Tiểu luận ''Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách''

Tiểu luận môn Tâm lý học đại cương với đề tài:Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của Học viện Báo chí và Tuyên truyền giúp bạn tham khảo và hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TIỂU LUẬN MÔN:
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Đề bài
Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành
và phát triển nhân cách
Họ và tên: Nguyễn Trần Thảo Nhi
Mã sinh viên: 1955360023
Tháng 9 năm 2019
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3
NỘI DUNG ....................................................................................................... 5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN CÁCH ........................ 5
1.1. Một số khái niệm cơ bản .......................................................................... 5
1.2. Sự phát triển nhân cách ........................................................................... 8
CHƯƠNG II: NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH . 8
VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH ...................................................................... 8
2.1. Các yếu tố hình thành nhân cách ........................................................... 9
2.2. Sự phát triển nhân cách ......................................................................... 20
CHƯƠNG III: LIÊN HỆ THỰC TIỄN .......................................................... 21
KẾT LUẬN..................................................................................................... 23
DANH MỤC THAM KHẢO ......................................................................... 23
lOMoARcPSD| 36817126
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân cách một trong những yếu tố chúng ta thường nhắc đến khi xem xét
hay đánh giá về một con người. như tiền đề để ta nhìn nhận giá trị , bản chất
của người đó. Bởi khi nhận thức được bản chất của một người ta sẽ có sở quyết
định mối quan hệ với người đó. vậy sự hình thành, phát triển hoàn thiện
nhân cách con người rất quan trọng luôn được quan tâm trong xã hội. Tuy
nhiên chúng ta đều biết rằng nhân cách không phải ngay từ khi sinh ra đã có.
Không ai nói đến nhân cách với một đứa trmới sinh. Nhân cách cấu tạo mới
do từng người tự hình thành nên và phát triển trong quá trình sống, giao tiếp, học
tập, lao động, hoạt động hội, vui chơi… Nhân cách không sẵn bằng cách
bộc lộ dần dần các xung động bản năng nguyên thuỷ mà một lúc nào đó bị kiềm
chế, chèn ép. Theo đó, nhân cách đặc trưng hội, “phẩm chất hội” của
con người.
Nhằm góp phần làm về nhân cách, em quyết định chọn đề tài “Những yếu
tố ảnh hưởng đến sự hình thành phát triển nhân cách” làm hướng nghiên cứu
môn Tâm học đại cương. Do kiến thức về luận và thực tiễn của em còn nhiều
thiếu sót, rất mong thầy góp ý đbài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2. Mục đích nghiên cứu
- Đưa ra cơ sở lý luận chung về nhân cách
- Phân tích làm các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành phát triển
nhân cách
- Liên hệ cơ sở lý thuyết về nhân cách đến thực tiễn
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành phát
triển
- Phạm vi nghiên cứu: Về nhân cách con người
4. Bố cục bài nghiên cứu
Chương I: Cơ sở lý luận chung về nhân cách
4
Chương II: Những yếu tố ảnh hưởng đến shình thành phát triển nhân cách
Chương III: Liên hệ thực tiễn
lOMoARcPSD| 36817126
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN CÁCH
1.1. Một số khái niệm cơ bản
Nhân cách một vấn đề trung tâm của tâm lý học (TLH). tổ hợp những
đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội
của con người. Do yêu cầu, mục đích và nội dung nghiên cứu của mình, mà các
nhà tâm lí học đã sử dụng các thuật ngữ khác như cá nhân, cá tính hay chủ thể để
chỉ con người. Nhưng mỗi khái niệm có nội hàm riêng. Để hiểu định nghĩa nhân
cách, trước hết cần phân biệt các khái niệm nêu trên
1.1.1. Khái niệm con người.
Trong quan niệm của Triết học Mác-Lênin , con người một thực thể trong
sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người sinh ra từ tự
nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại phát triển
gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Về mặt sinh học, con người thuộc lớp động vật có vú, có dáng đứng
thẳng, có đôi bàn tay là công cụ nhận thức và lao động, có bộ óc người phát triển
cực kì cao và tinh vi, là thực thể sinh vật, con người chịu sự chi phối của quy
luật tự nhiên.
Nhưng cái sinh vật trong con người không thuần tuý là cái sinh vật, cái tự
nhiên bởi nó bị cái xã hội quy định một cách trực tiếp. C. Mác viết: “Con người
không phải chỉ là thực thể tự nhiên. Nó là thực thể tự nhiên có tính người”.
Về mặt xã hội, con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể của các
quan hệ xã hội, có khả năng kế thừa nền văn minh nhân loại.
Trong Luận cương về Phoi ơ bắc (1845), C.Mác đã đưa ra một luận
điểm nổi tiếng: "Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu
6
của nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người tổng
hoà những quan hệ xã hội"
(1)
.
Với quan niệm đó, C.Mác chỉ ra rằng bản chất con người không phải là trừu
tượng mà là hiện thực, không phải tự nhiên mà là lịch sử. Con người là một thực
thể thống nhất giữa yếu tố sinh học yếu tố xã hội, nhưng yếu tố hội mới
bản chất đích thực của con người. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm
biến đổi tự nhiên, xã hội, biến đổi chính bản thân mình và đã làm nên lịch sử của
xã hội loài người. Vạch ra vai trò của mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành bản
chất của con người, quan hệ giữa nhân xã hội một cống hiến quan trọng
của triết học Mác – xít.
Tuy nhiên, sự phát triển của con người chủ yếu bị chi phối bởi quy luật xã
hội. Con người là một chủ thể có ý thức và đây chính là điểm khác nhau cơ bản
nhất giữa con người với con vật. Về vấn đề này C. Mác đã viết: “Con người chỉ
khác con vật ở hiện tượng duy nhất là trong con người có ý thức thay thế bản
năng”. Cũng có thể định nghĩa, con người là một thực thể sinh vật - xã hội
văn hoá.
Còn về khái niệm cá nhân, chúng ta hiểu một cách đơn giản là từ chỉ đại
diện của một loài. Có thể nói cá thể động vật, cá thể người, tuy nhiên cá thể
người còn có thể gọi cách khác là cá nhân.
Như vậy, cá nhân là thuật ngữ chỉ một con người với tư cách đại diện loài
người. Nói đến cá nhân là nói đến một con người cụ thể của một cộng đồng, là
thành viên của xã hội và để phân biệt nó với cá nhân khác, với cộng đồng.
Về chủ thể, là khi cá nhân thực hiện một hoạt động nhất định một cách có
ý thức và có mục đích, nhận thức và cải tạo thế giới xung quanh trong quá trình
hoạt động đó, thì được gọi là chủ thể.
1.1.2. Khái niệm nhân cách
Nhân cách vấn đề được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau thuộc
nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau, trong đó có ngành khoa học Tâm lý.
lOMoARcPSD| 36817126
7
Đây là vấn đề rất phức tạp nên ngay trong Tâm lí học cũng có nhiều định nghĩa
và quan niệm khác nhau về nhân cách. Ngay từ năm 1927, G.W, Allport đã dẫn
ra gần 50 định nghĩa khác nhau của các nhà tâm lý học về nhân cách và hiện nay
có rất nhiều lí thuyết khác nhau về nhân cách trong khoa học Tâm lí.
Các nhà tâm lý học cho rằng, khái niệm nhân cách là một phạm trù xã hội,
có bản chất xã hội - lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách là nội dung của
những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội cụ thể chuyển vào thành đặc điểm
nhân cách của từng người.
Theo A.G. Covaliôv: “Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một vị
trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định”. Còn
theo E.V. Sorokhôva lại cho rằng “Nhân cách là con người với tư cách là kẻ
mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lí, quy định hình thức của hoạt động
và hành vi có ý nghĩa xã hội”. Một nhà tâm lý học khác đã đưa ra định nghĩa:
“Nhân cách là hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân thể hiện những
phẩm chất bên trong của cá nhân, mối quan hệ qua lại của cá nhân với các cá
nhân khác, với tập thể, xã hội, với thế giới xung quanh và mối quan hệ của cá
nhân với công việc trong quá khứ, hiện tại và tương lai”.
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể rút ra định nghĩa chung về nhân cách:
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân, quy
định hành vi xã hội và giá trị xã hội của cá nhân đó.
Như vậy, nhân cách là sự tổng hoà không phải các đặc điểm cá thể của con
người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của
xã hội, nói lên bộ mặt tâm lí – xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá
nhân. Những thuộc tính tâm lí tạo thành nhân cách thường biểu hiện trên ba cấp
độ: cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ biểu hiện ra hoạt
động và các sản phẩm của nó.
