũ lực” và “đe dọa dùng vũ lực” trong quan hệ quốc tế lại phụ thuộc đặt vào cách
hiểu của các quốc gia . Điều này tạo ra sự giải thích khác nhau yêu cầu phải xây dựng
hệ thống các nguyên tắc và có sự giải thích thống nhất nguyên tắc trong cộng đồng
quốc tế. Hiến chương Liên hợp quốc và các văn bản pháp lý quốc tế sau chiến tranh
thế giới thứ II đã ghi nhận nguyên tắc này một cách đầy đủ và toàn diện hơn. Đặc biệt,
Tuyên bố ngày 24/10/1970 đã quy định một cách đầy đủ và toàn diện nội dung của
nguyên tắc. Nguyên tắc này còn được làm sáng tỏ qua thực tiễn xét xử của Tòa án
Công lý quốc tế. Ví dụ: Vụ xét xử tại Tòa án Công lý quốc tế của Liên hợp quốc về
tranh chấp giữa Mỹ và Nicaragua năm 1986. Theo quyết định của Tòa án:
- Nguyên tắc cấm dùng sức mạnh là hòn đá tảng của trật tự pháp luật quốc tế.
- Hoạt động của một số tàu tuần tiễu của Nicaragua gây ra xung đột nhỏ ở biên
giới không phải là tấn công vũ trang. 4
- Việc đưa nhóm quân thường trực và binh lính đánh thuế để chống lại quốc gia
khác có chủ quyền là sự vi phạm nguyên tắc trên. Như vậy, phán quyết của Tòa án
Công lý quốc tế đã làm sáng tỏ các hành vi được xem là vi phạm hay không Vi phạm nguyên tắc này.
Sau này, nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong Hiến chương
đã được cụ thể hoá trong một loạt các văn bản quốc tế quan trọng được thông qua
trong khuôn khổ Liên hợp quốc như Tuyên bố về những nguyên tắc của luật quốc tế
điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp vối Hiến chương
Liên hợp quốc (do Đại hội đồng thông qua năm 1970); Tuyên bố của Đại hội đồng
Liên hợp quốc năm 1974 về định nghĩa xâm lược, Định ước của Hội nghị Henxinki
năm 1975 về An ninh và hợp tác của các nước châu Âu; Tuyên bố năm 1987 về việc
Nâng cao hiệu quả của nguyên tắc khước từ đe dọa dùng sức mạnh hoặc đe dọa dùng
sức mạnh trong quan hệ quốc tế và một số văn kiện của phong trào không liên kết, tổ chức ASEAN... 2.
Nội dung chủ yếu của nguyên tắc 2.1. Giá trị pháp lý
Nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực được xem là nguyên tắc có
tầm quan trọng bậc nhất trong tất cả các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Luật
pháp nói chung được đặt ra để con người có thể sống với nhau trong xã hội một cách
hòa bình, hay ít nhất không xung đột một mất một còn. Nếu vũ lực được sử dụng một
cách không hạn chế, thì từ thời điểm đó luật pháp chỉ là trò cười, một đống giấy lộn
mà thôi. Luật pháp quốc tế cũng là luật pháp và do đó cũng tương tự như thế. Sau hai
cuộc thế chiến, đặc biệt là Chiến tranh Thế giới thứ II, con người đã phải chịu đựng
“nỗi đau đớn không nói thành lời” hai lần trong cuộc đời ngắn ngủi của họ. Do đó, vũ
lực cần phải được hạn chế mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn, không chỉ bằng quy định mà
còn bằng một cơ chế bảo đảm và giám sát thực hiện hiệu quả. Và để đáp ứng suy nghĩa
đó, Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 đã quy định nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng
hay sử dụng vũ lực là một trong những nguyên tắc của Tổ chức này, giao cho Hội đồng
Bảo an trách nhiệm chính yếu để giám sát thực thi nhằm bảo đảm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
Ngoài được quy định tại Điều 2(4) Hiến chương, nguyên tắc này còn tồn tại
trong tập quán quốc tế. Trong phán quyết kinh điển của mình trong Vụ Nicaragua v 5
Mỹ năm 1986, Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) đã lần đầu tiên công nhận nguyên tắc này
là một quy phạm tập quán quốc tế, ràng buộc tất cả các quốc gia trên thế giới.[3] Hơn
nữa, có thể do tầm quan trọng không thể chối cãi của nguyên tắc mà nguyên tắc cấm
sử dụng vũ lực còn được công nhận là một quy phạm mệnh lệnh bắt buộc chung (quy
phạm jus cogens) – một trong những quy phạm hiếm hoi được xem có giá trị pháp lý
cao nhất, vượt trên và không chấp nhận bất kỳ sự vi phạm nào (có thể ví quy phạm jus
cogens như quy phạm hiến định trong hệ thống pháp luật quốc gia). Tóm lại, về mặt
pháp lý, cộng đồng quốc tế đã xác lập và gia cố nguyên tắc này bằng tất cả các biện
pháp có thể để bảo đảm đây là một nguyên tắc cứng, bất khả xâm phạm, không thể
vượt qua trong luật pháp quốc tế.
Về mặt thể chế giám sát thực thi, cộng đồng quốc tế sau Chiến tranh Thế giới
thứ II đã học được bài học từ Hội quốc liên, và xây dựng một cơ chế an ninh tập thể
hiện quả hơn hẳn – Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Hội đồng có thể xem là thiết chế
có quyền lực nhất trên thế giới, có quyền “sinh, sát” đối với những vấn đề quan trọng
nhất và kể cả sự tồn vong của chế độ một quốc gia. Nếu chỉ từ kết quả của 70 năm tồn
tại không có chiến tranh thế giới thứ 3, Hội đồng Bảo an đã hoàn thành và thực thi tốt
vai trò của mình. Ở những góc độ khác đánh giá có thể khác nhau. 2.2. Nội dung của nguyên tắc
Nội dung của nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan
hệ quốc tế được ghi nhận cụ thể trong Tuyên bố 1970 của Đại hội đồng LHQ: “Mỗi
quốc gia có nghĩa vụ từ bỏ việc đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng vũ lực để vi phạm biên
giới quốc gia của các nước khác hoặc dùng nó làm phương tiện để giải quyết các tranh
chấp quốc tế, kể cả các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề có liên quan đến biên giới các nước”.
