Tiểu luận ''Những thay đổi của giai cấp công nhân và ảnh hưởng của sự thay đổi đó đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay''

Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội khoa học với đề tài: Những thay đổi của giai cấp công nhân và ảnh hưởng của sự thay đổi đó đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay của Học viện Báo chí và Tuyên truyền giúp bạn tham khảo và hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học
ĐỀ TÀI
:
NHỮNG THAY ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ THAY ĐỔI ĐÓ
GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện :
Lớp :
Hà Nội, ngày 8 tháng 6 năm 2021
lOMoARcPSD| 36237285
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN
VỀ GCCN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN 2
1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân 2
1.2. Đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân 5
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân 8
Chương 2: NHỮNG THAY ĐỔI CỦA GCCN HIỆN NAY ẢNH
HƯỞNG ĐÓ ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA
GCCN HIỆN NAY 9
2.1. Sự phát triển và thay đổi của GCCN hiện nay 9
2.2. Những ảnh hưởng của thay đổi của GCCN hiện nay đến việc
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTB Chủ nghĩa tư bản
CNXH Chủ nghĩa xã hội
GCCN Giai cấp công nhân
TBCN Tư bản chủ nghĩa
XHCN Xã hội chủ nghĩa
thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN hiện nay
13
2.3. Liên hệ với GCCN Việt Nam
16
KẾT LUẬN
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
17
lOMoARcPSD| 36237285
1
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Công nhân giai cấp lãnh đạo cách mạng, lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp CNH, HĐH mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để tiếp
tục phát triển đất nước theo hướng XHCN, cùng với việc phát triển nền kinh tế trí
thức thì sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với mỗi quốc gia đều đóng
vai trò vô cùng quan trọng.
Vậy nên, việc nghiên cứu những biến đổi của GCCN hiện nay ảnh hưởng
của nó đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử mang tính cấp thiết trong giai đoạn đất
nước đang phát triển hiện nay.
II. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Quá trình biến đổi của GCCN ảnh hưởng của quá
trình đó đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử.
Khách thể nghiên cứu: GCCN qua các thời kỳ thay đổi và phát triển.
III. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Mục tiêu: Trên cơ sở hệ thống hóa làm một số vấn đề luận và thực
trạng, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho đội
ngũ công nhân đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, đồng thời
hoàn thành những sứ mệnh lịch sử.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm các khái niệm, đặc điểm, nội dung của
giai cấp cho công nhân; những thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay;
những ảnh hưởng của việc thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay đến
sứ mệnh lịch sử của GCCN hiện nay.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN
2
VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân:
Thuật ngữ giai cấp dùng để chỉ một nhóm hội các thành viên vị trí
tương đương nhau trong một cơ cấu bất bình đẳng khách quan về vật chất do một
hệ thống những quan hệ kinh tế đặc trưng cho một phương thức sản xuất cụ thể
tạo ra. Theo C.Mác, chuẩn mực chủ yếu của sự phân chia giai cấp xã hội là quan
hệ đối với tư liệu sản xuất, có sở hữu về tư liệu sản xuất hay không, là vai trò đối
với quá trình sản xuất - quản lý quá trình đó hay bị quản lý quá trình đó, là cách
phân chia kết quả sản xuất - cách phân phối và hưởng thụ sản phẩm xã hội. Với
những chuẩn mực kinh tế ấy, các giai cấp những dấu hiệu hội chính trị
khác nhau như lối sống, địa vị xã hội, văn hóa, ý thức…
Và, theo Lênin, “Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn, những tập
đoàn này khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định
trong lịch sử, khác nhau về quan hcủa họ (thường thì những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của h
trong tchức lao động xã hội, như vậy khác nhau về cách thức hưởng thụ
về phần của cải ít hoặc nhiều họ được hưởng. Giai cấp những tập đn
người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do ch
các tập đoàn địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế hội nhất định” [1,
tr.17-18].
Về khái niệm công nhân, theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, đó
người lao động phổ thông, theo nghĩa rộng, là người kiếm sống bằng cách làm
việc thể xác (lao động chân tay), bằng cách của mình - cung cấp lao động để lãnh
tiền công (tiền lương) của chủ nhân (người sử dụng lao động), để nỗ lực tạo ra sản
phẩm cho người chủ và thường được thuê với hợp đồng làm việc (giao kèo) để
thực hiện các nhiệm vụ cụ thể được đóng gói vào một công việc hay chức năng.
lOMoARcPSD| 36237285
3
Với sự ra đời của công nghệ tiên tiến việc thành lập các công ty, tập
đoàn, công nhân ngày nay thường là thành phần lao động trong những xí nghiệp,
nhà máy, công ty làm công ăn lương. Người công nhân cũng thường kết hợp
thành các Công đoàn hoặc nghiệp đoàn độc lập để bảo vệ quyền lợi của mình.
Luật pháp nhiều quốc gia cũng có nhiều quy định cụ thể đẻ bảo vệ quyền lợi công
nhân. Trong hầu hết các nền kinh tế hiện đại, thuật ngữ "nhân viên", "công nhân"
đề cập đến một mối quan hệ được xác định cụ thể giữa một cá nhân và một công
ty, mà khác với những khách hàng tiêu dùng.
Về khái niệm GCCN, chủ nghĩa Mác - Lênin đã diễn đạt quan niệm về
GCCN dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trong các tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của ghen”
(1844), “Tình cảnh những người lao động ở Anh” (1844-1845), “Những nguyên
lý của chủ nghĩa cộng sản” (1847), “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” (1848)... C.
Mác Ph. Ăngghen đã dùng các từ “giai cấp công nhân”, “giai cấp sản”, “giai
cấp sản công nghiệp”, “giai cấp sản hiện đại”, “giai cấp công nhân hiện
đại”, “giai cấp vô sản công nghiệp”, “giai cấp công nhân công xưởng, nhà máy”,
“giai cấp công nhân đại cơ khí”. Những từ đồng nghĩa này chỉ là sự khác nhau về
hình thức biểu đạt trong những văn cảnh cụ thể của một khái niệm - GCCN.
Những diễn đạt nêu trên về GCCN của các nhà kinh điển được đặt trong
hoàn cảnh lịch sử từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, trên sở hai tiêu
chí để phân định GCCN với các giai tầng xã hội khác. Đó là:
Thứ nhất, về phương thức sản xuất: GCCN là tập đoàn người lao động trực
tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất tính chất công nghiệp ngày
càng hiện đại hội hóa cao. Đối với C. Mác Ph. Ăngghen, khái niệm
“GCCN” “giai cấp sản” đồng nghĩa với nhau, đấy tập đoàn người, bao
gồm những người công nhân công xưởng, là sản phẩm của nền đại công nghiệp
và phát triển cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. sản phẩm của nền đại
công nghiệp nên GCCN là hiện thân của lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại, đi
4
biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, do đó, những phẩm chất riêng
mà không có giai tầng nào có được. Đó là tính tiên tiến, hiện đại; ý thức tổ chức
kỷ luật cao; tác phong công nghiệp; tinh thần khoa học và thái độ cách mạng triệt
để; tinh thần quốc tế cao cả và trong sáng.
Thứ hai, vvị ttrong quan hệ sản xuất TBCN: GCCN, do không
liệu sản xuất nên “Những công nhân ấy, buộc phải tbán mình để kiếm ăn từng
bữa một, một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ n hàng
nào khác; thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống
của thị trường với mức độ như nhau
[2, tr.605].
Phát triển học thuyết của C. Mác và Ph. Ănghen trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa cách mạng sản, đặc biệt trong quá trình xây dựng CNXH hiện thực,
Lênin bổ sung những thuộc tính mới của GCCN. Theo Lênin, sự phân chia giai
cấp trong hội phải phụ thuộc vào địa vị sự khác nhau của các tập đoàn người
trong quan hệ đối với chế độ sở hữu tư liệu sản xuất, sự khác nhau trong quan hệ
đối với quản sản xuất sự khác nhau trong quan hệ phân phối sản phẩm. Trong
tác phẩm “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga”, “Nhà nước và cách mạng”,
“Kinh tế chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”, dựa vào những đặc trưng
trên và xét vai trò của GCCN trong cách mạng xã hội, Lênin đưa ra định nghĩa về
GCCN: là giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn xã hội trong cuộc
đấu tranh lật đổ ách tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội mới, trong toàn bộ
cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp.
Đảng ta đã kế thừa các luận điểm bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về
GCCN, gắn với thực tiễn thời đại ngày nay, đđưa ra các khái niệm về GCCN.