8
1.2. Sự phát triển nhân cách
CHƯƠNG II: NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
lOMoARcPSD| 36817126
9
Theo quan điểm tâm lí học Mácxít, không phải con người mới được sinh
ra đã có sẵn nhân cách và cũng không phải nó được bộc lộ dần dần từ các bản
năng nguyên thuỷ. Nhân cách là một cấu tạo tâm lí mới được hình thành và phát
triển trong quá trình sống, hoạt động và giao tiếp của mỗi người. V.I. Lênin đã
khẳng định: “Cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thu tâm lí, đạo đức của xã
hội mà nó là thành viên”. Nhà tâm lí học Xô viết nổi tiếng A.N. Lêộnchiép cũng
chỉ ra rằng: Nhân cách cụ thể là nhân cách con người sinh thành và phát triển
theo con đường từ bên ngoài chuyển vào nội tâm, từ các quan hệ với thế giới tự
nhiên, thế giới đồ vật, nền văn hoá xã hội do các thế hệ trước tạo ra, các quan hệ
xã hội mà nó gắn bó. Trong quá trình hình thành, nhân cách bị chi phối bởi nhiều
yếu tố: yếu tố sinh thể, môi trường xã hội, giáo dục và tự giáo dục, hoạt động,
giao tiếp.
2.1. Các yếu tố hình thành nhân cách
2.1.1. Yếu tố sinh th
Không thnhân cách trừu tượng bên ngoài một con người bằng xương,
bằng thịt mà là nhân cách của một con người cụ thể sống trong một xã hội cụ thể.
Ngay từ lúc trẻ em ra đời đều có những đặc điểm hình thái - sinh lí của con người
bao gồm các đặc điểm bẩm sinh và di truyền. Những thuộc tính sinh. học có ngay
từ lúc đứa trẻ mới sinh gọi là những thuộc tính bẩm sinh. Những đặc điểm, những
thuộc tính sinh học của cha, mẹ được ghi lại trong hệ thống gen truyền lại cho con
cái được gọi là di truyền. Nói một cách dễ hiểu, di truyền stái tạo trẻ em
những thuộc tính sinh học nhất định, giống với cha mẹ, thông qua hệ thống gen.
dụ: Cha mẹ có tóc đen và mắt nâu thì con cái sẽ có tóc đen hoặc mắt nâu
hay cả 2, chkhông thể tóc vàng mắt xanh được (1). Chỉ một số ít trường
hợp biến đổi gen thì mới có trường hợp (1) xảy ra.
10
Những yếu tố được di truyền này bao gồm: Cấu trúc giải phẫu thể, màu da,
màu tóc, vóc dáng, thể trạng, các chất của hệ thần kinh… Những yếu tố này
góp phần nảy sinh ra nhân cách, được coi là tiền đề tiền đề vật chất (mầm mống)
của sự phát triển tâm lý, nhân cách của con người.
Bẩm sinh – di truyền là những đặc điểm giải phẫu sinh lí của hệ thần kinh
các quan cảm giác, vận động. Đối với mỗi thể khi ra đời đã nhận được
một số đặc điểm về cấu tạo và chức năng của cơ thể từ các thế hệ trước theo con
đường di truyền trong đó các giác quan và não. Bất cứ một chức năng tâm
nào mang bản chất con người của nhân cách chỉ có thể được phát triển trong hoạt
động của bản thân đó trong điều kiện của xã hội loài người. Thực tế mọi cơ thể
bình thường đều có thể phát triển tốt đẹp đời sống tinh thần của mình.
Ngoài ra, sự tác động của yếu tố di truyền đối với từng giai đoạn phát triển
lứa tuổi từng hoạt động cụ thể là khác nhau. Thực ra, ngay ở cấp độ sinh học,
sự phong phú, đa dạng của nhân cách cũng đã được thể hiện. Khi sinh ra, mỗi
người đã có một bộ gen riêng của mình mà rất hiếm khi trùng với người khác. Do
vậy, mỗi người có khí chất, thiên hướng, khả năng tư duy…. hết sức khác nhau.
Vậy, yếu tố sinh học này có vai trò như thế nào đối với sự hình thành
phát triển nhân cách? Theo quan điểm tâm lí học Mácxít thì di truyền với các
đặc điểm sinh học nêu trên không quyết định chiều hướng cũng như giới hạn
phát triển của nhân cách con nời. Nhưng bẩm sinh – di truyền vẫn đóng vai
trò đáng kể trong sự hình thành phát triển tâm lí nhân cách. Chính nó tham gia
vào sự tạo thành cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm – những đặc điểm giải
lOMoARcPSD| 36817126
11
phẫu và sinh lí của cơ thể, trong đó có hệ thần kinh. Qua đó, ta có thể khẳng
định vai trò tiền đề vật chất của yếu tố di truyền với sự hình thành và phát triển
và phát triển nhân cách
Tuy nhiên cần chú ý, yếu tố di truyền bẩm sinh không quyết định nhân cách
chỉ tạo điều kiện thuận lợi hay khó khăn cho quá trình hình thành nhân
cách. Nên cần chú ý đúng mức vai tcủa di truyền, không nên coi nhẹ hoặc đánh
giá quá cao vai trò của nhân tố này.
Ví dụ: Tại sao lại có từ “con nhà nòi”?
Bởi ví dụ trong gia đình nhiều người giỏi về nghệ thuật thì đứa trẻ cũng sẽ
thiên hướng nghệ thuật. Đó cũng tiền đề quá trình hình thành nhân cách theo
bẩm sinh di truyền. Nếu như trong gia đình, cha và mẹ đều là người tài giỏi thì đó
là yếu tố giúp con mình noi theo.
Tuy nhiên, để kế thừa và phát huy hết yếu tố di truyền của bố hoặc mẹ về
nghệ thuật, thì bạn nhỏ cần phải có sự tác động của những yếu tố bên ngoài khác
như có điều kiện tiếp xúc, yêu thích nghệ thuật và bản thân em phải tích cực trau
dồi, học hỏi thì mới có thể trở thành nghệ sĩ còn nếu bản thân không tích cực thì
sẽ không thể trở thành một người nghệ sỹ.
12
2.1.2. Yếu tố môi trường
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và
xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người.
Có thể phân thành hai loại: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Môi trường tnhiên: Gồm khí hậu, đất, nước, sinh thái phục vụ cho học
tập, lao động, rèn luyện sức khỏe, vui chơi giải trí.. .
Môi trường xã hội: Gồm các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa…
Về môi trường tự nhiên,
Những điều kiện tự nhiên quy định đặc điểm của phương thức hoạt động
của con người trong tự nhiên và một số nét riêng trong phạm vi sáng tạo nghệ
thuật. Qua đó quy định các giá trị vật chất và tinh thần một mức độ nhất định.
Hay thể nói tâm dân tộc mang dấu ấn của hoàn cảnh tự nhiên thông qua khâu
trung gian là phương thức sống. Ngay cả nhiều phong tục tập quán suy cho cùng
cũng đều có nguồn gốc từ điều kiện và hoàn cảnh sống tự nhiên. Nhân cách như
là một thành viên xã hội chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những
giá trị vật chất và tinh thần, qua phong tục tập quán của dân tộc, của địa phương,
của nghề nghiệp - những cái vốn liên hệ với điều kiện tự nhiên ấy qua
phương thức sống của chính bản thân nó.
lOMoARcPSD| 36817126
13
Ví dụ: Sinh ra trên những mảnh đất có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt,
quanh năm hứng chịu bão lụt, hạn hán kéo dài, vì vậy người miền Trung được
biết đến nhờ bản chất cần cù, chịu thương, chịu khó. Tuy nhiên, cũng do những
điều kiện không mấy thuận lợi của môi trường tự nhiên, mà con người miền
Trung có phần hơi nóng nảy trong tính cách. Bởi nghèo khổ là nỗi buồn ám ảnh
và gay gắt nhất. Vì thế, con người miền Trung luôn là những con người dễ cáu
gắt, bực tức, họ sống trong sự đe dọa thường trực do lũ lụt, thiên tai gây ra. Hơn
thế, điều kiện tự nhiên cũng đã hun đúc nên bản chất cần kiệm, tích góp của con
người nơi đây. Họ luôn hướng đến cách sống “ăn chắc, mặc bền”.
Từ đó, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, môi trường xã hội cũng đóng
vai trò khá quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách, tính cách
của mỗi con người.
Về môi trường xã hội
Môi trường xã hội là toàn bộ các mối quan hệ xã hội mà con người sống và
tiếp xúc. ảnh hưởng đến sphát triển tâm nhân cách. Vì nếu không
sự tiếp xúc với con người thì cá thể lớn lênphát triển trong trạng thái động vật,
nó không thể trở thành một con người, một nhân cách. Có nghĩa là đứa trẻ muốn
14
trở thành nhân cách phải có sự tiếp xúc với người lớn để nắm vững tri thức, kinh
nghiệm lịch sử xã hội, để được chuẩn bị bước vào cuộc sống lao động trong
văn hóa của thời đại. có thể nói nhân cách là một sản phẩm của xã hội.
Quan hệ sản xuất quy định nội dung của nhiều nét tâm lý cơ bản của nhân
cách. Ngoài ra tâm lý nhân cách phụ thuộc vào quan hệ chính trị và pháp luật. Vị
trí giai cấp của nhân sẽ kích thích tính tích cực của mức độ này mức độ
khác trong vai trò xã hội.