Vũ lực thông thường được hiểu là vũ lực quân sự, vũ lực do vũ khí, khí tài. Có
ý kiến cho rằng vũ lực bao gồm cả vũ lực chính trị và kinh tế, ví dụ như sử dụng cấm
vận kinh tế, sức ép chính trị. Tuy nhiên, có vẻ cách hiểu rộng này không được chấp
nhận. Và việc sử dụng cấm vận kinh tế hay sức ép chính trị để tác động vào toàn vẹn
lãnh thổ và độc lập chính trị nên được xem xét trong khuôn khổ nguyên tắc cấm can
thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác.
Đe dọa sử dụng vũ lực được hiểu là hành vi của một số quốc gia không nhằm
tấn công, xâm lược nhưng có mục đích gây sức ép, buộc quốc gia khác thỏa thuận một 6
yêu sách hoặc thừa nhận một tình trạng nào đó. Nếu không ngay sau đó có thể hiểu
quốc gia đó sẽ sử dụng vũ lực hoặc các hành vi có nguy cơ dẫn đến việc sử dụng vũ
lực. Đe dọa sử dụng vũ lực được thể hiện bằng các hành vi: Tập trận ở vùng giáp biên
giới với quốc gia khác; tập trận đội ở gần biên giới quốc gia khác trái với thỏa thuận
quốc gia có liên quan; lập căn cứ quân sự trái với th giữa các quốc gia có liên quan,...
Trong Ý kiến tư vấn về Tính hợp pháp của việc đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ
khí hạt nhân, Tòa ICJ giải thích rằng việc một quốc gia tuyên bố sẽ sử dụng một loại
vũ khí nào đó (có thể là vũ khí hạt nhân) để tự vệ nếu bị tấn công có được xem là “đe
dọa sử dụng vũ lực” theo Điều 2(4) hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tòa
cho rằng tiêu chí xác định nằm ở việc quốc gia đe dọa sử dụng cái gì; nếu việc sử dụng
vũ lực theo cách thức nhất định là vi phạm Điều 2(4) thì việc đe dọa sử dụng vũ lực
theo cách thức đó sẽ là “đe dọa” vi phạm Điều này. Nói nôm na, nếu nước A đe dọa
thực hiện việc A, mà việc A đó được xác định là sử dụng vũ lực theo Điều 2(4) nếu xảy
ra, thì việc đe dọa sẽ cấu thành “đe dọa sử dụng vũ lực” bị cấm ở Điều 2(4). Trong vụ
này, Tòa cho rằng chính sách răn đe hạt nhân có hay không có cấu thành đe dọa sử
dụng vũ lực theo Điều 2(4) phụ thuộc vào “cách sử dụng vũ lực cụ thể được dự trù”
theo chính sách đó có nhằm chống lại toàn vẹn lãnh thổ, độc lập chính trị hay Mục
đích của Liên hợp quốc hay không, hay liệu khi được sử dụng như một biện pháp quốc
phòng thì có nhất thiết vi phạm nguyên tắc cần thiết và tương xứng hay không.
Gần đây hơn một tòa trọng tài luật biển trong Vụ Guyana và Suriname đã có vẻ quá
nhạy cảm với đe dọa sử dụng vũ lực. Tòa trọng tài đã xem xét hành vi của tàu hải quân
Suriname phát ra cảnh báo một tàu khoan dầu được Guyana cấp phép phải đi ra khỏi
khu vực đang khoan “nếu không sẽ chịu mọi hậu quả”. Sau cảnh báo tàu khoa dầu đã
rút đi và không có bất kỳ va chạm nào. Tuy nhiên Tòa trọng tài đã cho rằng việc cảnh
báo “chịu mọi hậu quả” quá mơ hồ nhưgn rõ ràng hàm ý sẽ sử dụng vũ lực nếu tàu
khoan dầu không rút đi. Hơn nữa hành vi của tàu hải quân Suriname được xem là đe
dọa có hành động quân sự hơn là hành vi chấp pháp thông thường, do đó, đã cấu thành
đe dọa sử dụng vũ lực. Điểm đặc biệt của phán quyết trọng tài trong vụ việc này, cùng
với phán quyết trước đó trong Vụ Saiga trước đó, là việc khẳng định luật pháp quốc tế
không cấm việc sử dụng vũ lực trong hoạt động thực thi pháp luật với điều kiện việc
sử dụng đó là không thể trách khỏi (unavoidable), hợp lý (reasonable) và cần thiết ( ). necessary [14] 7
Khái niệm xâm lược: Nghị quyết của Liên hợp quốc số 3314 (XXIX) ngày
12/4/1974 đã định nghĩa hành vi xâm lược bằng cách liệt kê các hoạt động được coi là
hành vi xâm lược, không phụ thuộc vào việc có tuyên bố chiến tranh hay không và
tuyên bố ở đâu. Bao gồm:
+ Sử dụng lực lượng vũ trang của quốc gia, nhóm quốc gia, tiến quân hoặc tấn
công vào lãnh thổ quốc gia khác. Hành vi xâm lược bao gồm cả việc bao vây quân sự,
dù trong thời gian gian ngắn hay dài, nếu đó là kết quả của việc tiến công hoặc tấn
công vũ trang; hoặc là việc dùng lực lượng vũ trang chiếm đóng toàn bộ hay một phần
lãnh thổ của quốc gia khác;
+ Sử dụng không kích hoặc bất kỳ vũ khí nào chống lại lãnh thổ quốc gia khác
ngay cả khi không kèm theo sự tấn công bằng lực lượng vũ trang;
+ Tấn công bằng lực lượng vũ trang của quốc gia này vào lực lượng vũ trang của quốc gia khác;
+ Sử dụng lực lượng vũ trang đóng trên lãnh thổ của quốc gia khác (theo thỏa
thuận) nhưng đã vi phạm các điều kiện quy định trong thỏa thuận hay kéo dài thời hạn đóng quân quốc gia đó;
+ Tạo điều kiện hoặc cho phép quốc gia khác sử dụng lãnh thổ của quốc gia
mình để tấn công quốc gia thứ ba;
+ Đưa các nhóm vũ trang, các phần tử phiến loạn có vũ trang hoặc lính đánh
thuê vào lãnh thổ của nước khác với mục đích chống lại quốc gia đó.