Đến Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta đã ban
hành Nghị quyết về xây dựng GCCN Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH, trong đó, Đảng xác định:
“Giai cấp công nhân Việt Nam một lực lượng hội to lớn, đang phát
triển, bao gồm những người lao động chân tay trí óc, làm công hưởng lương
lOMoARcPSD| 36237285
5
trong các loại hình sản xuất kinh doanh dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất
kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” [3, tr.43].
Khái niệm về GCCN Việt Nam này, nói chung, phù hợp với quan điểm
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với những đặc
điểm của thời đại của đội ngũ công nhân nước ta trong điều kiện đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập
quốc tế.
1.2. Đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân:
- Giai cấp công nhân là sản phẩm của đại công nghiệp:
Trong thời đại cách mạng xã hội lần thứ ba, sphát triển mạnh mẽ của
phương thức sản xuất, đặc biệt của lực lượng sản xuất đại công nghiệp đã
tạo nên một hệ quả kép. Một mặt, đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa không ngừng
tạo ra một lực lượng sản xuất có trình độ công nghệ, kỹ thuật ngày càng hiện đại,
với tính chất hội ngày càng cao. Mặt khác, nền đại ng nghiệp ấy không ngừng
sản sinh ra một cơ cấu xã hội – giai cấp mới, trong đó sự thống nhất và đấu tranh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản ngày càng trở thành quan hệ bản
nhất, chi phối sự vận động, biến đổi đời sống chính trị của xã hội hiện đại. Theo
hệ quả thứ nhất, các điều kiện và tiền đề kinh tế - xã hội, văn hóa - xã hội cho sự
ra đời của một hình thái kinh tế - hội mới - cộng sản chủ nghĩa, ngày càng chín
muồi. Theo hệ quả thứ hai, giai cấp công nhân ngày càng trở thành giai cấp trung
tâm, đủ sức để thực hiện bước chuyển cách mạng của nhân loại lên một hình thái
kinh tế - xã hội cao hơn - hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong hình thái kinh tế - hội tư bản chủ nghĩa, sự phát triển ngày càng
mạnh mẽ của nền đại ng nghiệp, của cách mạng khoa học - công nghiệp, của
cách mạng khoa học - công nghệ, một cách khách quan, đã làm gia tăng tính chất
gay gắt của mâu thuẫn bản của hội - mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
được xã hội hóa ngày càng cao, có trình độ công nghệ và kỹ thuật ngày càng hiện
6
đại với chế độ shữu tư bản chủ nghĩa. Đến lượt nó, mâu thuẫn kinh tế - hội
này của nền sản xuất hiện đại, lại tác động và làm gay gắt thêm mâu thuẫn chính
trị - xã hội của hai giai cấp cơ bản, đối lập nhau, được sản sinh ra và được trưởng
thành từ chính sự phát triển của sản xuất và kinh tế - giai cấp công nhân với giai
cấp tư sản.
Trong sự thống nhất và đối lập ấy, giai cấp tư sản đại diện cho quan hệ sản
xuất dựa trên chế độ sở hữu nhân, quan hệ sản xuất trên đó xây dựng
phát triển toàn bộ hthống kiến trúc thượng tầng tương ứng. Chế độ xã hội ấy, về
bản chất luôn phương tiện công cụ bản nhất duy trì bảo vệ địa vị thống
trị của giai cấp sản đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động toàn
hội. Cũng trong sự thống nhất và đối lập ấy, giai cấp công nhân đại diện cho một
phương thức sản xuất mới, tiến bộ, mà những tiền đề cơ bản của phương thức sản
xuất ấy đã, đang hình thành, được chín muồi từ chính chủ nghĩa bản. Với ý
nghĩa trên đây, ta thể nhận thấy rằng, giai cấp sản, “không những đã rèn
những vũ khí sẽ giết mình, nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy”. Những
kết luận khoa học ấy được xuất phát từ chỗ chủ nghĩa cộng sản hình thành từ
chủ nghĩa bản, phát triển lên trong quá trình lịch sử,… kết quả của sự tác
động của một giai cấp ng nhân –“lực lượng xã hội do chủ nghĩa bản sinh ra”.
- Giai cấp công nhân giai cấp lợi ích chính trị bản đối lập
vớigiai cấp tư sản:
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của nền đại công nghiệp tư
bản chủ nghĩa, như ta đã thấy, không ngừng sản sinh ra giai cấp công nhân hiện
đại, lực lượng sản xuất hàng đầu, cách mạng nhất của xã hội hiện đại. Sự đối lập
giữa giai cấp sản thống trị, đại biểu cho quan hệ sở hữu nhân với giai cấp
công nhân, đại biểu của lực lượng sản xuất trình độ công nghệ kỹ thuật hiện
đại, tính chất hội cao, ngày càng trở nên gay gắt. Giai cấp công nhân trở
thành giai cấp sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa
xã hội chủ nghĩa cộng sản. Điểm đồng nhất giữa các giai cấp có sứ mệnh lịch
lOMoARcPSD| 36237285
7
sử trong các thời đại cách mạng trước với giai cấp công nhân thể hiện ở chỗ đều
những giai cấp đại diện cho một phương thức sản xuất mới đang ra đời trong
lòng hình thái kinh tế - hội đã lỗi thời, đều là những giai cấp có lợi ích chính
trị đối lập với giai cấp thống trị trong hội đã lỗi thời, của những hình thái
kinh tế - xã hội đã lỗi thời ấy. Điểm khác biết căn bản ở đây chính là ở chỗ, trong
các thời đại cách mạng trước, cả giai cấp quý tộc chúa đất và giai cấp tư sản đều
là các giai cấp đại diện cho những phương thức sản xuất mới, dựa trên cơ sở chế
độ sở hữu nhân đại diện của một phương thức sản xuất dựa trên chế độ sở
hữu xã hội (công hữu) đối với các tư liệu sản xuất và là giai cấp bị bóc lột cơ bản
của chủ nghĩa tư bản.
- Giai cấp công nhân lợi ích chính trị thống nhất về bản với
nhândân lao động và toàn xã hội:
Trong chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn chính trị bản mâu thuẫn đối
kháng trong hội đó mâu thuẫn giữa giai cấp sản với giai cấp công nhân.
Hơn nữa, đó còn là mâu thuẫn giữa một bên là đại quần chúng nhân dân lao động
với một bên là chế độ tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó là nguyên nhân cơ bản của
những cuộc nổi dậy, đấu tranh chống lại ách áp bức của giai cấp sản. Đấu tranh
nhằm lật đổ ách áp bức thống trị của giai cấp sản nhu cầu bản, thường
trực không chỉ của giai cấp công nhân, còn của đông đảo các giai cấp
tầng lớp lao động của xã hội. Đây chính điểm tương đồng, sthống nhất căn
bản về lợi ích chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, tầng lớp trí
thức, các tầng lớp hội khác trong xã hội. Chính sthống nhất lâu dài căn
bản về lợi ích chính trị ấy đã làm nên skhác biết về chất, căn bản trong nội dung,
tiến trình động lực thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân với sứ
mệnh lịch sử của giai cấp quý tộc chúa đất và giai cấp tư sản.
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân
8
C.Mác Ph.Ăngghen đã chỉ ra lực lượng xã hội to lớn giai cấp công
nhân, giai cấp có khả năng tổ chức, lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong
là Đảng Cộng sản nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, ch
nghĩa cộng sản trong phạm vi từng quốc gia, dân tộc trên phạm vi toàn thế giới.
Hai ông đề cập đến mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và nền đại công nghiệp,
khẳng định giai cấp công nhân vừa sản phẩm vừa chủ thể của nền công nghiệp
hiện đại, giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương thức sản
xuất tiên tiến. Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới
ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại.
Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân xuất phát từ bản chất
quốc tế, với stồn tại “có tính lịch sử thế giới” của giai cấp sản. Ngay trong
tác phẩm Hệ tưởng Đức, C.Mác Ph.Ăngghen đã khẳng định: Như vậy giai
cấp vô sản chỉ có thể tồn tại trên quy mô của ìịch sử thế giởi, cũng như chủ nghĩa
cộng sản, tức là hoạt động của giai cấp sản, hoàn toàn chỉ có thể tồn tại được
với tư cách là một tồn tại “có tính lịch sử thế giới”.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân một tất yếu khách quan, nhưng
để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân
tố chủ quan của giai cấp công nhân. Trong những nhân tố chủ quan đó, việc thành
lập Đảng Cộng sản, một Đảng trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của
dân tộc, vững mạnh về chính trị, tư tưỏng và tổ chức là nhân tố” giữ vai trò quyết
định nhất, bảo đảm cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
V.I.Lênin kế thừa và phát triển những luận điểm khoa học, cách mạng của
C.Mác và Ph.Ăngghen vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi chủ nghĩa tư bản
đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, ông tiếp tục khẳng định vai trò, sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, đồng thời bổ sung, phát triển
thêm nhiều luận điểm quan trọng, ông đã đưa ra nhiều luận điểm có giá trị, khẳng
định: Lực lượng sản xuất của toàn thể nhân loại là công nhân, rằng giai cấp công
nhân đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất.
lOMoARcPSD| 36237285
9
V.I.Lênin nêu quan niệm vể sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong
điều kiện mối; là giai cấp thống trị về mặt chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn xã hội
trong cuộc đấu tranh chống lại sự bóc lột của tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra
hội mối, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp.