Trong tất cả những mối quan hệ hội được nêu trên, nhân cách không
chỉ là một khách thể mà còn là một chủ thể. Cá nhân là một tồn tại có ý thức, nó
thể lựa chọn phương thức sống của mình do đó lựa chọn những phản ứng
khác nhau trước tác động của hoàn cảnh hội. luận được hình thành thầm
lặng hoặc có ý thức. thể đóng vai trò tích cực hay tiêu cực trong đời sống được
bắt nguồn từ sự kiện thực hay bịa đặt. nảy sinh, phát triển trên tâm trạng
hội và có ảnh hưởng trở lại tâm trạng đó.
Ảnh hưởng tích cực tiêu cực của môi trường đối với nhân cách: Một môi
trường xã hội lành mạnh, như nền dân chủ, các quan hệ xã hội, điều kiện văn hoá
- tinh thần của xã hội có sự phát triển hài hoà… thì sẽ tạo điều kiện cho tính tích
cực của nhân cách phát huy.
Ngược lại, tính tích cực hội của nhân cách sẽ bị thui chột đi, nếu môi
trường hội không tạo điều kiện cho bộc lộ. Trong một chừng mực nào đó,
điều này không những làm cho nhân cách bị nghèo nàn, mà còn có thể dẫn tới sự
phá vỡ nhân cách.
dụ: Trường hợp Kamala được chó sói nuôi từ nhỏ. Khi được đưa ra
khỏi rừng, cô đã 12 tuổi. Bình thường, cô ngủ trong xó nhà, đêm đến thì tỉnh táo
đôi khi sủa lên như chó rừng. đi lại bằng hai chân, nhưng khi bị đuổi thì
chạy bằng bốn chi khá nhanh.
Người ta dạy nói cho Kamala trong bốn năm, nhưng cô chỉ nói được hai từ.
Cô không thể thành người và chết ở tuổi 18. Người ta đã được biết trên 30 trường
hợp như vậy.
lOMoARcPSD| 36817126
15
Qua dụ trên, chúng ta thể thấy hoàn cảnh sống một môi trường nhỏ,
tuy nhiên lại sự tác động trực tiếp mạnh mẽ đến sự hình thành phát
triển nhân cách nhân của mỗi con người. Trong đó, môi trường hội ý
nghĩa hết sức to lớn và quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.
2.1.3. Yếu tố giáo dục và tự giáo dục
Theo quan điểm của tâm học giáo dục học hiện đại thì giáo dục giữ
vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách. Giáo dục là một hoạt động chuyên
môn của hội nhằm hình thành phát triển nhân cách con người theo những
yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong tâm lý học, giáo dục thường được hiểu như là quá trình tác động
ý thức, có mục đích và có kế hoạch về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi trong tập
thể trẻ em học sinh, trong gia đình quan giáo dục ngoài nhà trường.
Nhưng thực ra giáo dục còn nghĩa rộng hơn, giáo dục bao gồm cả việc dạy học
cùng với hệ thống các tác động sư phạm khá, trực tiếp hoặc gn tiếp trong lớ và
ngoài lớp, trong trường và ngoài trường, trong gia đình ngoài hội. Vai trò
chủ đạo của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ
được thể hiện ở những điều sau đây:
Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành phát triển nhân cách
của học sinh dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo
chiều hướng đó.
Giáo dục có thể mang lại những cái mà các yếu tố bẩm sinh - di truyền hay
môi trường tự nhiên không thể đem lại được. Chẳng hạn, nếu đứa trẻ sinh ra không
bị khuyết tật thì theo sự tăng trưởng phát triển của thể, đến một giai đoạn
nhất định đứa trẻ sẽ biết nói. Nhưng muốn biết đọc được thì cần phải sự tác
động của giáo dục.
Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật đem lại cho con người.
dụ: giáo dục trẻ em bị khuyết tật thể được phục hồi những chức năng đã
mất, hoặc có thể phát triển tài năng và trí tuệ một cách bình thường.
Giáo dục thể uốn nắn những phẩm chất tâm xấu do tác động tphát
của môi trường gây nên và làm cho phát triển theo chiều hướng mong muốn
16
của hội. Chẳng hạn như giáo dục trẻ em hoặc cải tạo lao động đối với người
phạm pháp.
Giáo dục thể đi trước hiện thực , trong khi tác động tphát của hội
chỉ ảnh hưởng tới cá nhân mức độ hiện của nó. Chẳng hạn, mục tiêu giáo dục
của chúng ta xây dựng những con người mới hội chủ nghĩa. Những công
trình nghiên cứu về tâm học giáo dục học hiện đại đã chứng minh rằng sự
phát triển tâm của trẻ em chỉ thể diễn ra một cách tốt đẹp trong điều kiện của
sự dạy học và giáo dục.
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách, song không nên tuyệt đối hoá vai trò của giáo dục. Tuy nhiên, giáo dục
không phải là vạn năng, bởi vì giáo dục chỉ vạch ra phương hướng cho sự hình
thành và phát triển nhân cách thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển theo
hướng đó. Còn cá nhân có phát triển theo hướng đó hay không và phát triển đến
trình độ nào thì giáo dục không quyết định trực tiếp được, cái quyết định trực
tiếp lại chính là hoạt động và giao tiếp của mỗi cá nhân. Do đó, cần phải tiến
hành giáo dục trong mối quan hệ hữu cơ với việc tổ chức hoạt động, tổ chức
quan hệ giao tiếp, hoạt động cùng nhau trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ
nhóm và tập thể. Đặc biệt, con người là thực thể tích cực, có thể tự hình thành và
biến đổi nhân cách của mình một cách có ý thức, có khả năng tự cải tạo chính
bản thân mình, có nhu cầu tự khẳng định, tự ý thức, tự điều chỉnh cho nên con
người có hoạt động tự giáo dục. Hoạt động này là quá trình con người biết tự
kiềm chế mình, biết hướng nhu cầu, hứng thú, giá trị của mình cho phù hợp với
những chuẩn mực đạo đức, giá trị của xã hội. Vì vậy, giáo dục không được tách
rời với tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách ở mỗi cá nhân.
2.1.4. Yếu tố giao tiếp
Nhà tâm học Xô Viết B.Ph.Lomov cho rằng “khi chúng ta nghiên cứu lối
sống của một cá nhân cụ thể, chúng ta không thể chỉ giới hạn ở sự phân tích xem
nó làm cái gì và như thế nào, mà còn phải nghiên cứu xem nó giao tiếp với ai và
lOMoARcPSD| 36817126
17
như thế nào”. thế cùng với hoạt động đối tượng, giao tiếp một vai trò
quan trọng cơ bản trong việc hình thành và phát triển nhân cách.
Giao tiếp điều kiện tồn tại của nhân hội loài người, là nhu cầu
bản xuất hiện sớm nhất con người. Nhu cầu giao tiếp một trong những nhu
cầu hội bản, xuất hiện sớm nhất con người. Thực tế chứng minh những
trường hợp do động vật nuôi đã mất bản tính người , mất nhân cách và chỉ còn lại
những điểm tâm lý, hành vi của con vật. Đã nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra
rằng sự giao tiếp quá hạn chế, nghèo nàn đã dẫn đến những hậu quả nặng nlà dễ
mắc bệnh “đói giao lưu do nằm viện lâu ngày”
(hospitalism).
Nhờ giao tiếp, con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn
hóa xã hội, chuẩn mực xã hội “ tổng hòa các quan hệ xã hội” làm thành bản chất
con người, đồng thời thông qua giao tiếp con người đóng góp tài lực của mình vào
kho tàng chung của nhân loại, của hội. Trong giao tiếp con người không chỉ
nhận thức người khác, nhận thức các quan hhội còn nhận thức được chính
bản thân mình, tự đối chiếu so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội,
tự đánh giá bản thân mình như một nhân ch để hình thành một thái độ giá trị
cảm xúc nhất định đối với bản thân. Hay qua giao tiếp con người hình thành năng
lực tự ý thức.
dụ: Khi giao tiếp thì ta sẽ biết được cách thức giao tiếp của người đó. Từ
đó hình thành khả năng giao tiếp riêng cho bản thân mình. Khi mình giao tiếp với
nhiều đối tượng, với nhiều người thì ta sẽ rút ra được nhiều kinh nghiệm cho việc
giao tiếp của mình.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối
quan hệ người – người, là nhân tố cơ bản của việc hình thành và phát triển tâm
lí, ý thức, nhân cách. Giao tiếp và hoạt động của con người chỉ có thể diễn ra
trong cộng đồng, trong nhóm và tập thể.
Con người là một thực thể xã hội. Nhân cách của nó được hình thành và
phát triển chỉ trong một môi trường xã hội cụ thể nhất định mà con người đang
18
sống và hoạt động. Môi trường đó gồm gia đình, làng xóm, phố phường, nhà
trường, các nhóm xã hội, các cộng đồng và các tập thể (Đội Nhi đồng, Đội Thiếu
niên, Đoàn Thanh niên...) mà nó là thành viên. Vậy thế nào là nhóm và thế nào
là tập thể?