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc khi thực hiện chức năng xác định có hay không
có hành vi xâm lược căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản: Sử dụng lực lượng vũ trang và hậu
quả mang tính chất nghiêm trọng của hành vi sử dụng lực lượng vũ trang. Ngoài ra,
tùy từng trường hợp cụ thể mà tiêu chí “xâm lược có chủ định” cũng sẽ được Hội đồng Bảo an xem xét.
Tóm lại, nội dung của nguyên tắc không đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ
lực trong quan hệ quốc tế thể hiện ở các vấn đề:
+ Cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia khác trái với các quy phạm của Luật quốc
tế. Ví dụ: I rắc xâm chiếm Cô oét ngày 02/8/1990;
+ Cấm các hành vi trấn áp bằng vũ lực;
+ Không cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ nước mình để tiến hành xâm lược chống quốc gia thứ ba; 8
+ Không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi
khủng bố tại các quốc gia khác;
+ Không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức băng nhóm vũ trang, lực
lượng vũ trang phi chính quy, lính đánh thuê để đột nhập vào lãnh thổ quốc gia khác;
+ Không đe dọa sử dụng sức mạnh hoặc sử dụng sức mạnh để vi phạm quyền dân tộc tự quyết. 3.
Trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc
Về nguyên tắc, mọi hành vi sử dụng và đe dọa sử dung vũ lực đều bị coi là bất
hợp pháp trừ hai trường hợp ngoại lệ sau đây:
Trong trường hợp có hành vi xâm lược hoặc phá hoại hòa bình và an ninh quốc
tế đã được đại hội đồng bảo an áp dụng các biện pháp phi vũ trang như cắt đứt toàn bộ
hay từng phần quan hệ kinh tế, đường sắt, đường biển, hàng không,.. và các phương
tiện thông tin khác, kể cả việc cắt đứt quan hệ ngoại giao nhưng Hội đồng bảo an
(HĐBA) nhận thấy những biện pháp đó "... là không thích hợp, hoặc tỏ ra là không
thích hợp, thì HĐBA có quyền áp dụng mọi hành động của hải, lục, không quân mà
HĐBA xét thấy cần thiết cho việc duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế.
Những hành động này có thể là những cuộc biểu dương lực lượng, phong tỏa và những
cuộc hành quân khác, do các lực lượng hải, lục, không quân của các quốc gia thành
viên LHQ thực hiện" (điều 42 Hiến chương LHQ).
Hành vi sử dụng vũ lực do HĐBA quyết định trong những trường hợp nói trên
không bị coi là vi phạm nguyên tắc này.
Như vậy, theo tinh thần của Hiến chương Liên hợp quốc, quyền tự do hành
động của quốc gia trong phạm vi tự vệ chính đáng chỉ là tạm thời. Một khi Hội đồng
bảo an đã quyết định hành động thì vụ việc đó sẽ được đặt dưới quyền quyết định của
cơ quan này. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, quyền tự vệ chính đáng là cách duy nhất
cho phép các quốc gia được sử dụng vũ lực một cách hợp pháp. Do đó, sự can thiệp
của Hội đồng bảo an trong trường hợp này được coi như một cơ chế kiểm soát hữu
hiệu nhằm tránh việc lạm dụng vũ lực từ phía các quốc gia. Tuy nhiên, sự can thiệp
này chỉ thực sự có tác dụng khi các nước lớn thỏa thuận cùng nhau hành động nhằm
ngăn chặn việc sử dụng vũ lực. 9
Các dân tộc thuộc địa được phép sử dụng tất cả các biện pháp để đấu tranh
giành quyền tự quyết, kể cả các biện pháp quân sự nhưng phải tuân thủ các quy định của luật quốc tế.
Các quốc gia có quyền sử dụng lực lượng vũ trang để thực hiện quyền tự vệ hợp
pháp, kể cả việc sử dụng biện pháp quân sự nhưng phải tuân thủ nguyên tắc tương
xứng. Trong trường hợp các quốc gia bị xâm lược vũ trang, Hiến chương LHQ quy
định: "không có một điều khoản nào trong Hiến chương này làm tổn hại đến quyền tự
vệ cá nhận hay tập thể chính đáng trong trường hợp thành viên LHQ bị tấn công vũ
trang cho đến khi HĐBA chưa áp dụng được các biện pháp cần thiết để duy trì hòa
bình và an ninh quốc tế. Những biện pháp mà các thành viên LHQ áp dụng trong việc
bảo vệ quyền tự vệ chính đáng ấy phải được báo ngay cho HĐBA và không được gây
ảnh hưởng gì đến quyền hạn và trách nhiệm của HĐBA, chiếu theo hiến chương này,
đối với việc HĐBA áp dụng bất kỳ lúc nào những hành động mà HĐ thấy cần thiết để
duy trì và khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế" (điều 51 Hiến chương LHQ).