V.LLênin kế thừa những tưỏng của C.Mác, Ph.Ăngghen, tiếp tục phát triển học
thuyết về chính đảng kiểu mối của giai cấp công nhân trong điều kiện giai cấp
công nhân đã giành được chính quyền.
CHƯƠNG II: NHỮNG THAY ĐỔI CỦA GCCN HIỆN NAY
ẢNH HƯỞNG ĐÓ ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH
SỬ CỦA GCCN HIỆN NAY
2.1. Sự phát triển và thay đổi của GCCN hiện nay:
2.1.1. Sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại làm phát triển về số
lượng và thay đổi về quy mô của giai cấp công nhân:
Đại công nghệ cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay
quá trình phát triển tất yếu của hội loài người, con đường duy nhất đưa
các quốc gia nông nghiệp, kém phát triển thoát khỏi nguy tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vức trên thế giới. Bên cạnh đó, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa còn quá trình tạo ra scho sự phát triển về tốc độ số
lượng đội ngũ giai cấp công nhân. Công nhân chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong
dân do quá trình phát triển thêm nhiều ngành mới, tạo thêm nhiều việc làm mới
và phát triển nhanh lực lượng sản xuất.
Trong điều kiện toàn cầu hóa hội nhập quốc tế hiện nay, tính tập trung
về quy của công nhân không còn giống như trước đây. Công nhân các
nghiệp quy lớn giảm nhiều, xu hướng phân tán về các nghiệp quy
vừa, nhỏ và làm việc tại gia đình. Tính chất xã hội hóa của lao động công nghiệp
cũng nhiều biểu hiện mới: sản xuất công nghiệp trong toàn cầu hóa kinh tế
đang mở rộng thành “chuỗi toàn cầu”; quá trình sản xuất một sản phẩm phải liên
10
kết nhiều công đoạn của nhiều vùng, miền, quốc gia khác nhau. Liên kết trong sản
xuất hiện đại, bên cạnh những hình thức như phối hợp theo dây chuyền, tổ chức
theo nhóm đã xuất hiện những hình thức mới như: “xuất khẩu lao động tại chỗ”,
“làm việc tại nhà”, “nhóm chuyên gia quốc tế”, quốc tế hóa các tiêu chuẩn sản
xuất công nghiệp… Theo đó, tính hội của lao động hiện đại đang được mở rộng
và nâng cao. Điều đó càng làm cho giai cấp công nhân phát triển nhanh chóng về
số lượng và quy mô.
2.1.2. Sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại và sự biến đổi về cơ
cấu của giai cấp công nhân:
Hiện nay, công nhân mặt trong các ngành nghề, các thành phần, lĩnh vực
kinh tế, các loại hình sở hữu ở các loại nước; cơ cấu giai cấp công nhân hiện nay
khác xa so với cấu giai cấp công nhân thế kỷ XIX, nhất các nước bản
phát triển. Giai cấp công nhân không chỉ mặt trong các ngành công nghiệp
truyền thống, còn hiện diện ngày càng tăng trong các ngành sản xuất mới, nhất
ngành công nghiệp trí tuệ. Tỷ trọng của bộ phận công nhân trong các ngành
công nghiệp truyền thống, công nhân trong khu vực sản xuất vật chất ngày càng
giảm. Trái lại, công nhân trong các ngành nghề mới như: điện tử, tin học, hàng
không, dịch vụ công nghiệp… tăng lên nhanh chóng.
Sự phân hóa về thu nhập trong nội bộ giai cấp công nhân đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ. Số công nhân có mức sống trung lưu tăng lên, một bộ phận công
nhân cổ phần được “trung lưu” hóa. Về mặt hình thức, họ không còn “vô
sản” nữa và có mức sống cao hơn trước đây, nhưng thực chất, ở các nước tư bản,
do công nhân không chiếm được tỷ lệ cổ phẩn cao, nên quá trình sản xuất và phân
chia lợi nhuận vẫn do những cổ đông lớn quyết định. Việc làm, lao động đời
sống của công nhân hiện đại vẫn lệ thuộc vào giai cấp sản. Quyền định đoạt
quá trình sản xuất, phân phối lợi nhuận vẫn thuộc về giai cấp tư sản.
2.1.3. Sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại từng bước nâng cao
chất lượng giai cấp công nhân:
lOMoARcPSD| 36237285
11
Cùng với sự phát triển về số lượng, sự thay đổi về quy cấu, sự
phát triển của nền công nghiệp hiện đại càng đẩy nhanh quá trình hội hóa, hiện
đại hóa lực lượng sản xuất và do đó chất lượng của giai cấp công nhân ngày càng
tăng lên. Sản xuất và dịch vụ hiện đại đòi hỏi người lao động phải hiểu biết sâu
rộng về tri thức và kỹ năng nghề nghiệp. Chính tri thức một động lực bản
cho việc gia tăng năng suất lao động cạnh tranh toàn cầu. là yếu tố quyết
định trong quá trình phát minh, sáng chế và tạo ra của cải cho xã hội. Công nhân
được đào tạo chuẩn mực thường xuyên được đào tạo lại theo các chu kỳ thay
đổi công nghệ. Hao phí lao động hiện đại chủ yếu là hao phí về trí lực, chứ không
phải là sự thuần túy về sự mệt mỏi cơ bắp. Bên cạnh những nhu cầu về vật chất,
nhu cầu tinh thần, văn hóa của công nhân ngày càng cao hơn và đa dạng hơn.
Đặc biệt, đội ngũ công nhân lao động trí tuệ tăng nhanh, đa số công nhân
có trình độ học vấn, văn hóa và tay nghề cao. Người công nhân không hoàn toàn
sản như trước đây một bộ phận công nhân có quyền sỏ hữu tư liệu sản xuất ở
một chừng mực nhất định; đòi sống vật chất tinh thần ngày càng được nâng
cao. Do sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đòi hỏi đội n
công nhân ngày nay trí tuệ ngày càng cao. Trong những dây chuyền sản xuất
hiện đại, lao động trí tuệ của người công nhân nhiều hơn lao động cơ bắp.
Trong các nước tư bản chủ nghĩa, quá trình xã hội hóa và hiện đại hóa lực
lượng sản xuất càng làm cho mâu thuẫn kinh tế và xã hội ngày càng gay gắt.
Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chông lại sự bóc lột thống trị
của giai cấp sản càng phát triển thì giai cấp công nhân càng trưởng thành về
chính trị, tư tưỏng và tổ chức. Sự trưởng thành của giai cấp công nhân về ý thức,
trình độ, năng lực đấu tranh cách mạng, là một trong những điều kiện quan trọng
cho việc nhận thức thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của nó. Nhìn chung,
đội ngũ công nhân ngày càng được “trí thức hóa”, tức được nâng cao ý thức chính
trị, ý thức pháp luật, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghề nghiệp tay
12
nghề, năng lực cải tiến công cụ lao động trong quá trình sản xuất... Đó một thực
tế khách quan của quá trình phát triển của giai cấp công nhân.
Dưói góc độ khái quát chung nhất thể hiểu; trí thức hoá giai cấp công
nhân là quả trình nâng nhận thức năng lực thực tiễn của công nhân lên một
trình độ cao, qua đó đem lại chất lượng mới cho sự phát triển giai cấp công nhân,
xứng đáng vói vị trí tiên phong, lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với xã hội.
Dưới góc độ của các quá trình cụ thể thì: trí thức hoá giai cấp công nhân là
quá trình khách quan gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp;
là quá trình tăng lên mối quan hệ trực tiếp và xích lại gần nhau giữa giai cấp công
nhân với tầng lớp tthức trong hoạt động thực tiễn; quá trình tạo ra sự thay đổi
căn bản và toàn diện về tri thức, năng lực vận dụng tri thức và năng lực tham gia
sáng tạo của công nhân trong hoạt động thực tiễn nói chung trong lao động với
công nghệ, phương tiện phương pháp tiên tiến, hiện đại nói riêng để đạt năng
suất lao động hiệu quả hoạt động hội cao. Từ đó thể thấy rằng, trí thức
hóa giai cấp công nhân là một quá trình tất yếu khách quan, quá trình nâng cao
trình độ toàn diện của giai cấp công nhân vmọi mặt do đó quá trình làm
tăng lên khả năng hoàn thành sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân
trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại, và toàn cầu hóa hiện nay.