Nhóm là một tập hợp người được thống nhất lại theo những mục đích
chung. Tuỳ theo tiêu chuẩn phân loại mà người ta phân thành nhóm nhỏ và
nhóm lớn; nhóm chính thức và nhóm không chính thức; nhóm thực và nhóm quy
ước... Nhóm có thể phát triển thành tập thể. Tập thể là một nhóm người, là một
bộ phận của xã hội, được thống nhất lại theo những mục đích chung, tuân theo
các mục đích của xã hội. Như vậy, trong nhà trường phổ thông, một học sinh có
thể là thành viên của nhiều nhóm hay nhiều tập thể khác nhau.
Nhóm và tập thể có vai trò to lớn trong việc hình thành và phát triển nhân
cách. Trong nhóm và tập thể, mỗi cá nhân có điều kiện thuận lợi nhất để hoạt
động cùng nhau (vui chơi, học tập, lao động...) để tiếp xúc trực tiếp với nhau và
trên cơ sở đó thiết lập các quan hệ giữa cá nhân này với cá nhân khác, giữa
nhóm này với nhóm khác. “Sự phong phú thực sự về mặt tinh thần của cá nhân
hoàn toàn phụ thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ hiện thực của họ”.
Vì thế, các ảnh hưởng của xã hội, các mối quan hệ xã hội thông qua các nhóm
và tập thể tác động đến từng cá nhân. Ngược lại, mỗi cá nhân tác động đến cộng
đồng, đến xã hội, đến cá nhân khác cũng thông qua các nhóm và tập thể mà nó
thành viên.
Tác động của nhóm và tập thể đến nhân cách các hoạt động cùng nhau,
qua dư luận tập thể, truyền thông tập thể, qua các phong trào thi đua, qua các
hình thức hội họp, sinh hoạt câu lạc bộ... Vì vậy, vận dụng nguyên tắc giáo dục
trong tập thể và bằng tập thể đặc biệt có ý nghĩa trong việc hình thành và phát
triển nhân cách. . Tóm lại bốn yếu tố: sinh thể, môi trường xã hội, giáo dục và tự
giáo dục, hoạt động và giao tiếp đều tác động đến sự hình thành và phát triển
nhân cách, nhưng có vai trò không giống nhau. Theo quan điểm tâm lí học
lOMoARcPSD| 36817126
19
mácxít, yếu tố sinh thể giữ vai trò làm tiền đề yếu tố môi trường xã hội có vai trò
quyết định; yếu tố giáo dục và tự giáo dục giữ vai trò chủ đạo; yếu tố hoạt động
và giao tiếp của cá nhân có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách.
2.1.5. Hoạt động cá nhân:
Hoạt động là sự tác động qua lại có định hướng giữa con người với thế
giới xung quanh, hướng tới biến đổi nó nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Con
đường tác động có mục đích, tự giác của xã hội bằng giáo dục đến thế hệ trẻ sẽ
không có hiêu quả nêu như bản thân cá nhân học sinh không tiếp nhận, không
hương ứng những tác động đó, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm
phát triển tâm lý, hình thành nhân cách. Bởi vậy, hoạt động chủ đạo đóng vai trò
chủ yếu trong sự hình thành và phát triển nhân cách so với các loại hoạt động
khác của cá nhân.
Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật về sự tự thân vận động, về động
lực bên trong của sự phát triển nói chung. Hoạt động của cá nhân nhằm để thỏa
mãn những nhu cầu tự nhiên hay nhu cầu xã hội,vật chất hay tinh thần của đời
sống riêng hay đời sống xã hội là những biểu hiện phong phú về tính tích cực
của nhân cách. Hoạt động là phương thức tồn tại của con người,là nhân tố quyết
định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là
hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, cộng đng, được thực hiện bằng
những thao tác nhất định,với những công cụ nhất định. Thông qua hai quá trình
đối tượng hóa và chủ thể hóa trong hoạt động và nhân cách được bộc lộ và hình
thành. Con người lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử bằng hoạt động của bản
thân để hình thành nhân cách.
Muốn hình thành nhân cách, con người phải tham gia vào các dạng hoạt
động khác nhau, trong đó đặc biệt chú ý tới hoạt đồng chủ đạo. Phải lựa chọn, tổ
chức và hướng dẫn các hoạt động đảm bảo tính giáo dục và hiệu quả đối với việc
hình thành và phát triển nhân cách.
20
Việc đánh giá hoạt động là rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách.
Việc đánh gsẽ chuyển dần thành tự đánh giá, giúp con người thấm nhuần những
chuẩn mực, những biểu giá trị xã hội, trở thành lương tâm của con người.
dụ: Cách dễ nhất để kết hợp cả việc học chơi với nhau nên thông
qua những hoạt động hàng ngày của trẻ em.
+Trẻ thể học được rất nhiều bài học thông qua việc phân loại quần áo
như phân biệt kích cỡ quần áo lớn nhỏ, màu sắc quần áo, kiểu quần áo. Ngược lại
nếu trẻ không tham gia vui chơi với bạn bè, không bắt chước những hành vi, cách
xử sự của người lớn, không học tập thì trẻ sẽ không thể phát triển đầy đủ những
phẩm chất năng lực của nhân cách. vậy, người lớn cần phải hướng dẫn, tổ
chức trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động để giúp hình thành phát triển nhân
cách trẻ.
2.2. Sự phát triển nhân cách
Cá nhân hoạt động và giao tiếp trong các mối quan hệ xã hội, dưới tác
động chủ đạo của giáo dục sẽ đưa tới hình thành một cấu trúc nhân cách tương
đối ổn định và đạt tới một trình độ phát triển nhất định. Trong quá trình sống,
lOMoARcPSD| 36817126
21
nhân cách tiếp tục biến đổi và hoàn thiện dần thông qua việc cá nhân tự ý thức,
tự rèn luyện, tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của mình ở trình độ cao hơn,
đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống, của xã hội. Mặt khác,
trong cuộc sống, ở những thời điểm nhất định, vào những hoàn cảnh cụ thể,
trong những bước ngoặt của cuộc đời, hoặc có những mâu thuẫn gay gắt giữa cá
nhân và xã hội, cá nhân có thể có những chệch hướng trong sự biến đổi những
nét nhân cách so với chuẩn mực chung, thang giá trị chung của xã hội. Điều đó
có thể dẫn đến sự phân li, suy thoái nhân cách, khi đó cá nhân phải có thái độ lựa
chọn, tự điều khiển, tự điều chỉnh, tự rèn luyện theo những chuẩn mực chân
chính, phù hợp với quy luật khách quan của xã hội.
CHƯƠNG III: LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Trong thực tế, 5 yếu tố trên không tác động một cách riêng rẽ chúng
cùng tác động vào shình thành phát triển nhân cách. Hoàn thiện nhân cách
vừa nhu cầu của nhân, vừa yêu cầu khách quan của hội. Nhận thấy được
tầm quan trọng của tâm nhân cách nên ngày nay vấn đề giáo dục, bồi ỡng
tâm lý nhân cách rất được gia đình, nhà trường và xã hội quan tâm, chú trọng, vì
trẻ em ngay từ khi còn nhỏ đã bắt đầu hình thành nhân cách.
Liên hệ với đất nước ta, đất nước ta đang trong quá trình đổi mới kinh tế,
phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trong những năm qua, chúng ta đã đạt
được những thành tựu đáng kể trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều đó tác
động đến mỗi thành viên trong hội, làm phong phú đa dạng thêm đồng thời
cũng phức tạp thêm lối sống của mỗi người, đặc biệt ảnh hưởng đến sự hình thành
và phát triển nhân cách của lớp trẻ.
Thực tiễn cho thấy trong mấy năm gần đây, thang giá trị của xã hội đang có
sự thay đổi nhanh chóng. Chính sự thay đổi một số giá trị dẫn đến sự thay đổi đặc
điểm nhân cách của tuổi trẻ Việt Nam trong thời kỳ mới. Định hướng giá trị yếu
22
tố quan trọng nhất của cấu trúc bên trong nhân cách. Chúng ta đang trong quá
trình vận động và chuyển đổi trên mọi lĩnh vực.
vậy, không thể không sự chuyển đổi thang giá trị, biểu định hướng
giá trị trong việc kế thừa duy trì các giá trị truyền thống và hình thành những
giá trị chuẩn mực mới, tiếp cận thời đại. Những giá trị truyền thống gia đình, tình
nghĩa, đề cao cái tâm, chữ tín đạo hiếu, lễ nghĩa vẫn được duy trì nhằm hạn
chế, khắc phục tính ích kỷ, thờ ơ thậm chí là lạnh lùng của một số người dưới tác
động của cơ chế thị trường.