Như vậy, khi bị xâm lược vũ trang, các quốc gia, các dân tộc có quyền tự vệ cá
thể hoặc tập thể cho đến khi HĐBA áp dụng các biện pháp hữu hiệu để duy trì hòa
bình và an ninh quốc tế và phải báo ngay cho HĐBA. Hiến chương Liên hợp quốc
thừa nhận quyền tự vệ chính đáng của các quốc gia, nhưng lại không đưa ra khái niệm
thế nào là một hành vi “xâm lược”. Theo Nghị quyết 3314 của Đại hội đồng Liên hợp
quốc năm 1974 về định nghĩa xâm lược thì, xâm lược là việc một nước sử dụng lực
lượng vũ trang tấn công, vi phạm đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc nền độc lập
chính trị của một nước khác, hoặc “dưới bất kỳ hình thức nào khác”. Nghị quyết đặt ra
một danh sách không giới hạn những hành vi bị coi là xâm lược; đồng thời nghị quyết
này cũng trao cho Hội đồng bảo an quyền được quyết định có hay không hành vi xâm
lược trong các tình huống cụ thể.
Đồng thời không được cản trợ HĐBA hành động để thực hiện sứ mệnh bảo vệ
hòa bình và an ninh quốc tế của mình. Về phương diện pháp lý, hành vi tự vệ của các
quốc gia, các dân tộc dưới hình thức cá thể và tập thể là những hành vi hợp pháp,
không vi phạm nguyên tắc cấm sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Mức độ chống trả
phải tương xứng với mức độ thiệt hại mà bên kia đã gây ra và phải báo với HĐBA. 10
Chương 2. QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC TRONG THỰC TIỄN QUAN HỆ QUỐC TẾ 1.
Nguyên nhân xảy ra hành vi vi phạm nguyên tắc
Ngày nay vẫn còn nhiều quốc gia vi phạm nguyên tắc này một cách trắng trợn
nhưng bao giờ họ cũng cố tìm ra những lý do có vẻ chính đáng để biện hộ cho hành vi
sai trái của mình và luôn giải thích rằng điều đó phù hợp với quy định của Hiến
chương LHQ. Học thuyết Ri – Găn (của Cựu Tổng thống Mỹ) cho rằng việc ủng hộ
các chiến sĩ đấu tranh cho tự do là hình thức tự vệ và hoàn toàn phù hợp với luật quốc
tế. Theo học thuyết này thì các quốc gia có quyền mang quân vào nước khác để bảo vệ
quyền con người ở đó. Thuyết này hoàn toàn trái với luật quốc tế, không phù hợp với
các quyết định của tòa án quốc tế. Ngược lại việc sử dụng dùng vũ lực tất yếu dẫn đến
vi phạm thô bạo quyền con người, trong đó có quyền được sống.
Chính phủ của các nước vi phạm thường viện dẫn những hoạt động của họ là
thực hiện quyền tự vệ và họ lại có vẻ như khẳng định ý nghĩa của nguyên tắc không sử
dụng vũ lực. Việc Mỹ mang quân vào Campuchia năm 1970, vào Grenada và Libia
năm 1983, vào Panama năm 1989; việc các nước NATO không kích Nam Tư mùa thu
năm 1999 thực chất là vi phạm nguyên tắc không dùng vũ lực và đe dọa bằng vũ lực
trong quan hệ quốc tế, những hành vi này bị cộng đồng quốc tế phản đối gay gắt vì nó
vi phạm luật quốc tế, đi ngược lại xu thế chung của thời đại chúng ta.
Nguyên nhân dẫn đến những sự vi phạm đó chủ yếu xuất phát từ những lý do sau: (1)
Chế độ xã hội và ý thức hệ khác nhau
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, có một số quốc gia vì thấy nước khác lựa
chọn chế độ xã hội hoặc ý thức hệ không giống với nước mình nên họ tiến hành can
thiệp, thậm chí sẵn sàng sử dụng vũ lực đối với nước đó. Ví dụ, hai siêu cường Mỹ và
Liên Xô thường chọn cách làm này. Những kẻ cường quyền không chỉ giành quyền
chọn cho mình một chế độ xã hội và ý thức hệ độc lập mà còn có thể đưa ra sự lựa
chọn cho nước khác. Ví dụ, Mỹ đã khẳng định rõ quyền sử dụng vũ lực áp đặt, khôi
phục nền dân chủ cho Grenada và Nicaragoa... Ngày nay, cộng đồng quốc tế đã cơ bản
đạt được nhận thức chung đối với việc cấm các hành vi, vi phạm trắng trợn nguyên tắc
“can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác”. Do vậy, biện pháp dùng vũ lực để 11
truyền bá chế độ xã hội và ý thức hệ đã không còn là mối đe dọa chủ yếu nhất đối với
nguyên tắc “cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực”. (2)
Sự can thiệp về nhân quyền của chủ nghĩa nhân đạo
Trong một tình huống nào đó, sự can thiệp về nhân quyền của chủ nghĩa nhân
đạo có thể giải quyết được khủng hoảng về nhân quyền và cứu được rất nhiều sinh
mạng vô tội. Nhưng việc dùng vũ lực để can thiệp vào nước khác đương nhiên là mâu
thuẫn với nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực của luật quốc tế. Nhìn chung dư luận quốc tế
đều cho rằng: trong trường hợp đặc biệt cấp bách, cần phải có sự can thiệp nhưng phải
tiến hành trong khuôn khổ LHQ, nếu không sẽ là phi pháp. Điều đó có nghĩa là chỉ có
LHQ mới có đủ uy quyền để thực hiện hành động này (trừ trường hợp được nước chủ
nhà cho phép, thậm chí yêu cầu). Như vậy Luật quốc tế không cho phép áp dụng chủ
nghĩa nhân đạo một cách bừa bãi, bởi nếu thế thì thế giới sẽ trở nên hỗn loạn, chiến
tranh sẽ xảy ra khắp nơi. Thế nhưng con bài “nhân quyền” hiện nay vẫn được một số
quốc gia dùng để đe dọa các quốc gia khác. (3)
Chủ nghĩa khủng bố
Hoạt động khủng bố quốc tế là một loại hoạt động phạm tội vô cùng nguy hiểm.