2.2. Những ảnh hưởng của thay đổi của GCCN hiện nay đến việc thực
hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN hiện nay
2.2.1. Thực hiện nội dung kinh tế - kỹ thuật của sứ mệnh lịch
sử
C. Mác khẳng định, giai cấp công nhân chủ thể của phương thức sản xuất
công nghiệp với các đặc tính: công cụ lao động máy móc, năng suất lao động
cao, lao động có tính chất xã hội hóa cao và gợi mở nhiều giải pháp tích cực cho
quá trình phát triển xã hội. Chính từ quá trình sản xuất vật chất bằng phương thức
lOMoARcPSD| 36237285
13
công nghiệp, giai cấp ng nhân được xác định giai cấp quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội hiện đại và thông qua đó, chuẩn bị những tiền đề vật chất
cho xã hội tương lai.
Hiện nay, người ta nói nhiều đến vấn đề giảm dần nhu cầu về lao động giản
đơn, tăng lao động trình độ cao nhưng chưa chú ý đến khả năng tiếp cận giáo dục
- dạy nghề cũng tăng lên dễ dàng hơn với đa số. Người lao động hiện đại dễ
dàng hơn trong việc học tập để nâng cao tay nghề mở rộng khả năng chuyển
đổi nghề nghiệp trước những thách thức về việc làm do Cách mạng công nghiệp
4.0 đặt ra.
Kiến thức, kỹ năng lao động hiện đại đang xu hướng hội hóa. Máy
tính, điện thoại thông minh, các kho dữ liệu khổng lồ có thể dễ dàng tiếp cận với
chi phí thấp, các trường đại học, cao đẳng với nhiều chương trình đào tạo từ xa…
những điều kiện thuận lợi để người lao động bình thường có thể học tập tự
học để nâng cao trình độ chuyên môn thông qua cơ sở của truyền thông số.
Nhu cầu của thị trường sức lao động hiện đại vừa đặt ra yêu cầu cao về chất
lượng của nguồn nhân lực, vừa nâng cao vị thế của người lao động. Khi đã có một
trình độ tương đương với nhu cầu của thị trường, vị thế của người công nhân cũng
khác trước khi thương lượng với người sử dụng lao động về giá cả của hàng hóa
sức lao động. Trong điều kiện mới, khả năng tự bảo vệ của người lao động đã
được tăng lên.
Sự biến đổi cấu tạo hữu cơ tư bản thay đổi cũng đang làm rõ xu thế xã hội
hóa lực lượng sản xuất. Tri thức khoa học công nghệ vai trò lớn trong sản
xuất đang tạo ra một thay đổi quan trọng: tư bản khả biến tăng nhanh, tư bản bất
biến giảm tương đối trong tỷ lệ cấu thành giá trị của hàng hóa. Vai trò to lớn của
tri thức, tay nghề, văn hóa, kinh nghiệm của người công nhân trong sản xuất công
nghiệp đang từng bước phá vỡ chế chiếm hữu của giai cấp sản, vốn bắt
nguồn từ độc quyền sở hữu liệu sản xuất, độc quyền chiếm đoạt giá trị thặng
dư.
14
Máy móc, công nghệ sẽ vẫn tiếp tục đóng vai trò “những nhà cách mạng”
thầm lặng. Chính xu hướng “tích hợp, hội tụ của thế giới vật chất, thế giới số
con người” quy định thúc đẩy hội phải phát triển khác đi. buộc con người
trong quá trình sản xuất hiện đại không chỉ chú ý đến lợi nhuận, hiệu quả kinh tế
mà còn phải quan tâm đến nhiều khía cạnh khác của phát triển bền vững.
2.2.2. Thực hiện nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch
sử:
Nội dung chính trị - hội của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được
xác định là cuộc đấu tranh vì các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, như công bằng,
bình đẳng, dân chủ… tập trung nhất việc xác lập chế độ chính trị - hội
mới do giai cấp công nhân lãnh đạo - chế độ hội chủ nghĩa để tạo ra tiền đề
chính trị cho xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo hội làm nổi bật các
nội dung sau: Dân chủ hóa - công nghệ số góp phần mở rộng truyền thông, tạo
điều kiện để thông tin đến với mọi người, qua đó phát triển dân chủ. Với những
nước phát triển, thông qua thành tựu khoa học - công nghệ, người dân điều
kiện tốt hơn để giám sát và chia sẻ quyền lực với nhà nước đương trị. Công nghệ
và thiết bị ngày càng cho phép người dân tiếp cận gần hơn với chính phủ để nêu
ý kiến, để cùng phối hợp hoạt động. Đồng thời, các chính phủ cũng sở hữu sức
mạnh về công nghệ để tăng cường sự quản trị của mình đối với người dân dựa
trên những hệ thống giám sát rộng rãi và khả năng điều khiển kết cấu hạ tầng số.
Cách mạng công nghiệp 4.0 với những tiền đề tạo ra sẽ cho thấy
những bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Hiện nay, hầu hết các quốc
gia đang phát triển theo định hướng hội chủ nghĩa đều rất quan tâm quyết
tâm mạnh mẽ hướng tới Cách mạng công nghiệp 4.0. Đây cũng một con đường
để phát triển rút ngắn, để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
2.2.3. Thực hiện nội dung văn hóa - xã hội của sứ mệnh lịch
sử:
lOMoARcPSD| 36237285
15
Trên bình diện thế giới hiện nay, hòa bình, hợp tác cùng phát triển trong
môi trường dân chủ, công bằng, bình đẳng đang là xu thế lớn. Xu thế ấy tạo điều
kiện thuận lợi cho Cách mạng công nghiệp 4.0 và cả sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân.
Cách mạng công nghiệp 4.0 một thành tựu của văn minh, có những đóng
góp, bổ sung vào nhận thức duy vật lịch sử về các vấn đề trong phát triển.
phương diện xã hội, sát cánh cùng giai cấp sản xuất ra của cải vật chất - giai cấp
công nhân. Hệ giá trị của giai cấp công nhân theo đó có thể được bổ sung những
giá trị tuy khá đặc thù nhưng gần gũi của các tầng lớp khác như trí thức nhóm xã
hội coi sáng tạo, dân chủ như điều kiện môi trường để lao động và phát triển.
2.3. Liên hệ với GCCN Việt Nam
Trong suốt những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam đã khẳng định
được via trò của mình, xứng đáng là bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, tiếp
tục lấy chủ nghĩa Mác Lênin tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tư tưởng.
Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham gia giải quyết các vấn đề thu hút
sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng thế giới nói chung. Các vấn đề
đó có tính thời sự cao như dân số, môi trường, văn hóa, năng lượng, lương thực,..
Giai cấp công nhân lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế đ
hội chủ nghĩa, không chấp nhận chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị.
Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
Giai cấp công nhân lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống
tiêu cực, tham nhũng, tệ ạn hội, lực lượng chính trị – hội quan trọng trong
việc bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự hội, xây dựng nền quốc
phòng toàn dân.
Giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lịch sử như sau:
16
Một là, xóa bỏ chế đbản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng,
giải phóng nhân dân lao động toàn thể nhân loại khỏi sáp bức, bóc lột, xây
dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hai là, phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa công nhân”,
nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào sản xuấ nhằm tăng năng suất, chất
lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời
kỳ mới.