Tính cộng đồng vẫn được quan tâm nhưng bên cạnh đó một số giá trị phẩm
chất cá nhân ngày càng được đề cao như: Học vấn, sức khoẻ, sáng tạo, tự lập, t
trọng, tinh thần khám phá, chí tiến thủ,… Mục tiêu, yêu cầu của hình nhân
cách tuổi trẻ Việt Nam cần phải sự kết hợp những giá trị chuẩn mực truyền
thống và mô hình phát triển của con người Việt Nam XHCN
lOMoARcPSD| 36817126
23
KẾT LUẬN
Có thể thấy, các yếu tố như sinh thể, môi trường, giáo dục, hoạt động và
giao tiếp có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Tuy
nhiên, mỗi nhân tố lại có những ảnh hưởng khác nhau đến sự hình thành nhân
cách.
Qua những phân tích trên có thể thấy, hoạt động cá nhân là yếu tố tác
động trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách. C.Mác đã chứng minh
cho chúng ta thấy mối quan hệ biện chứng giữa sự biến đổi môi trường xung
quanh con người, sự biến đổi bản chất con người và vai trò tích cực, năng động
của con người. Theo Mác, môi trường, giáo dục không phải là sự tác động bên
ngoài vào sự hình thành những phẩm chất nào đó của con người mà là quá trình
tự biến đổi con người.
C.Mac đã khẳng định: “Hoàn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực
con người sáng tạo ra hoàn cảnh”.
Có thể thấy, sự hình thành và phát triển nhân cách vẫn luôn là vấn đề được
xã hội dành sự quan tâm rất nhiều. Mà nhân cách lại bị ảnh hưởng chi phối của
nhiều yếu tố. Nên việc phân tích, tìm hiểu vai trò của các yếu tố tác động đến sự
hình thành và phát triển nhân cách có ý nghĩa vô cùng lớn không chỉ ở phương
diện lý luận, nghiên cứu tâm lý học mà còn cả ở trong thực tiễn.
DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình Tâm lý học đại cương, Nguyễn Xuân Thức (chủ biên), NXB ĐH
Sư Phạm
2. Tâm lý học nhân cách, Nguyễn Ngọc Bích (1996)
3. Sức mạnh của nhân cách, Nguyễn Minh (biên dịch), NXB Thanh niên
4. Các học thuyết tâm lý nhân cách, Th.S Nguyễn Thơ Sinh, NXB Lao Động
| 1/23

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN TIỂU LUẬN MÔN:
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG Đề bài
Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành
và phát triển nhân cách
Họ và tên: Nguyễn Trần Thảo Nhi Lớp: Chính sách công K39 Mã sinh viên: 1955360023 Tháng 9 năm 2019 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3
NỘI DUNG ....................................................................................................... 5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN CÁCH ........................ 5
1.1. Một số khái niệm cơ bản .......................................................................... 5
1.2. Sự phát triển nhân cách ........................................................................... 8
CHƯƠNG II: NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH . 8
VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH ...................................................................... 8
2.1. Các yếu tố hình thành nhân cách ........................................................... 9
2.2. Sự phát triển nhân cách ......................................................................... 20
CHƯƠNG III: LIÊN HỆ THỰC TIỄN .......................................................... 21
KẾT LUẬN..................................................................................................... 23
DANH MỤC THAM KHẢO ......................................................................... 23 2 lOMoAR cPSD| 36817126 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân cách là một trong những yếu tố chúng ta thường nhắc đến khi xem xét
hay đánh giá về một con người. Nó như là tiền đề để ta nhìn nhận giá trị , bản chất
của người đó. Bởi khi nhận thức được bản chất của một người ta sẽ có cơ sở quyết
định mối quan hệ với người đó. Vì vậy sự hình thành, phát triển và hoàn thiện
nhân cách con người là rất quan trọng và luôn được quan tâm trong xã hội. Tuy
nhiên chúng ta đều biết rằng nhân cách không phải ngay từ khi sinh ra đã có.
Không ai nói đến nhân cách với một đứa trẻ mới sinh. Nhân cách là cấu tạo mới
do từng người tự hình thành nên và phát triển trong quá trình sống, giao tiếp, học
tập, lao động, hoạt động xã hội, vui chơi… Nhân cách không có sẵn bằng cách
bộc lộ dần dần các xung động bản năng nguyên thuỷ mà một lúc nào đó bị kiềm
chế, chèn ép. Theo đó, nhân cách là đặc trưng xã hội, là “phẩm chất xã hội” của con người.
Nhằm góp phần làm rõ về nhân cách, em quyết định chọn đề tài “Những yếu
tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách” làm hướng nghiên cứu
môn Tâm lý học đại cương. Do kiến thức về lý luận và thực tiễn của em còn nhiều
thiếu sót, rất mong thầy cô góp ý để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2. Mục đích nghiên cứu
- Đưa ra cơ sở lý luận chung về nhân cách
- Phân tích và làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
- Liên hệ cơ sở lý thuyết về nhân cách đến thực tiễn
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển
- Phạm vi nghiên cứu: Về nhân cách con người
4. Bố cục bài nghiên cứu
Chương I: Cơ sở lý luận chung về nhân cách 3
Chương II: Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Chương III: Liên hệ thực tiễn 4 lOMoAR cPSD| 36817126 NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN CÁCH
1.1. Một số khái niệm cơ bản
Nhân cách là một vấn đề trung tâm của tâm lý học (TLH). Là tổ hợp những
đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội
của con người. Do yêu cầu, mục đích và nội dung nghiên cứu của mình, mà các
nhà tâm lí học đã sử dụng các thuật ngữ khác như cá nhân, cá tính hay chủ thể để
chỉ con người. Nhưng mỗi khái niệm có nội hàm riêng. Để hiểu định nghĩa nhân
cách, trước hết cần phân biệt các khái niệm nêu trên
1.1.1. Khái niệm con người.
Trong quan niệm của Triết học Mác-Lênin , con người là một thực thể trong
sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người sinh ra từ tự
nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại và phát triển
gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Về mặt sinh học, con người thuộc lớp động vật có vú, có dáng đứng
thẳng, có đôi bàn tay là công cụ nhận thức và lao động, có bộ óc người phát triển
cực kì cao và tinh vi, là thực thể sinh vật, con người chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên.
Nhưng cái sinh vật trong con người không thuần tuý là cái sinh vật, cái tự
nhiên bởi nó bị cái xã hội quy định một cách trực tiếp. C. Mác viết: “Con người
không phải chỉ là thực thể tự nhiên. Nó là thực thể tự nhiên có tính người”.
Về mặt xã hội, con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể của các
quan hệ xã hội, có khả năng kế thừa nền văn minh nhân loại.
Trong Luận cương về Phoi – ơ – bắc (1845), C.Mác đã đưa ra một luận
điểm nổi tiếng: "Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu 5
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hoà những quan hệ xã hội" (1).
Với quan niệm đó, C.Mác chỉ ra rằng bản chất con người không phải là trừu
tượng mà là hiện thực, không phải tự nhiên mà là lịch sử. Con người là một thực
thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là
bản chất đích thực của con người. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm
biến đổi tự nhiên, xã hội, biến đổi chính bản thân mình và đã làm nên lịch sử của
xã hội loài người. Vạch ra vai trò của mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành bản
chất của con người, quan hệ giữa cá nhân và xã hội là một cống hiến quan trọng
của triết học Mác – xít.
Tuy nhiên, sự phát triển của con người chủ yếu bị chi phối bởi quy luật xã
hội. Con người là một chủ thể có ý thức và đây chính là điểm khác nhau cơ bản
nhất giữa con người với con vật. Về vấn đề này C. Mác đã viết: “Con người chỉ
khác con vật ở hiện tượng duy nhất là trong con người có ý thức thay thế bản
năng”. Cũng có thể định nghĩa, con người là một thực thể sinh vật - xã hội và văn hoá.
Còn về khái niệm cá nhân, chúng ta hiểu một cách đơn giản là từ chỉ đại
diện của một loài. Có thể nói cá thể động vật, cá thể người, tuy nhiên cá thể
người còn có thể gọi cách khác là cá nhân.
Như vậy, cá nhân là thuật ngữ chỉ một con người với tư cách đại diện loài
người. Nói đến cá nhân là nói đến một con người cụ thể của một cộng đồng, là
thành viên của xã hội và để phân biệt nó với cá nhân khác, với cộng đồng.
Về chủ thể, là khi cá nhân thực hiện một hoạt động nhất định một cách có
ý thức và có mục đích, nhận thức và cải tạo thế giới xung quanh trong quá trình
hoạt động đó, thì được gọi là chủ thể.
1.1.2. Khái niệm nhân cách
Nhân cách là vấn đề được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau thuộc
nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau, trong đó có ngành khoa học Tâm lý. 6 lOMoAR cPSD| 36817126
Đây là vấn đề rất phức tạp nên ngay trong Tâm lí học cũng có nhiều định nghĩa
và quan niệm khác nhau về nhân cách. Ngay từ năm 1927, G.W, Allport đã dẫn
ra gần 50 định nghĩa khác nhau của các nhà tâm lý học về nhân cách và hiện nay
có rất nhiều lí thuyết khác nhau về nhân cách trong khoa học Tâm lí.