Sự nguy hại và tính nghiêm trọng của nó không chỉ biểu hiện ở số lượng các vụ khủng
bố ngày càng tăng mà còn biểu hiện ở việc dẫn đến sự biến động xã hội, hình thành
không khí khủng bố trong cộng đồng quốc tế. Hoạt động của chủ nghĩa khủng bố là
một hoạt động tội phạm mang tính chất quốc tế, bởi nó không chỉ vi phạm pháp luật
của các quốc gia liên quan mà còn vi phạm pháp luật quốc tế. Vấn đề đặt ra là cần phải
tiến hành chống khủng bố như thế nào?
Trong thực tiễn, nhiều quốc gia đã áp dụng hành động đơn phương khi bị chủ
nghĩa khủng bố xâm hại. Do tính chất quốc tế của hoạt động khủng bố nên những nước
bị khủng bố khi áp dụng hành động đơn phương thường nhắm vào các nước khác chứ
không phải chỉ một cá nhân. Bởi vậy, hành động trả đũa đối với chủ nghĩa khủng bố
thường được thể hiện ở sự can thiệp nào đó, thậm chí can thiệp bằng vũ trang đối với
những nước bị coi là đã dung túng, khuyến khích, thực hiện những hoạt động khủng bố.
Vậy việc sử dụng vũ lực tấn công vào quốc gia khác để tiêu diệt chủ nghĩa khủng bố
có hợp pháp không? Điều 51 Hiến chương LHQ có quy định “quyền tự vệ” của các
quốc gia, nhưng quyền này không cho phép tiến hành trả đũa đối với những cuộc tấn 12
công trước đó. Như vậy, luật pháp quốc tế không cho phép các quốc gia sử dụng vũ
lực đối với những nước đã tiến hành khủng bố. Bởi muốn tiêu diệt chủ nghĩa khủng bố
không chỉ đơn thuần dựa vào sự trả thù của một hoặc hai quốc gia, còn phát động
chiến tranh để tiến hành trả đũa chủ nghĩa khủng bố là điều vô cùng nguy hiểm. Thực
tế đã chứng minh, để trả đũa cho thảm họa khủng bố ngày 11/9, Mỹ đã tiến hành chiến
tranh đánh Afghanistan, để ngăn ngừa chủ nghĩa khủng bố Mỹ đã sử dụng vũ trang tấn
công Iraq; thế nhưng chủ nghĩa khủng bố mà Mỹ nhằm tiêu diệt vẫn chưa có kết quả.
Như vậy, tiêu diệt chủ nghĩa khủng bố không nên tiến hành bằng cách dùng vũ
lực đơn phương của các nước mà nên tiến hành thông qua sự hợp tác quốc tế trong
khuôn khổ LHQ, phù hợp với nguyên tắc an ninh tập thể do LHQ đề ra. Nếu làm được
điều này thì cuộc chiến chống khủng bố mới có tính hợp lý và hợp pháp, nó sẽ được
đông đảo nhân dân trên thế giới ủng hộ, đồng thời sẽ giảm bớt được những cuộc xung
đột vũ trang và những mâu thuẫn giữa các khu vực, giữa các quốc gia và giữa các dân
tộc trên thế giới và điều cơ bản là thế giới sẽ trở nên hòa bình hơn. 2.
Thực trạng nguyên tắc “Cấm sử dụng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong
quan hệ quốc tế”
Dưới đây là một vụ việc thực tế trong việc xác định có hay không việc vi phạm
nguyên tắc “Cấm sử dụng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế”:
Ngày 04 tháng 04 năm 2017 Mỹ cáo buộc chính phủ Syria đã thực hiện một
cuộc tấn công hóa học, giết chết hàng chục người tại tỉnh Idlib, tây nam thành phố
Aleppo. “Nhà Trắng” gọi cuộc tấn công này là “tàn ác” và nhấn mạnh “cuộc tấn công
hóa học hôm nay ở Syria chống lại dân thường bao gồm cả phụ nữ và trẻ em là đáng
trách và không thể phớt lờ bởi thế giới văn mình.” Phía Mỹ cho rằng Chính phủ Syria
của Tổng thống Bashar al-Assad đứng sau cuộc tấn công này. Ngày 06 tháng 04 năm
2017, Tổng thống Trump ra lệnh tấn công vào các cơ sở sân bây của quân đội Syria.
Đã có 59 tên lửa hành trình Tomahawk đã được phóng, trong đó 58 quả đánh trúng các
mục tiêu dự kiến. Tổng thống Trump có hai lý do dẫn đến quyết định tấn công tên lửa
và Syria. Lý do dài hạn là nhằm chống khủng bố, chống chính quyền của Tổng thống
Assad và ngăn chặn khủng hoảng di cư. Lý do trực tiếp là nhằm bảo vệ “lợi ích an
ninh quốc gia sống còn” của Mỹ nhằm ngăn chặn và loại trừ vũ khí hóa học, và trừng
phạt chính phủ Assad khi cho rằng chính phủ này đã tiến hành cuộc tấn công hóa học ngày 04/04/2017. 13
Luật pháp quốc tế quy định nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng hoặc sử dụng vũ
lực. Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực có hai ngoại lệ được chấp nhận rộng rãi: tự vệ
theo Điều 51 và sử dụng vũ lực theo sự cho phép của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
theo Chương VII Hiến chương Liên hợp quốc. Tự vệ?