KẾT LUẬN
Cách mạng công nghiệp 4.0 một thành tựu của văn minh nhân loại,
những đóng góp, bổ sung vào nhận thức duy vật lịch sử về các vấn đề trong phát
triển của xã hội. Ở phương diện xã hội, sát cánh cùng giai cấp công nhân sản xuất
ra của cải vật chất ngày càng lớn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
Bên cạnh đó, giai cấp công nhân, đang xuất hiện ngày càng đông đảo trình độ
ngày càng nâng cao, cơ cấu, phân tầng sâu sắc. ng với sự phát triển của Cách
mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế sáng tạo, giai cấp công nhân ngày càng chiếm vị
trí chủ đạo trong lực lượng lao động hội, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân những thay đổi trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, vai trò vị trí tiên phong
trong thực hiện sứ mệnh lịch scủa giai cấp công nhân không giai cấp nào thay
thế được. Chính vậy, em hy vọng bài tiểu luận của em góp phần giúp mỗi
nhân nhận thức được vị trí, vai ttrò trách nhiệm hội của bản thân, luôn cố
gắng vươn lên học tập rèn luyện, bản lĩnh chính trị vững vàng, chinh phục khoa
học, làm chủ công nghệ, tăng năng suất lao động góp phần thực hiện mục tiêu xây
dựng đất nước văn minh, giàu mạnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
lOMoARcPSD| 36237285
17
2. Học viện Báo chí Tuyên truyền (2012), Tập Kỷ yếu hội thảo
khoahọc: “Một số quan điển cơ bản của C. Mác, Ph. Ăng ghen, V. I. Lênin và Hồ
Chí Minh về công tác tư tưởng”, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2012), Giáo trình Chủ nghĩa xã
hội khoa học, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
5. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2014), Giáo trình Học thuyết sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
| 1/19

Preview text:


Học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học
ĐỀ TÀI : NHỮNG THAY ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ THAY ĐỔI ĐÓ
ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA
GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện : Lớp :
Hà Nội, ngày 8 tháng 6 năm 2021 lOMoAR cPSD| 36237285 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN
VỀ GCCN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN 2
1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân 2
1.2. Đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân 5
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân 8
Chương 2: NHỮNG THAY ĐỔI CỦA GCCN HIỆN NAY VÀ ẢNH
HƯỞNG ĐÓ ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN HIỆN NAY 9
2.1. Sự phát triển và thay đổi của GCCN hiện nay 9
2.2. Những ảnh hưởng của thay đổi của GCCN hiện nay đến việc
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNH, HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN hiện nay 13
2.3. Liên hệ với GCCN Việt Nam 16 KẾT LUẬN 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO 17 CNTB Chủ nghĩa tư bản CNXH Chủ nghĩa xã hội GCCN Giai cấp công nhân TBCN Tư bản chủ nghĩa XHCN Xã hội chủ nghĩa lOMoAR cPSD| 36237285 1 MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp CNH, HĐH vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để tiếp
tục phát triển đất nước theo hướng XHCN, cùng với việc phát triển nền kinh tế trí
thức thì sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với mỗi quốc gia đều đóng
vai trò vô cùng quan trọng.
Vậy nên, việc nghiên cứu những biến đổi của GCCN hiện nay và ảnh hưởng
của nó đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử mang tính cấp thiết trong giai đoạn đất
nước đang phát triển hiện nay.
II. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Quá trình biến đổi của GCCN và ảnh hưởng của quá
trình đó đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử.
Khách thể nghiên cứu: GCCN qua các thời kỳ thay đổi và phát triển.
III. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Mục tiêu: Trên cơ sở hệ thống hóa làm rõ một số vấn đề lý luận và thực
trạng, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho đội
ngũ công nhân đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, đồng thời
hoàn thành những sứ mệnh lịch sử.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ các khái niệm, đặc điểm, nội dung của
giai cấp cho công nhân; những thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay;
những ảnh hưởng của việc thay đổi của giai cấp công nhân hiện nay đến
sứ mệnh lịch sử của GCCN hiện nay.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN 2
VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân:
Thuật ngữ giai cấp dùng để chỉ một nhóm xã hội mà các thành viên có vị trí
tương đương nhau trong một cơ cấu bất bình đẳng khách quan về vật chất do một
hệ thống những quan hệ kinh tế đặc trưng cho một phương thức sản xuất cụ thể
tạo ra. Theo C.Mác, chuẩn mực chủ yếu của sự phân chia giai cấp xã hội là quan
hệ đối với tư liệu sản xuất, có sở hữu về tư liệu sản xuất hay không, là vai trò đối
với quá trình sản xuất - quản lý quá trình đó hay bị quản lý quá trình đó, là cách
phân chia kết quả sản xuất - cách phân phối và hưởng thụ sản phẩm xã hội. Với
những chuẩn mực kinh tế ấy, các giai cấp có những dấu hiệu xã hội và chính trị
khác nhau như lối sống, địa vị xã hội, văn hóa, ý thức…
Và, theo Lênin, “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn, những tập
đoàn này khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định
trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ
trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và
về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn
người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ
các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định” [1, tr.17-18].
Về khái niệm công nhân, theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, đó là
người lao động phổ thông, theo nghĩa rộng, là người kiếm sống bằng cách làm
việc thể xác (lao động chân tay), bằng cách của mình - cung cấp lao động để lãnh
tiền công (tiền lương) của chủ nhân (người sử dụng lao động), để nỗ lực tạo ra sản
phẩm cho người chủ và thường được thuê với hợp đồng làm việc (giao kèo) để
thực hiện các nhiệm vụ cụ thể được đóng gói vào một công việc hay chức năng. lOMoAR cPSD| 36237285 3
Với sự ra đời của công nghệ tiên tiến và việc thành lập các công ty, tập
đoàn, công nhân ngày nay thường là thành phần lao động trong những xí nghiệp,
nhà máy, công ty và làm công ăn lương. Người công nhân cũng thường kết hợp
thành các Công đoàn hoặc nghiệp đoàn độc lập để bảo vệ quyền lợi của mình.
Luật pháp nhiều quốc gia cũng có nhiều quy định cụ thể đẻ bảo vệ quyền lợi công
nhân. Trong hầu hết các nền kinh tế hiện đại, thuật ngữ "nhân viên", "công nhân"
đề cập đến một mối quan hệ được xác định cụ thể giữa một cá nhân và một công
ty, mà khác với những khách hàng tiêu dùng.
Về khái niệm GCCN, chủ nghĩa Mác - Lênin đã diễn đạt quan niệm về
GCCN dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trong các tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê ghen”
(1844), “Tình cảnh những người lao động ở Anh” (1844-1845), “Những nguyên
lý của chủ nghĩa cộng sản” (1847), “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” (1848)... C.
Mác và Ph. Ăngghen đã dùng các từ “giai cấp công nhân”, “giai cấp vô sản”, “giai
cấp vô sản công nghiệp”, “giai cấp vô sản hiện đại”, “giai cấp công nhân hiện
đại”, “giai cấp vô sản công nghiệp”, “giai cấp công nhân công xưởng, nhà máy”,
“giai cấp công nhân đại cơ khí”. Những từ đồng nghĩa này chỉ là sự khác nhau về
hình thức biểu đạt trong những văn cảnh cụ thể của một khái niệm - GCCN.
Những diễn đạt nêu trên về GCCN của các nhà kinh điển được đặt trong
hoàn cảnh lịch sử từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, trên cơ sở hai tiêu
chí để phân định GCCN với các giai tầng xã hội khác. Đó là:
Thứ nhất, về phương thức sản xuất: GCCN là tập đoàn người lao động trực
tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày
càng hiện đại và xã hội hóa cao. Đối với C. Mác và Ph. Ăngghen, khái niệm
“GCCN” và “giai cấp vô sản” đồng nghĩa với nhau, đấy là tập đoàn người, bao
gồm những người công nhân công xưởng, là sản phẩm của nền đại công nghiệp
và phát triển cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. Là sản phẩm của nền đại
công nghiệp nên GCCN là hiện thân của lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại, đại 4
biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, và do đó, nó có những phẩm chất riêng
mà không có giai tầng nào có được. Đó là tính tiên tiến, hiện đại; ý thức tổ chức
kỷ luật cao; tác phong công nghiệp; tinh thần khoa học và thái độ cách mạng triệt
để; tinh thần quốc tế cao cả và trong sáng.
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất TBCN: GCCN, do không có tư
liệu sản xuất nên “Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng
bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng
nào khác; vì thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống
của thị trường với mức độ như nhau” [2, tr.605].
Phát triển học thuyết của C. Mác và Ph. Ănghen trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa và cách mạng vô sản, đặc biệt là trong quá trình xây dựng CNXH hiện thực,
Lênin bổ sung những thuộc tính mới của GCCN. Theo Lênin, sự phân chia giai
cấp trong xã hội phải phụ thuộc vào địa vị và sự khác nhau của các tập đoàn người
trong quan hệ đối với chế độ sở hữu tư liệu sản xuất, sự khác nhau trong quan hệ
đối với quản lý sản xuất và sự khác nhau trong quan hệ phân phối sản phẩm. Trong
tác phẩm “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga”, “Nhà nước và cách mạng”,
“Kinh tế chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”, dựa vào những đặc trưng
trên và xét vai trò của GCCN trong cách mạng xã hội, Lênin đưa ra định nghĩa về
GCCN: là giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn xã hội trong cuộc
đấu tranh lật đổ ách tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội mới, trong toàn bộ
cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp.
Đảng ta đã kế thừa các luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về
GCCN, gắn với thực tiễn thời đại ngày nay, để đưa ra các khái niệm về GCCN.