Các nhà tâm lý học cho rằng, khái niệm nhân cách là một phạm trù xã hội,
có bản chất xã hội - lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách là nội dung của
những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội cụ thể chuyển vào thành đặc điểm
nhân cách của từng người.
Theo A.G. Covaliôv: “Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một vị
trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định”. Còn
theo E.V. Sorokhôva lại cho rằng “Nhân cách là con người với tư cách là kẻ
mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lí, quy định hình thức của hoạt động
và hành vi có ý nghĩa xã hội”. Một nhà tâm lý học khác đã đưa ra định nghĩa:
“Nhân cách là hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân thể hiện những
phẩm chất bên trong của cá nhân, mối quan hệ qua lại của cá nhân với các cá
nhân khác, với tập thể, xã hội, với thế giới xung quanh và mối quan hệ của cá
nhân với công việc trong quá khứ, hiện tại và tương lai”.
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể rút ra định nghĩa chung về nhân cách:
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân, quy
định hành vi xã hội và giá trị xã hội của cá nhân đó.
Như vậy, nhân cách là sự tổng hoà không phải các đặc điểm cá thể của con
người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của
xã hội, nói lên bộ mặt tâm lí – xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá
nhân. Những thuộc tính tâm lí tạo thành nhân cách thường biểu hiện trên ba cấp
độ: cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ biểu hiện ra hoạt
động và các sản phẩm của nó. 7
1.2. Sự phát triển nhân cách
CHƯƠNG II: NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH 8 lOMoAR cPSD| 36817126
Theo quan điểm tâm lí học Mácxít, không phải con người mới được sinh
ra đã có sẵn nhân cách và cũng không phải nó được bộc lộ dần dần từ các bản
năng nguyên thuỷ. Nhân cách là một cấu tạo tâm lí mới được hình thành và phát
triển trong quá trình sống, hoạt động và giao tiếp của mỗi người. V.I. Lênin đã
khẳng định: “Cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thu tâm lí, đạo đức của xã
hội mà nó là thành viên”. Nhà tâm lí học Xô viết nổi tiếng A.N. Lêộnchiép cũng
chỉ ra rằng: Nhân cách cụ thể là nhân cách con người sinh thành và phát triển
theo con đường từ bên ngoài chuyển vào nội tâm, từ các quan hệ với thế giới tự
nhiên, thế giới đồ vật, nền văn hoá xã hội do các thế hệ trước tạo ra, các quan hệ
xã hội mà nó gắn bó. Trong quá trình hình thành, nhân cách bị chi phối bởi nhiều
yếu tố: yếu tố sinh thể, môi trường xã hội, giáo dục và tự giáo dục, hoạt động, giao tiếp.
2.1. Các yếu tố hình thành nhân cách
2.1.1. Yếu tố sinh thể
Không thể có nhân cách trừu tượng ở bên ngoài một con người bằng xương,
bằng thịt mà là nhân cách của một con người cụ thể sống trong một xã hội cụ thể.
Ngay từ lúc trẻ em ra đời đều có những đặc điểm hình thái - sinh lí của con người
bao gồm các đặc điểm bẩm sinh và di truyền. Những thuộc tính sinh. học có ngay
từ lúc đứa trẻ mới sinh gọi là những thuộc tính bẩm sinh. Những đặc điểm, những
thuộc tính sinh học của cha, mẹ được ghi lại trong hệ thống gen truyền lại cho con
cái được gọi là di truyền. Nói một cách dễ hiểu, di truyền là sự tái tạo ở trẻ em
những thuộc tính sinh học nhất định, giống với cha mẹ, thông qua hệ thống gen.
Ví dụ: Cha mẹ có tóc đen và mắt nâu thì con cái sẽ có tóc đen hoặc mắt nâu
hay cả 2, chứ không thể có tóc vàng và mắt xanh được (1). Chỉ có một số ít trường
hợp biến đổi gen thì mới có trường hợp (1) xảy ra. 9
Những yếu tố được di truyền này bao gồm: Cấu trúc giải phẫu cơ thể, màu da,
màu tóc, vóc dáng, thể trạng, các tư chất của hệ thần kinh… Những yếu tố này
góp phần nảy sinh ra nhân cách, được coi là tiền đề tiền đề vật chất (mầm mống)
của sự phát triển tâm lý, nhân cách của con người.
Bẩm sinh – di truyền là những đặc điểm giải phẫu sinh lí của hệ thần kinh
và các cơ quan cảm giác, vận động. Đối với mỗi cá thể khi ra đời đã nhận được
một số đặc điểm về cấu tạo và chức năng của cơ thể từ các thế hệ trước theo con
đường di truyền trong đó có các giác quan và não. Bất cứ một chức năng tâm lí
nào mang bản chất con người của nhân cách chỉ có thể được phát triển trong hoạt
động của bản thân đó và trong điều kiện của xã hội loài người. Thực tế mọi cơ thể
bình thường đều có thể phát triển tốt đẹp đời sống tinh thần của mình.
Ngoài ra, sự tác động của yếu tố di truyền đối với từng giai đoạn phát triển
lứa tuổi và từng hoạt động cụ thể là khác nhau. Thực ra, ngay ở cấp độ sinh học,
sự phong phú, đa dạng của nhân cách cũng đã được thể hiện. Khi sinh ra, mỗi
người đã có một bộ gen riêng của mình mà rất hiếm khi trùng với người khác. Do
vậy, mỗi người có khí chất, thiên hướng, khả năng tư duy…. hết sức khác nhau.
Vậy, yếu tố sinh học này có vai trò như thế nào đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách? Theo quan điểm tâm lí học Mácxít thì di truyền với các
đặc điểm sinh học nêu trên không quyết định chiều hướng cũng như giới hạn
phát triển của nhân cách con người. Nhưng bẩm sinh – di truyền vẫn đóng vai
trò đáng kể trong sự hình thành phát triển tâm lí nhân cách. Chính nó tham gia
vào sự tạo thành cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lí – những đặc điểm giải 10 lOMoAR cPSD| 36817126
phẫu và sinh lí của cơ thể, trong đó có hệ thần kinh. Qua đó, ta có thể khẳng
định vai trò tiền đề vật chất của yếu tố di truyền với sự hình thành và phát triển và phát triển nhân cách
Tuy nhiên cần chú ý, yếu tố di truyền bẩm sinh không quyết định nhân cách
mà nó chỉ tạo điều kiện thuận lợi hay khó khăn cho quá trình hình thành nhân
cách. Nên cần chú ý đúng mức vai trò của di truyền, không nên coi nhẹ hoặc đánh
giá quá cao vai trò của nhân tố này.
Ví dụ: Tại sao lại có từ “con nhà nòi”?
Bởi ví dụ trong gia đình nhiều người giỏi về nghệ thuật thì đứa trẻ cũng sẽ
có thiên hướng nghệ thuật. Đó cũng là tiền đề quá trình hình thành nhân cách theo
bẩm sinh di truyền. Nếu như trong gia đình, cha và mẹ đều là người tài giỏi thì đó
là yếu tố giúp con mình noi theo.
Tuy nhiên, để kế thừa và phát huy hết yếu tố di truyền của bố hoặc mẹ về
nghệ thuật, thì bạn nhỏ cần phải có sự tác động của những yếu tố bên ngoài khác
như có điều kiện tiếp xúc, yêu thích nghệ thuật và bản thân em phải tích cực trau
dồi, học hỏi thì mới có thể trở thành nghệ sĩ còn nếu bản thân không tích cực thì
sẽ không thể trở thành một người nghệ sỹ. 11
2.1.2. Yếu tố môi trường
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và
xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người.
Có thể phân thành hai loại: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Môi trường tự nhiên: Gồm khí hậu, đất, nước, sinh thái phục vụ cho học
tập, lao động, rèn luyện sức khỏe, vui chơi giải trí.. .
Môi trường xã hội: Gồm các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa…
Về môi trường tự nhiên,
Những điều kiện tự nhiên quy định đặc điểm của phương thức hoạt động
của con người trong tự nhiên và một số nét riêng trong phạm vi sáng tạo nghệ
thuật. Qua đó quy định các giá trị vật chất và tinh thần ở một mức độ nhất định.