Tự vệ theo Điều 51 Hiến chương yêu cầu phải có tấn công vũ trang. Trong
trường hợp này, không có bất kỳ bằng chứng hay sự kiện nào cho thấy nước Mỹ bị tấn
công vũ trang. Kể cả nếu viện dẫn đến tự vệ phủ đầu hay tự vệ phòng ngừa thì có vẻ
cũng không đủ cơ sở để cho rằng có bất kỳ mối đe dọa trực tiếp gần kề nào từ phía
Syria chống lại nước Mỹ. Điều 51 Hiến chương quy định khi một quốc gia có hành
động tự vệ cần ngay lập tức thông báo cho Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc biết. Sau
cuộc tấn công bằng tên lửa của Mỹ ngày 06/7/2017 Mỹ không có vẻ đã thông báo cho
Hội đồng Bảo an. Đây có thể là một bằng chứng cho thấy chính nước Mỹ cũng không
cho rằng mình đang thực thi quyền tự vệ theo Điều 51.
Sử dụng vũ lực để cưỡng chế thi hành luật pháp quốc tế hoặc để trừng phạt
hành vi vi phạm luật pháp quốc tế?
Trong trường hợp cuộc tấn công bằng tên lửa của Mỹ vào Syria ngày
06/7/2017, Mỹ không thể tự nhận vai trò cưỡng chế hay trừng phạt Syria cho các cáo
buộc vi phạm luật pháp quốc tế bằng vũ lực. Luật quốc tế không trao cho bất kỳ quốc
gia nào, kể cả các siêu cường, một vai trò pháp lý trong việc cưỡng chế hay trừng phạt.
Mỹ có thể tiến hành các biện pháp chính trị-ngoại giao, kinh tế như cắt đứt quan hệ
ngoại giao, kinh tế với Syria, nhưng việc sử dụng vũ lực sẽ vi phạm vào nguyên tắc
cấm đe dọa sử dụng vũ lực và nguyên tắc tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của
quốc gia. Luật pháp quốc tế không vận hành theo cách thức trao cho một hay một vài
quốc gia quyền được cưỡng chế thi hành hay trừng phạt vi phạm. Can thiệp nhân đạo?
Can thiệp nhân đạo là một học thuyết gây nhiều tranh cãi, và chưa được chấp
nhận là một ngoại lệ hợp pháp để sử dụng vũ lực trong luật pháp quốc tế. Thông
thường, có ba điều kiện liên quan sau đây: (1) Có bằng chứng thuyết phục, được toàn
thể công đồng quốc tế công nhận rộng rãi về sự tồn tại của thảm họa nhân đạo nghiêm
trọng cần thiết phải có hành động loại trừ ngay; (2) Hoàn cảnh của vụ việc rõ ràng và
khách quan là không có bất kỳ biện pháp thay thế nào ngoài sử dụng vũ lực – sử dụng 14
vũ lực là biện pháp cuối cùng khả thi; (3) Việc sử dụng vũ lực ở mức cần thiết tối thiểu
và tương xứng để loại trừ thảm họa nhân đạo đó.
Điều kiện (1) và (3) có thể chưa bàn tới Tuy nhiên điều kiện (2) khó có thể được
thỏa mãn do việc sử dụng vũ lực không thể được xem là giải pháp cuối cùng khả thi.
Thứ nhất, chưa có bằng chứng xác thực về việc ai đứng sau việc tấn công bằng vũ khí
hóa học ngày 04/04/2017 và tiếp theo đó, giải pháp cho vấn đề ở Syria cần được tiến
hành trên bàn đàm phán và việc chấm dứt cuộc nội chiến mới là giải pháp hiệu quả
nhất để chấm dứt các cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học trong tương lai. Tóm lại, mặc
dù có thể có ý kiến cho rằng hành động của Mỹ sẽ có tác dụng mạnh mẽ ngăn chặn
mọi cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học trong tương lai, qua đó ngăn chặn thảm họa
nhân đạo xảy ra, nhưng về mặt pháp lý, rất khó cho Mỹ để dựa trên căn cứ can thiệp
nhân đạo để biện minh cho hành động tấn công bằng tên lửa ngày 06/04/2017.
Nhìn chung, qua các phân tích sơ bộ nêu trên, rất khó để tìm ra biện minh hợp
lý cho hành động tấn công bằng tên lửa của Mỹ vào Syria ngày 06/04/2017 sau khi có
cáo buộc chính quyền al-Assad tiến hành tấn công bằng vũ khí hóa học hai ngày trước
đó. Điều đó đồng nghĩa phải xem xét nghiêm túc rằng có hay không việc Mỹ vi phạm
nguyên tắc “Cấm sử dụng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế”.
Do bất cứ lĩnh vực nào trong quan hệ giữa các quốc gia hiện nay đều có thể bị
đe dọa bởi việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực nên việc tuân thủ nguyên
tắc không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế là điều hết sức
cần thiết cho sự ổn định, phát triển trong hòa bình an ninh của thế giới ngày nay. Trên
đây là bài viết của em về nội dung và bình luận thực tiễn nguyên tắc “Cấm sử dụng vũ
lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế”. 3.
“Ngoại lệ khác”?