Đến Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta đã ban
hành Nghị quyết về xây dựng GCCN Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH, trong đó, Đảng xác định:
“Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát
triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương lOMoAR cPSD| 36237285 5
trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất
kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” [3, tr.43].
Khái niệm về GCCN Việt Nam này, nói chung, phù hợp với quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với những đặc
điểm của thời đại và của đội ngũ công nhân nước ta trong điều kiện đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế.
1.2. Đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân: -
Giai cấp công nhân là sản phẩm của đại công nghiệp:
Trong thời đại cách mạng xã hội lần thứ ba, sự phát triển mạnh mẽ của
phương thức sản xuất, đặc biệt là của lực lượng sản xuất và đại công nghiệp đã
tạo nên một hệ quả kép. Một mặt, đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa không ngừng
tạo ra một lực lượng sản xuất có trình độ công nghệ, kỹ thuật ngày càng hiện đại,
với tính chất xã hội ngày càng cao. Mặt khác, nền đại công nghiệp ấy không ngừng
sản sinh ra một cơ cấu xã hội – giai cấp mới, trong đó sự thống nhất và đấu tranh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản ngày càng trở thành quan hệ cơ bản
nhất, chi phối sự vận động, biến đổi đời sống chính trị của xã hội hiện đại. Theo
hệ quả thứ nhất, các điều kiện và tiền đề kinh tế - xã hội, văn hóa - xã hội cho sự
ra đời của một hình thái kinh tế - xã hội mới - cộng sản chủ nghĩa, ngày càng chín
muồi. Theo hệ quả thứ hai, giai cấp công nhân ngày càng trở thành giai cấp trung
tâm, đủ sức để thực hiện bước chuyển cách mạng của nhân loại lên một hình thái
kinh tế - xã hội cao hơn - hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, sự phát triển ngày càng
mạnh mẽ của nền đại công nghiệp, của cách mạng khoa học - công nghiệp, của
cách mạng khoa học - công nghệ, một cách khách quan, đã làm gia tăng tính chất
gay gắt của mâu thuẫn cơ bản của xã hội - mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
được xã hội hóa ngày càng cao, có trình độ công nghệ và kỹ thuật ngày càng hiện 6
đại với chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa. Đến lượt nó, mâu thuẫn kinh tế - xã hội
này của nền sản xuất hiện đại, lại tác động và làm gay gắt thêm mâu thuẫn chính
trị - xã hội của hai giai cấp cơ bản, đối lập nhau, được sản sinh ra và được trưởng
thành từ chính sự phát triển của sản xuất và kinh tế - giai cấp công nhân với giai cấp tư sản.
Trong sự thống nhất và đối lập ấy, giai cấp tư sản đại diện cho quan hệ sản
xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, quan hệ sản xuất mà trên đó xây dựng và
phát triển toàn bộ hệ thống kiến trúc thượng tầng tương ứng. Chế độ xã hội ấy, về
bản chất luôn là phương tiện công cụ cơ bản nhất duy trì và bảo vệ địa vị thống
trị của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn xã
hội. Cũng trong sự thống nhất và đối lập ấy, giai cấp công nhân đại diện cho một
phương thức sản xuất mới, tiến bộ, mà những tiền đề cơ bản của phương thức sản
xuất ấy đã, đang hình thành, được chín muồi từ chính chủ nghĩa tư bản. Với ý
nghĩa trên đây, ta có thể nhận thấy rằng, giai cấp tư sản, “không những đã rèn
những vũ khí sẽ giết mình, nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy”. Những
kết luận khoa học ấy được xuất phát từ chỗ là chủ nghĩa cộng sản hình thành từ
chủ nghĩa tư bản, phát triển lên trong quá trình lịch sử,… là kết quả của sự tác
động của một giai cấp công nhân –“lực lượng xã hội do chủ nghĩa tư bản sinh ra”. -
Giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích chính trị cơ bản đối lập
vớigiai cấp tư sản:
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của nền đại công nghiệp tư
bản chủ nghĩa, như ta đã thấy, không ngừng sản sinh ra giai cấp công nhân hiện
đại, lực lượng sản xuất hàng đầu, cách mạng nhất của xã hội hiện đại. Sự đối lập
giữa giai cấp tư sản thống trị, đại biểu cho quan hệ sở hữu tư nhân với giai cấp
công nhân, đại biểu của lực lượng sản xuất có trình độ công nghệ kỹ thuật hiện
đại, có tính chất xã hội cao, ngày càng trở nên gay gắt. Giai cấp công nhân trở
thành giai cấp có sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Điểm đồng nhất giữa các giai cấp có sứ mệnh lịch lOMoAR cPSD| 36237285 7
sử trong các thời đại cách mạng trước với giai cấp công nhân thể hiện ở chỗ đều
là những giai cấp đại diện cho một phương thức sản xuất mới đang ra đời trong
lòng hình thái kinh tế - xã hội cũ đã lỗi thời, đều là những giai cấp có lợi ích chính
trị đối lập với giai cấp thống trị trong xã hội cũ đã lỗi thời, của những hình thái
kinh tế - xã hội đã lỗi thời ấy. Điểm khác biết căn bản ở đây chính là ở chỗ, trong
các thời đại cách mạng trước, cả giai cấp quý tộc chúa đất và giai cấp tư sản đều
là các giai cấp đại diện cho những phương thức sản xuất mới, dựa trên cơ sở chế
độ sở hữu tư nhân – đại diện của một phương thức sản xuất dựa trên chế độ sở
hữu xã hội (công hữu) đối với các tư liệu sản xuất và là giai cấp bị bóc lột cơ bản của chủ nghĩa tư bản. -
Giai cấp công nhân có lợi ích chính trị thống nhất về cơ bản với
nhândân lao động và toàn xã hội:
Trong chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn chính trị cơ bản và là mâu thuẫn đối
kháng trong xã hội đó là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân.
Hơn nữa, đó còn là mâu thuẫn giữa một bên là đại quần chúng nhân dân lao động
với một bên là chế độ tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó là nguyên nhân cơ bản của
những cuộc nổi dậy, đấu tranh chống lại ách áp bức của giai cấp tư sản. Đấu tranh
nhằm lật đổ ách áp bức thống trị của giai cấp tư sản là nhu cầu cơ bản, thường
trực không chỉ của giai cấp công nhân, mà còn là của đông đảo các giai cấp và
tầng lớp lao động và của xã hội. Đây chính là điểm tương đồng, sự thống nhất căn
bản về lợi ích chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, tầng lớp trí
thức, các tầng lớp xã hội khác trong xã hội. Chính sự thống nhất lâu dài và căn
bản về lợi ích chính trị ấy đã làm nên sự khác biết về chất, căn bản trong nội dung,
tiến trình và động lực thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân với sứ
mệnh lịch sử của giai cấp quý tộc chúa đất và giai cấp tư sản.
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân 8
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra lực lượng xã hội to lớn là giai cấp công
nhân, giai cấp có khả năng tổ chức, lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong
là Đảng Cộng sản nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản trong phạm vi từng quốc gia, dân tộc và trên phạm vi toàn thế giới.
Hai ông đề cập đến mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và nền đại công nghiệp,
khẳng định giai cấp công nhân vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của nền công nghiệp
hiện đại, là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương thức sản
xuất tiên tiến. Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới
ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại.
Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân xuất phát từ bản chất
quốc tế, với sự tồn tại “có tính lịch sử thế giới” của giai cấp vô sản. Ngay trong
tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: Như vậy là giai
cấp vô sản chỉ có thể tồn tại trên quy mô của ìịch sử thế giởi, cũng như chủ nghĩa
cộng sản, tức là hoạt động của giai cấp vô sản, hoàn toàn chỉ có thể tồn tại được
với tư cách là một tồn tại “có tính lịch sử thế giới”.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một tất yếu khách quan, nhưng
để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân
tố chủ quan của giai cấp công nhân. Trong những nhân tố chủ quan đó, việc thành
lập Đảng Cộng sản, một Đảng trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của
dân tộc, vững mạnh về chính trị, tư tưỏng và tổ chức là nhân tố” giữ vai trò quyết
định nhất, bảo đảm cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
V.I.Lênin kế thừa và phát triển những luận điểm khoa học, cách mạng của
C.Mác và Ph.Ăngghen vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi chủ nghĩa tư bản
đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, ông tiếp tục khẳng định vai trò, sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, đồng thời bổ sung, phát triển
thêm nhiều luận điểm quan trọng, ông đã đưa ra nhiều luận điểm có giá trị, khẳng
định: Lực lượng sản xuất của toàn thể nhân loại là công nhân, rằng giai cấp công
nhân đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất. lOMoAR cPSD| 36237285 9
V.I.Lênin nêu quan niệm vể sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong
điều kiện mối; là giai cấp thống trị về mặt chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn xã hội
trong cuộc đấu tranh chống lại sự bóc lột của tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra
xã hội mối, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp.