Hay có thể nói tâm lý dân tộc mang dấu ấn của hoàn cảnh tự nhiên thông qua khâu
trung gian là phương thức sống. Ngay cả nhiều phong tục tập quán suy cho cùng
cũng đều có nguồn gốc từ điều kiện và hoàn cảnh sống tự nhiên. Nhân cách như
là một thành viên xã hội chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những
giá trị vật chất và tinh thần, qua phong tục tập quán của dân tộc, của địa phương,
của nghề nghiệp - những cái vốn có liên hệ với điều kiện tự nhiên ấy và qua
phương thức sống của chính bản thân nó. 12 lOMoAR cPSD| 36817126
Ví dụ: Sinh ra trên những mảnh đất có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt,
quanh năm hứng chịu bão lụt, hạn hán kéo dài, vì vậy người miền Trung được
biết đến nhờ bản chất cần cù, chịu thương, chịu khó. Tuy nhiên, cũng do những
điều kiện không mấy thuận lợi của môi trường tự nhiên, mà con người miền
Trung có phần hơi nóng nảy trong tính cách. Bởi nghèo khổ là nỗi buồn ám ảnh
và gay gắt nhất. Vì thế, con người miền Trung luôn là những con người dễ cáu
gắt, bực tức, họ sống trong sự đe dọa thường trực do lũ lụt, thiên tai gây ra. Hơn
thế, điều kiện tự nhiên cũng đã hun đúc nên bản chất cần kiệm, tích góp của con
người nơi đây. Họ luôn hướng đến cách sống “ăn chắc, mặc bền”.
Từ đó, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, môi trường xã hội cũng đóng
vai trò khá quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách, tính cách của mỗi con người.
Về môi trường xã hội
Môi trường xã hội là toàn bộ các mối quan hệ xã hội mà con người sống và
tiếp xúc. Nó có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý nhân cách. Vì nếu không có
sự tiếp xúc với con người thì cá thể lớn lên và phát triển trong trạng thái động vật,
nó không thể trở thành một con người, một nhân cách. Có nghĩa là đứa trẻ muốn 13
trở thành nhân cách phải có sự tiếp xúc với người lớn để nắm vững tri thức, kinh
nghiệm lịch sử xã hội, để được chuẩn bị bước vào cuộc sống và lao động trong
văn hóa của thời đại. có thể nói nhân cách là một sản phẩm của xã hội.
Quan hệ sản xuất quy định nội dung của nhiều nét tâm lý cơ bản của nhân
cách. Ngoài ra tâm lý nhân cách phụ thuộc vào quan hệ chính trị và pháp luật. Vị
trí giai cấp của cá nhân sẽ kích thích tính tích cực của nó ở mức độ này mức độ
khác trong vai trò xã hội.
Trong tất cả những mối quan hệ xã hội được nêu ở trên, nhân cách không
chỉ là một khách thể mà còn là một chủ thể. Cá nhân là một tồn tại có ý thức, nó
có thể lựa chọn phương thức sống của mình và do đó nó lựa chọn những phản ứng
khác nhau trước tác động của hoàn cảnh xã hội. Dư luận được hình thành thầm
lặng hoặc có ý thức. Có thể đóng vai trò tích cực hay tiêu cực trong đời sống được
bắt nguồn từ sự kiện thực hay bịa đặt. Nó nảy sinh, phát triển trên tâm trạng xã
hội và có ảnh hưởng trở lại tâm trạng đó.
Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của môi trường đối với nhân cách: Một môi
trường xã hội lành mạnh, như nền dân chủ, các quan hệ xã hội, điều kiện văn hoá
- tinh thần của xã hội có sự phát triển hài hoà… thì sẽ tạo điều kiện cho tính tích
cực của nhân cách phát huy.
Ngược lại, tính tích cực xã hội của nhân cách sẽ bị thui chột đi, nếu môi
trường xã hội không tạo điều kiện cho nó bộc lộ. Trong một chừng mực nào đó,
điều này không những làm cho nhân cách bị nghèo nàn, mà còn có thể dẫn tới sự phá vỡ nhân cách.
Ví dụ: Trường hợp cô Kamala được chó sói nuôi từ nhỏ. Khi được đưa ra
khỏi rừng, cô đã 12 tuổi. Bình thường, cô ngủ trong xó nhà, đêm đến thì tỉnh táo
và đôi khi sủa lên như chó rừng. Cô đi lại bằng hai chân, nhưng khi bị đuổi thì
chạy bằng bốn chi khá nhanh.
Người ta dạy nói cho Kamala trong bốn năm, nhưng cô chỉ nói được hai từ.
Cô không thể thành người và chết ở tuổi 18. Người ta đã được biết trên 30 trường hợp như vậy. 14 lOMoAR cPSD| 36817126
Qua ví dụ trên, chúng ta có thể thấy hoàn cảnh sống là một môi trường nhỏ,
tuy nhiên nó lại có sự tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến sự hình thành và phát
triển nhân cách cá nhân của mỗi con người. Trong đó, môi trường xã hội có ý
nghĩa hết sức to lớn và quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.
2.1.3. Yếu tố giáo dục và tự giáo dục
Theo quan điểm của tâm lý học và giáo dục học hiện đại thì giáo dục giữ
vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách. Giáo dục là một hoạt động chuyên
môn của xã hội nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người theo những
yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong tâm lý học, giáo dục thường được hiểu như là quá trình tác động có
ý thức, có mục đích và có kế hoạch về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi trong tập
thể trẻ em và học sinh, trong gia đình và cơ quan giáo dục ngoài nhà trường.
Nhưng thực ra giáo dục còn có nghĩa rộng hơn, giáo dục bao gồm cả việc dạy học
cùng với hệ thống các tác động sư phạm khá, trực tiếp hoặc gián tiếp trong lớ và
ngoài lớp, trong trường và ngoài trường, trong gia đình và ngoài xã hội. Vai trò
chủ đạo của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ
được thể hiện ở những điều sau đây:
Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách
của học sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo chiều hướng đó.
Giáo dục có thể mang lại những cái mà các yếu tố bẩm sinh - di truyền hay
môi trường tự nhiên không thể đem lại được. Chẳng hạn, nếu đứa trẻ sinh ra không
bị khuyết tật thì theo sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể, đến một giai đoạn
nhất định đứa trẻ sẽ biết nói. Nhưng muốn biết đọc được thì cần phải có sự tác động của giáo dục.
Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật đem lại cho con người.
Ví dụ: giáo dục trẻ em bị khuyết tật có thể được phục hồi những chức năng đã
mất, hoặc có thể phát triển tài năng và trí tuệ một cách bình thường.
Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu do tác động tự phát
của môi trường gây nên và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn 15
của xã hội. Chẳng hạn như giáo dục trẻ em hư hoặc cải tạo lao động đối với người phạm pháp.
Giáo dục có thể đi trước hiện thực , trong khi tác động tự phát của xã hội
chỉ ảnh hưởng tới cá nhân ở mức độ hiện có của nó. Chẳng hạn, mục tiêu giáo dục
của chúng ta là xây dựng những con người mới xã hội chủ nghĩa. Những công
trình nghiên cứu về tâm lý học và giáo dục học hiện đại đã chứng minh rằng sự
phát triển tâm lý của trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong điều kiện của
sự dạy học và giáo dục.
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách, song không nên tuyệt đối hoá vai trò của giáo dục. Tuy nhiên, giáo dục
không phải là vạn năng, bởi vì giáo dục chỉ vạch ra phương hướng cho sự hình
thành và phát triển nhân cách và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển theo
hướng đó. Còn cá nhân có phát triển theo hướng đó hay không và phát triển đến
trình độ nào thì giáo dục không quyết định trực tiếp được, cái quyết định trực
tiếp lại chính là hoạt động và giao tiếp của mỗi cá nhân. Do đó, cần phải tiến
hành giáo dục trong mối quan hệ hữu cơ với việc tổ chức hoạt động, tổ chức
quan hệ giao tiếp, hoạt động cùng nhau trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ
nhóm và tập thể. Đặc biệt, con người là thực thể tích cực, có thể tự hình thành và
biến đổi nhân cách của mình một cách có ý thức, có khả năng tự cải tạo chính
bản thân mình, có nhu cầu tự khẳng định, tự ý thức, tự điều chỉnh cho nên con
người có hoạt động tự giáo dục. Hoạt động này là quá trình con người biết tự
kiềm chế mình, biết hướng nhu cầu, hứng thú, giá trị của mình cho phù hợp với
những chuẩn mực đạo đức, giá trị của xã hội. Vì vậy, giáo dục không được tách
rời với tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách ở mỗi cá nhân.
2.1.4. Yếu tố giao tiếp
Nhà tâm lý học Xô Viết B.Ph.Lomov cho rằng “khi chúng ta nghiên cứu lối
sống của một cá nhân cụ thể, chúng ta không thể chỉ giới hạn ở sự phân tích xem
nó làm cái gì và như thế nào, mà còn phải nghiên cứu xem nó giao tiếp với ai và 16 lOMoAR cPSD| 36817126
như thế nào”. Vì thế cùng với hoạt động có đối tượng, giao tiếp có một vai trò
quan trọng cơ bản trong việc hình thành và phát triển nhân cách.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người, là nhu cầu
cơ bản xuất hiện sớm nhất ở con người. Nhu cầu giao tiếp là một trong những nhu
cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất ở con người. Thực tế chứng minh những
trường hợp do động vật nuôi đã mất bản tính người , mất nhân cách và chỉ còn lại
những điểm tâm lý, hành vi của con vật. Đã có nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra
rằng sự giao tiếp quá hạn chế, nghèo nàn đã dẫn đến những hậu quả nặng nề là dễ
mắc bệnh “đói giao lưu do nằm viện lâu ngày” (hospitalism).