Thực tiễn thì luôn phong phú hơn lý thuyết. Các quốc gia và những luật sư
chính phủ của họ rất sáng tạo; những ngoại lệ khác đôi khi được viện dẫn: can thiệp
nhân đạo và sự đồng ý của quốc gia liên quan. Can thiệp nhân đạo (humanitarian
intervention) có thể hiểu là việc một quốc gia sử dụng vũ lực để can thiệp vào một
quốc gia khác nhằm mục đích loại trừ một thảm họa nhân đạo ở quốc gia bị can thiệp.
Cách thức áp dụng và những điều kiện cụ thể để viện dẫn can thiệp nhân đạo gần đây
được nêu trong quan điểm pháp lý của Chính phủ Anh về khả năng sử dụng vũ lực
chống lại Syria khi có cáo buộc nước này sử dụng vũ khí hóa học năm 2013. Theo tài 15
liệu quan điểm này, can thiệp nhân đạo có thể được tiến hành và tiến hành hợp pháp
theo luật pháp quốc tế, nếu thỏa mãn 03 điều kiện:
Có bằng chứng thuyết phục, được toàn thể công đồng quốc tế công nhận rộng
rãi về sự tồn tại của thảm họa nhân đạo cần thiết phải được loại trừ ngay;
Hoàn cảnh của vụ việc rõ ràng và khách quan là không có bất kỳ biện pháp thay
thế nào ngoài sử dụng vũ lực – sử dụng vũ lực là biện pháp cuối cùng khả thi; và
Việc sử dụng vũ lực ở mức cần thiết tối thiểu và tương xứng để loại trừ thảm họa nhân đạo đó.
Nếu nhìn qua mục đích và điều kiện tiến hành can thiệp nhân đạo, chúng ta có
thể sẽ gật đầu với nhau về tính chính đáng của can thiệp nhân đạo và nghĩ rằng luật
pháp quốc tế nên ghi nhận ngoại lệ này vì sự tốt đẹp chung của nhân loại và nhân
phẩm của con người. Tuy nhiên, một quy định tốt cần phải, inter alia, không thể bị lạm
dụng. Quy định về can thiệp nhân đạo như trên nhìn ban đầu có vẻ chặt chẽ và hợp lý
nhưng khả năng bị lạm dụng vẫn tồn tại, do thiếu cơ chế khách quan đánh giá các điều
kiện nêu trên. Ai sẽ là người đánh giá về sự tồn tại của thẩm họa nhân đạo, vũ lực là
biện pháp cuối cùng hay mức độ sử dụng vũ lực. Kể cả trong trường hợp điều kiện đầu
tiên, Chính phủ Anh rất thiện chí khi cho rằng “toàn thể cộng đồng quốc tế” là người
quyết định bằng chứng về sự tồn tại của thẩm họ; nhưng “toàn thể cộng đồng quốc tế”
là ai và có thể hiểu là tất cả, đa số 2/3 hay đa số thông thường các quốc gia? Liệu một
nước có thể dựa vào một nghị quyết được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua với
2/3 thành viên ủng hộ lên án một tình huống cụ thể nào đó để sử dụng vũ lực can thiệp
nhân đạo? Hay giống như Anh dựa vào Nghị quyết 1199 của Hội đồng Bảo an và các
báo cáo của Cơ quan Tị nạn Liên hợp quốc (UNHCR) để cho rằng toàn thể cộng đồng
quốc tế đã công nhận có thảm họa tại Kosovo? Cho đến khi các vấn đề thể chế được
giải quyết can thiệp nhân đạo sẽ không được chấp nhận rộng rãi như một quy định tập
quán quốc tế – một ngoại lệ mới của nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực.
Mặc dù, có thể tồn tại nhiều nguy cơ nguy hiểm do lạm dụng nhưng cũng
không thể không suy nghĩ khi Tổng thư ký Liên hợp quôc Kofi Anan đặt ra câu hỏi của
lương tâm rằng: “Nếu can thiệp nhân đạo được xem là một sự xâm phạm không thể
chấp nhận vào chủ quyền quốc gia, vậy làm cách nào mà chúng ta có thể xử lý những
thảm họa ở Rwanda, ở Srebrenica, và những vi phạm nhân quyền rộng lớn và có hệ
thống, xúc phạm đến tất cả các giới luật của nhân loại chúng ta nói chung?”. Khái 16
niệm Trách nhiệm bảo vệ ra đời từ đòi hỏi phải trả lời câu hỏi này mà có thể được các
quốc gia có thể chấp nhận rộng rãi hơn.
Cũng gần đây trong cuộc chiến chống Nhà nước Hồi giáo (IS) các quốc gia đã
viện dẫn một căn cứ khá mới để sử dụng vũ lực: sự đồng ý của quốc gia sở tại. Để sử
dụng vũ lực chống IS ở Iraq, Anh đã dựa vào lời mời của Chính phủ Iraq. Tương tự
như thế, Nga hiện diện quân sự ở Syria. Cả hai nước này không viện dẫn đến quyền tự
vệ tập thể để tự vệ giúp Iraq và Syria mà viện dẫn “sự đồng ý của quốc gia sở tại”
(consent of territorial State). Do đó có vẻ đây hai nước này cho rằng đây là căn cứ
tách biệt khỏi căn cứ quyền tự vệ khi bị tấn công vũ trang. Nếu đúng như thế thì có vẻ
căn cứ này rất có cơ sở theo nguyên tắc chủ quyền – quốc gia có chủ quyền và quốc
gia có thể cho phép quốc gia khác sử dụng vũ lực bên trong quốc gia của mình. Tuy
nhiên, vẫn chưa rõ ràng rằng liệu hai nước có thực sự cho rằng hành động của họ là
“sử dụng vũ lực” với ý nghĩa của nguyên tắc và Điều 2(4) hay không. Anh hạn chế sử
dụng từ “sử dụng vũ lực” mà dùng những từ thay thế như “hành động quân sự”, “sử
dụng vũ lực quân sự”. Trong khi đó Nga việc dẫn đến hỗ trợ quân sự chống lại chủ
nghĩa khủng bố tại Syria. Căn cứ khá mới này có vẻ được ủng hộ trong phán quyết Vụ
Công-gô với Uganda, Tòa ICJ đã công nhận rằng một quốc gia có thể triển khai quân
độ và thực hiện các hoạt động quân sự ở lãnh thổ nước khác, nếu có sự đồng ý của
quốc gia sở tại. Quốc gia sở tại có thể rút lại sự đồng ý của mình bất kỳ thời điểm nào
và dưới bất kỳ hình thức nào.