V.LLênin kế thừa những tư tưỏng của C.Mác, Ph.Ăngghen, tiếp tục phát triển học
thuyết về chính đảng kiểu mối của giai cấp công nhân trong điều kiện giai cấp
công nhân đã giành được chính quyền.
CHƯƠNG II: NHỮNG THAY ĐỔI CỦA GCCN HIỆN NAY VÀ
ẢNH HƯỞNG ĐÓ ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH
SỬ CỦA GCCN HIỆN NAY
2.1. Sự phát triển và thay đổi của GCCN hiện nay:
2.1.1. Sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại làm phát triển về số
lượng và thay đổi về quy mô của giai cấp công nhân:
Đại công nghệ cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay
là quá trình phát triển tất yếu của xã hội loài người, là con đường duy nhất đưa
các quốc gia nông nghiệp, kém phát triển thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vức và trên thế giới. Bên cạnh đó, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa còn là quá trình tạo ra cơ sở cho sự phát triển về tốc độ và số
lượng đội ngũ giai cấp công nhân. Công nhân chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong
dân cư do quá trình phát triển thêm nhiều ngành mới, tạo thêm nhiều việc làm mới
và phát triển nhanh lực lượng sản xuất.
Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, tính tập trung
về quy mô của công nhân không còn giống như trước đây. Công nhân ở các xí
nghiệp quy mô lớn giảm nhiều, có xu hướng phân tán về các xí nghiệp quy mô
vừa, nhỏ và làm việc tại gia đình. Tính chất xã hội hóa của lao động công nghiệp
cũng có nhiều biểu hiện mới: sản xuất công nghiệp trong toàn cầu hóa kinh tế
đang mở rộng thành “chuỗi toàn cầu”; quá trình sản xuất một sản phẩm phải liên 10
kết nhiều công đoạn của nhiều vùng, miền, quốc gia khác nhau. Liên kết trong sản
xuất hiện đại, bên cạnh những hình thức cũ như phối hợp theo dây chuyền, tổ chức
theo nhóm đã xuất hiện những hình thức mới như: “xuất khẩu lao động tại chỗ”,
“làm việc tại nhà”, “nhóm chuyên gia quốc tế”, quốc tế hóa các tiêu chuẩn sản
xuất công nghiệp… Theo đó, tính xã hội của lao động hiện đại đang được mở rộng
và nâng cao. Điều đó càng làm cho giai cấp công nhân phát triển nhanh chóng về số lượng và quy mô.
2.1.2. Sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại và sự biến đổi về cơ
cấu của giai cấp công nhân:
Hiện nay, công nhân có mặt trong các ngành nghề, các thành phần, lĩnh vực
kinh tế, các loại hình sở hữu ở các loại nước; cơ cấu giai cấp công nhân hiện nay
khác xa so với cơ cấu giai cấp công nhân thế kỷ XIX, nhất là ở các nước tư bản
phát triển. Giai cấp công nhân không chỉ có mặt trong các ngành công nghiệp
truyền thống, mà còn hiện diện ngày càng tăng trong các ngành sản xuất mới, nhất
là ở ngành công nghiệp trí tuệ. Tỷ trọng của bộ phận công nhân trong các ngành
công nghiệp truyền thống, công nhân trong khu vực sản xuất vật chất ngày càng
giảm. Trái lại, công nhân trong các ngành nghề mới như: điện tử, tin học, hàng
không, dịch vụ công nghiệp… tăng lên nhanh chóng.
Sự phân hóa về thu nhập trong nội bộ giai cấp công nhân đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ. Số công nhân có mức sống trung lưu tăng lên, một bộ phận công
nhân có cổ phần được “trung lưu” hóa. Về mặt hình thức, họ không còn là “vô
sản” nữa và có mức sống cao hơn trước đây, nhưng thực chất, ở các nước tư bản,
do công nhân không chiếm được tỷ lệ cổ phẩn cao, nên quá trình sản xuất và phân
chia lợi nhuận vẫn do những cổ đông lớn quyết định. Việc làm, lao động và đời
sống của công nhân hiện đại vẫn lệ thuộc vào giai cấp tư sản. Quyền định đoạt
quá trình sản xuất, phân phối lợi nhuận vẫn thuộc về giai cấp tư sản.
2.1.3. Sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại từng bước nâng cao
chất lượng giai cấp công nhân: lOMoAR cPSD| 36237285 11
Cùng với sự phát triển về số lượng, sự thay đổi về quy mô và cơ cấu, sự
phát triển của nền công nghiệp hiện đại càng đẩy nhanh quá trình xã hội hóa, hiện
đại hóa lực lượng sản xuất và do đó chất lượng của giai cấp công nhân ngày càng
tăng lên. Sản xuất và dịch vụ hiện đại đòi hỏi người lao động phải có hiểu biết sâu
rộng về tri thức và kỹ năng nghề nghiệp. Chính tri thức là một động lực cơ bản
cho việc gia tăng năng suất lao động và cạnh tranh toàn cầu. Nó là yếu tố quyết
định trong quá trình phát minh, sáng chế và tạo ra của cải cho xã hội. Công nhân
được đào tạo chuẩn mực và thường xuyên được đào tạo lại theo các chu kỳ thay
đổi công nghệ. Hao phí lao động hiện đại chủ yếu là hao phí về trí lực, chứ không
phải là sự thuần túy về sự mệt mỏi cơ bắp. Bên cạnh những nhu cầu về vật chất,
nhu cầu tinh thần, văn hóa của công nhân ngày càng cao hơn và đa dạng hơn.
Đặc biệt, đội ngũ công nhân lao động trí tuệ tăng nhanh, đa số công nhân
có trình độ học vấn, văn hóa và tay nghề cao. Người công nhân không hoàn toàn
vô sản như trước đây một bộ phận công nhân có quyền sỏ hữu tư liệu sản xuất ở
một chừng mực nhất định; đòi sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng
cao. Do sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đòi hỏi đội ngũ
công nhân ngày nay có trí tuệ ngày càng cao. Trong những dây chuyền sản xuất
hiện đại, lao động trí tuệ của người công nhân nhiều hơn lao động cơ bắp.
Trong các nước tư bản chủ nghĩa, quá trình xã hội hóa và hiện đại hóa lực
lượng sản xuất càng làm cho mâu thuẫn kinh tế và xã hội ngày càng gay gắt.
Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chông lại sự bóc lột và thống trị
của giai cấp tư sản càng phát triển thì giai cấp công nhân càng trưởng thành về
chính trị, tư tưỏng và tổ chức. Sự trưởng thành của giai cấp công nhân về ý thức,
trình độ, năng lực đấu tranh cách mạng, là một trong những điều kiện quan trọng
cho việc nhận thức và thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của nó. Nhìn chung,
đội ngũ công nhân ngày càng được “trí thức hóa”, tức được nâng cao ý thức chính
trị, ý thức pháp luật, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghề nghiệp và tay 12
nghề, năng lực cải tiến công cụ lao động trong quá trình sản xuất... Đó là một thực
tế khách quan của quá trình phát triển của giai cấp công nhân.
Dưói góc độ khái quát chung nhất có thể hiểu; trí thức hoá giai cấp công
nhân là quả trình nâng nhận thức và năng lực thực tiễn của công nhân lên một
trình độ cao, qua đó đem lại chất lượng mới cho sự phát triển giai cấp công nhân,
xứng đáng vói vị trí tiên phong, lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với xã hội.
Dưới góc độ của các quá trình cụ thể thì: trí thức hoá giai cấp công nhân là
quá trình khách quan gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp;
là quá trình tăng lên mối quan hệ trực tiếp và xích lại gần nhau giữa giai cấp công
nhân với tầng lớp trí thức trong hoạt động thực tiễn; là quá trình tạo ra sự thay đổi
căn bản và toàn diện về tri thức, năng lực vận dụng tri thức và năng lực tham gia
sáng tạo của công nhân trong hoạt động thực tiễn nói chung và trong lao động với
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nói riêng để đạt năng
suất lao động và hiệu quả hoạt động xã hội cao. Từ đó có thể thấy rằng, trí thức
hóa giai cấp công nhân là một quá trình tất yếu khách quan, quá trình nâng cao
trình độ toàn diện của giai cấp công nhân về mọi mặt và do đó là quá trình làm
tăng lên khả năng hoàn thành sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân
trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại, và toàn cầu hóa hiện nay.
2.2. Những ảnh hưởng của thay đổi của GCCN hiện nay đến việc thực
hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN hiện nay
2.2.1. Thực hiện nội dung kinh tế - kỹ thuật của sứ mệnh lịch sử
C. Mác khẳng định, giai cấp công nhân là chủ thể của phương thức sản xuất
công nghiệp với các đặc tính: công cụ lao động là máy móc, năng suất lao động
cao, lao động có tính chất xã hội hóa cao và gợi mở nhiều giải pháp tích cực cho
quá trình phát triển xã hội. Chính từ quá trình sản xuất vật chất bằng phương thức lOMoAR cPSD| 36237285 13
công nghiệp, giai cấp công nhân được xác định là giai cấp quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội hiện đại và thông qua đó, chuẩn bị những tiền đề vật chất cho xã hội tương lai.
Hiện nay, người ta nói nhiều đến vấn đề giảm dần nhu cầu về lao động giản
đơn, tăng lao động trình độ cao nhưng chưa chú ý đến khả năng tiếp cận giáo dục
- dạy nghề cũng tăng lên và dễ dàng hơn với đa số. Người lao động hiện đại dễ
dàng hơn trong việc học tập để nâng cao tay nghề và mở rộng khả năng chuyển
đổi nghề nghiệp trước những thách thức về việc làm do Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra.
Kiến thức, kỹ năng lao động hiện đại đang có xu hướng xã hội hóa. Máy
tính, điện thoại thông minh, các kho dữ liệu khổng lồ có thể dễ dàng tiếp cận với
chi phí thấp, các trường đại học, cao đẳng với nhiều chương trình đào tạo từ xa…
là những điều kiện thuận lợi để người lao động bình thường có thể học tập và tự
học để nâng cao trình độ chuyên môn thông qua cơ sở của truyền thông số.
Nhu cầu của thị trường sức lao động hiện đại vừa đặt ra yêu cầu cao về chất
lượng của nguồn nhân lực, vừa nâng cao vị thế của người lao động. Khi đã có một
trình độ tương đương với nhu cầu của thị trường, vị thế của người công nhân cũng
khác trước khi thương lượng với người sử dụng lao động về giá cả của hàng hóa
sức lao động. Trong điều kiện mới, khả năng tự bảo vệ của người lao động đã được tăng lên.
Sự biến đổi cấu tạo hữu cơ tư bản thay đổi cũng đang làm rõ xu thế xã hội
hóa lực lượng sản xuất. Tri thức khoa học và công nghệ có vai trò lớn trong sản
xuất đang tạo ra một thay đổi quan trọng: tư bản khả biến tăng nhanh, tư bản bất
biến giảm tương đối trong tỷ lệ cấu thành giá trị của hàng hóa. Vai trò to lớn của
tri thức, tay nghề, văn hóa, kinh nghiệm của người công nhân trong sản xuất công
nghiệp đang từng bước phá vỡ cơ chế chiếm hữu của giai cấp tư sản, vốn bắt
nguồn từ độc quyền sở hữu tư liệu sản xuất, độc quyền chiếm đoạt giá trị thặng dư. 14
Máy móc, công nghệ sẽ vẫn tiếp tục đóng vai trò là “những nhà cách mạng”
thầm lặng. Chính xu hướng “tích hợp, hội tụ của thế giới vật chất, thế giới số và
con người” quy định và thúc đẩy xã hội phải phát triển khác đi. Nó buộc con người
trong quá trình sản xuất hiện đại không chỉ chú ý đến lợi nhuận, hiệu quả kinh tế
mà còn phải quan tâm đến nhiều khía cạnh khác của phát triển bền vững.
2.2.2. Thực hiện nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử:
Nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được
xác định là cuộc đấu tranh vì các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, như công bằng,
bình đẳng, dân chủ… và tập trung nhất là việc xác lập chế độ chính trị - xã hội
mới do giai cấp công nhân lãnh đạo - chế độ xã hội chủ nghĩa để tạo ra tiền đề
chính trị cho xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo cơ hội và làm nổi bật các
nội dung sau: Dân chủ hóa - công nghệ số góp phần mở rộng truyền thông, tạo
điều kiện để thông tin đến với mọi người, qua đó phát triển dân chủ. Với những
nước phát triển, thông qua thành tựu khoa học - công nghệ, người dân có điều
kiện tốt hơn để giám sát và chia sẻ quyền lực với nhà nước đương trị. Công nghệ
và thiết bị ngày càng cho phép người dân tiếp cận gần hơn với chính phủ để nêu
ý kiến, để cùng phối hợp hoạt động. Đồng thời, các chính phủ cũng sở hữu sức
mạnh về công nghệ để tăng cường sự quản trị của mình đối với người dân dựa
trên những hệ thống giám sát rộng rãi và khả năng điều khiển kết cấu hạ tầng số.
Cách mạng công nghiệp 4.0 với những tiền đề mà nó tạo ra sẽ cho thấy
những bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Hiện nay, hầu hết các quốc
gia đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đều rất quan tâm và quyết
tâm mạnh mẽ hướng tới Cách mạng công nghiệp 4.0. Đây cũng là một con đường
để phát triển rút ngắn, để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
2.2.3. Thực hiện nội dung văn hóa - xã hội của sứ mệnh lịch sử: lOMoAR cPSD| 36237285 15
Trên bình diện thế giới hiện nay, hòa bình, hợp tác cùng phát triển trong
môi trường dân chủ, công bằng, bình đẳng đang là xu thế lớn. Xu thế ấy tạo điều
kiện thuận lợi cho Cách mạng công nghiệp 4.0 và cả sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Cách mạng công nghiệp 4.0 là một thành tựu của văn minh, có những đóng
góp, bổ sung vào nhận thức duy vật lịch sử về các vấn đề trong phát triển. Ở
phương diện xã hội, sát cánh cùng giai cấp sản xuất ra của cải vật chất - giai cấp
công nhân. Hệ giá trị của giai cấp công nhân theo đó có thể được bổ sung những
giá trị tuy khá đặc thù nhưng gần gũi của các tầng lớp khác như trí thức nhóm xã
hội coi sáng tạo, dân chủ như điều kiện môi trường để lao động và phát triển.
2.3. Liên hệ với GCCN Việt Nam
Trong suốt những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam đã khẳng định
được via trò của mình, xứng đáng là bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, tiếp
tục lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng.
Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham gia giải quyết các vấn đề là thu hút
sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Các vấn đề
đó có tính thời sự cao như dân số, môi trường, văn hóa, năng lượng, lương thực,..
Giai cấp công nhân là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, không chấp nhận chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị.
Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
Giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống
tiêu cực, tham nhũng, tệ ạn xã hội, là lực lượng chính trị – xã hội quan trọng trong
việc bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lịch sử như sau: 16
Một là, xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng,
giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, xây
dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hai là, phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa công nhân”,
nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào sản xuấ nhằm tăng năng suất, chất
lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới. KẾT LUẬN
Cách mạng công nghiệp 4.0 là một thành tựu của văn minh nhân loại, có
những đóng góp, bổ sung vào nhận thức duy vật lịch sử về các vấn đề trong phát
triển của xã hội. Ở phương diện xã hội, sát cánh cùng giai cấp công nhân sản xuất
ra của cải vật chất ngày càng lớn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
Bên cạnh đó, giai cấp công nhân, đang xuất hiện ngày càng đông đảo trình độ
ngày càng nâng cao, cơ cấu, phân tầng sâu sắc. Cùng với sự phát triển của Cách
mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế sáng tạo, giai cấp công nhân ngày càng chiếm vị
trí chủ đạo trong lực lượng lao động xã hội, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân có những thay đổi trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, vai trò vị trí tiên phong
trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không giai cấp nào thay
thế được. Chính vì vậy, em hy vọng bài tiểu luận của em góp phần giúp mỗi cá
nhân nhận thức được vị trí, vai trò trò trách nhiệm xã hội của bản thân, luôn cố
gắng vươn lên học tập rèn luyện, bản lĩnh chính trị vững vàng, chinh phục khoa
học, làm chủ công nghệ, tăng năng suất lao động góp phần thực hiện mục tiêu xây
dựng đất nước văn minh, giàu mạnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. lOMoAR cPSD| 36237285 17 2.
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2012), Tập Kỷ yếu hội thảo
khoahọc: “Một số quan điển cơ bản của C. Mác, Ph. Ăng ghen, V. I. Lênin và Hồ
Chí Minh về công tác tư tưởng”, Hà Nội. 3.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4.
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2012), Giáo trình Chủ nghĩa xã
hội khoa học, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 5.
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2014), Giáo trình Học thuyết sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.