Chương 3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
“Cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế” và “quyền
tự vệ” được khẳng định trong Hiến chương LHQ là những nguyên tắc quan trọng nhất,
mang tính căn bản nhất về hành vi sử dụng vũ lực. Nhưng thực tế đã chứng minh, sử
dụng vũ lực vẫn là một hiện tượng thường thấy hiện nay. Cuộc chiến tranh Iraq gần
đây càng thúc đẩy hành vi sử dụng vũ lực tới đỉnh điểm. Điều này khiến chúng ta cần
phải xem xét lại vấn đề sử dụng vũ lực và luật quốc tế. Mặc dù đòi hỏi thực hiện pháp
luật quốc tế đã được ghi nhận tại khoản 2 Điều 2 Hiến chương LHQ với nguyên tắc
“Tận tâm thực hiện cam kết quốc tế” (hay còn gọi là nguyên tắc Pacta sun servanda),
nhưng vấn đề quan trọng hơn chính là việc các thành viên của LHQ phải tự giác tuân
thủ pháp luật. Lâu nay luật quốc tế vẫn bị coi là “luật mềm” bởi việc chấp hành pháp
luật trong nước luôn được bảo đảm bằng quyền lực tối cao của nhà nước là chủ quyền 17
quốc gia, còn cộng đồng quốc tế khó có một quyền lực có đủ sức mạnh tối cao như
vậy để bảo đảm việc chấp hành pháp luật quốc tế. Do đó, tự giác tuân thủ là cách bảo
đảm có hiệu quả nhất đối với luật quốc tế. Tự giác tuân thủ là một việc làm rất có ý
nghĩa trong quan hệ quốc tế, tuy nhiên trong nhiều trường hợp cần phải giám sát sự
chấp hành bởi vì đây là một biện pháp quan trọng để bảo đảm cho các cam kết quốc tế
được thực hiện. Việc giám sát chấp hành có thể chia làm hai hình thức:
Đơn phương: các nước lợi dụng ảnh hưởng quốc tế của mình, dùng ngoại giao
làm biện pháp chủ yếu thúc giục các nước khác chấp hành nguyên tắc “cấm sử dụng vũ lực”.
Đa phương: đa số các nước cùng nhau vận dụng những ảnh hưởng và sức mạnh
tập thể để yêu cầu các thành viên khác trong cộng đồng quốc tế chấp hành nguyên tắc
“cấm sử dụng vũ lực”.
Trong hai hình thức này thì hình thức đa phương mang lại hiệu quả cao hơn,
tránh được sự độc đoán của các nước lớn biểu hiện dưới hình thức đơn phương. Tuy
nhiên, biện pháp thích hợp nhất vẫn là thực hiện sự giám sát thông qua LHQ. Trong
thời gian qua Hội đồng Bảo an LHQ đã có những nỗ lực rất lớn khi thực hiện sự giám
sát đối với nguyên tắc này. Tuy nhiên trong tình hình một số siêu cường đang thực thi
chủ nghĩa bá quyền với nguyên tắc “các nước lớn nhất trí” thì vai trò của Hội đồng
Bảo an trong một số trường hợp đã không phát huy hết hiệu lực của mình khi giám sát
việc thực hiện nguyên tắc “cấm sử dụng vũ lực”. Vì vậy, hiện nay, đối với những
trường hợp tương tự, theo chúng tôi, cần phải có một tổ chức cao hơn Hội đồng Bảo
an, cụ thể là Đại hội đồng của LHQ, đứng ra tổ chức, thực hiện sứ mạng giám sát này. KẾT LUẬN
Ngày nay, trong các mối quan hệ quốc tế, với xu thế toàn cầu hóa, các quốc gia
ngày càng xích lại gần nhau, không một quyết định chính trị nào có thể trở thành niềm
hy vọng và mang ý nghĩa trong đời sống quốc tế nếu nó không được xây dựng trên cơ
sở các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Tuy nhiên vấn đề làm thế nào để nguyên tắc
đó thực sự đi vào đời sống, được chấp hành nghiêm chỉnh là vấn đề đáng quan tâm.
Do bất cứ lĩnh vực nào trong quan hệ giữa các quốc gia hiện nay đều có thể bị đe dọa
bởi việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực nên việc tuân thủ nguyên tắc
không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế là điều hết sức cần
thiết cho sự ổn định, phát triển trong hòa bình an ninh của thế giới ngày nay. 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Công pháp quốc tế. Đại học Luật Hà Nội. NXB Công an nhân dân.
Luật Quốc tế, lí luận và thực tiễn. Ths. Trần Văn Ánh, Ths. Lê Mai Anh. NXB Giáo dục.
PGS.TS. Bành Quốc Tuấn. Giáo trình Công pháp quốc tế. Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
Hiến chương Liên hợp quốc 1945.
Dự án nghiên cứu về Luật Công pháp quốc tế tại Việt Nam https://iuscogens-vie.org/
Vụ Nicaragua vs Mỹ: Tòa ICJ trích lại nội dung của Tuyên bố về các nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế năm 1970, Nghị quyết 2625. 19