Nhờ giao tiếp, con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn
hóa xã hội, chuẩn mực xã hội “ tổng hòa các quan hệ xã hội” làm thành bản chất
con người, đồng thời thông qua giao tiếp con người đóng góp tài lực của mình vào
kho tàng chung của nhân loại, của xã hội. Trong giao tiếp con người không chỉ
nhận thức người khác, nhận thức các quan hệ xã hội mà còn nhận thức được chính
bản thân mình, tự đối chiếu so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội,
tự đánh giá bản thân mình như một nhân cách để hình thành một thái độ giá trị
cảm xúc nhất định đối với bản thân. Hay qua giao tiếp con người hình thành năng lực tự ý thức.
Ví dụ: Khi giao tiếp thì ta sẽ biết được cách thức giao tiếp của người đó. Từ
đó hình thành khả năng giao tiếp riêng cho bản thân mình. Khi mình giao tiếp với
nhiều đối tượng, với nhiều người thì ta sẽ rút ra được nhiều kinh nghiệm cho việc giao tiếp của mình.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối
quan hệ người – người, là nhân tố cơ bản của việc hình thành và phát triển tâm
lí, ý thức, nhân cách. Giao tiếp và hoạt động của con người chỉ có thể diễn ra
trong cộng đồng, trong nhóm và tập thể.
Con người là một thực thể xã hội. Nhân cách của nó được hình thành và
phát triển chỉ trong một môi trường xã hội cụ thể nhất định mà con người đang 17
sống và hoạt động. Môi trường đó gồm gia đình, làng xóm, phố phường, nhà
trường, các nhóm xã hội, các cộng đồng và các tập thể (Đội Nhi đồng, Đội Thiếu
niên, Đoàn Thanh niên...) mà nó là thành viên. Vậy thế nào là nhóm và thế nào là tập thể?
Nhóm là một tập hợp người được thống nhất lại theo những mục đích
chung. Tuỳ theo tiêu chuẩn phân loại mà người ta phân thành nhóm nhỏ và
nhóm lớn; nhóm chính thức và nhóm không chính thức; nhóm thực và nhóm quy
ước... Nhóm có thể phát triển thành tập thể. Tập thể là một nhóm người, là một
bộ phận của xã hội, được thống nhất lại theo những mục đích chung, tuân theo
các mục đích của xã hội. Như vậy, trong nhà trường phổ thông, một học sinh có
thể là thành viên của nhiều nhóm hay nhiều tập thể khác nhau.
Nhóm và tập thể có vai trò to lớn trong việc hình thành và phát triển nhân
cách. Trong nhóm và tập thể, mỗi cá nhân có điều kiện thuận lợi nhất để hoạt
động cùng nhau (vui chơi, học tập, lao động...) để tiếp xúc trực tiếp với nhau và
trên cơ sở đó thiết lập các quan hệ giữa cá nhân này với cá nhân khác, giữa
nhóm này với nhóm khác. “Sự phong phú thực sự về mặt tinh thần của cá nhân
hoàn toàn phụ thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ hiện thực của họ”.
Vì thế, các ảnh hưởng của xã hội, các mối quan hệ xã hội thông qua các nhóm
và tập thể tác động đến từng cá nhân. Ngược lại, mỗi cá nhân tác động đến cộng
đồng, đến xã hội, đến cá nhân khác cũng thông qua các nhóm và tập thể mà nó là thành viên.
Tác động của nhóm và tập thể đến nhân cách các hoạt động cùng nhau,
qua dư luận tập thể, truyền thông tập thể, qua các phong trào thi đua, qua các
hình thức hội họp, sinh hoạt câu lạc bộ... Vì vậy, vận dụng nguyên tắc giáo dục
trong tập thể và bằng tập thể đặc biệt có ý nghĩa trong việc hình thành và phát
triển nhân cách. . Tóm lại bốn yếu tố: sinh thể, môi trường xã hội, giáo dục và tự
giáo dục, hoạt động và giao tiếp đều tác động đến sự hình thành và phát triển
nhân cách, nhưng có vai trò không giống nhau. Theo quan điểm tâm lí học 18 lOMoAR cPSD| 36817126
mácxít, yếu tố sinh thể giữ vai trò làm tiền đề yếu tố môi trường xã hội có vai trò
quyết định; yếu tố giáo dục và tự giáo dục giữ vai trò chủ đạo; yếu tố hoạt động
và giao tiếp của cá nhân có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.
2.1.5. Hoạt động cá nhân:
Hoạt động là sự tác động qua lại có định hướng giữa con người với thế
giới xung quanh, hướng tới biến đổi nó nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Con
đường tác động có mục đích, tự giác của xã hội bằng giáo dục đến thế hệ trẻ sẽ
không có hiêu quả nêu như bản thân cá nhân học sinh không tiếp nhận, không
hương ứng những tác động đó, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm
phát triển tâm lý, hình thành nhân cách. Bởi vậy, hoạt động chủ đạo đóng vai trò
chủ yếu trong sự hình thành và phát triển nhân cách so với các loại hoạt động khác của cá nhân.
Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật về sự tự thân vận động, về động
lực bên trong của sự phát triển nói chung. Hoạt động của cá nhân nhằm để thỏa
mãn những nhu cầu tự nhiên hay nhu cầu xã hội,vật chất hay tinh thần của đời
sống riêng hay đời sống xã hội là những biểu hiện phong phú về tính tích cực
của nhân cách. Hoạt động là phương thức tồn tại của con người,là nhân tố quyết
định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là
hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, cộng đồng, được thực hiện bằng
những thao tác nhất định,với những công cụ nhất định. Thông qua hai quá trình
đối tượng hóa và chủ thể hóa trong hoạt động và nhân cách được bộc lộ và hình
thành. Con người lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử bằng hoạt động của bản
thân để hình thành nhân cách.
Muốn hình thành nhân cách, con người phải tham gia vào các dạng hoạt
động khác nhau, trong đó đặc biệt chú ý tới hoạt đồng chủ đạo. Phải lựa chọn, tổ
chức và hướng dẫn các hoạt động đảm bảo tính giáo dục và hiệu quả đối với việc
hình thành và phát triển nhân cách. 19
Việc đánh giá hoạt động là rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách.
Việc đánh giá sẽ chuyển dần thành tự đánh giá, giúp con người thấm nhuần những
chuẩn mực, những biểu giá trị xã hội, trở thành lương tâm của con người.
Ví dụ: Cách dễ nhất để kết hợp cả việc học và chơi với nhau là nên thông
qua những hoạt động hàng ngày của trẻ em.
+Trẻ có thể học được rất nhiều bài học thông qua việc phân loại quần áo
như phân biệt kích cỡ quần áo lớn nhỏ, màu sắc quần áo, kiểu quần áo. Ngược lại
nếu trẻ không tham gia vui chơi với bạn bè, không bắt chước những hành vi, cách
xử sự của người lớn, không học tập thì trẻ sẽ không thể phát triển đầy đủ những
phẩm chất và năng lực của nhân cách. Vì vậy, người lớn cần phải hướng dẫn, tổ
chức trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động để giúp hình thành và phát triển nhân cách trẻ.
2.2. Sự phát triển nhân cách
Cá nhân hoạt động và giao tiếp trong các mối quan hệ xã hội, dưới tác
động chủ đạo của giáo dục sẽ đưa tới hình thành một cấu trúc nhân cách tương
đối ổn định và đạt tới một trình độ phát triển nhất định. Trong quá trình sống, 20 lOMoAR cPSD| 36817126
nhân cách tiếp tục biến đổi và hoàn thiện dần thông qua việc cá nhân tự ý thức,
tự rèn luyện, tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của mình ở trình độ cao hơn,
đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống, của xã hội. Mặt khác,
trong cuộc sống, ở những thời điểm nhất định, vào những hoàn cảnh cụ thể,
trong những bước ngoặt của cuộc đời, hoặc có những mâu thuẫn gay gắt giữa cá
nhân và xã hội, cá nhân có thể có những chệch hướng trong sự biến đổi những
nét nhân cách so với chuẩn mực chung, thang giá trị chung của xã hội. Điều đó
có thể dẫn đến sự phân li, suy thoái nhân cách, khi đó cá nhân phải có thái độ lựa
chọn, tự điều khiển, tự điều chỉnh, tự rèn luyện theo những chuẩn mực chân
chính, phù hợp với quy luật khách quan của xã hội.
CHƯƠNG III: LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Trong thực tế, 5 yếu tố trên không tác động một cách riêng rẽ mà chúng
cùng tác động vào sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoàn thiện nhân cách
vừa là nhu cầu của cá nhân, vừa là yêu cầu khách quan của xã hội. Nhận thấy được
tầm quan trọng của tâm lý nhân cách nên ngày nay vấn đề giáo dục, bồi dưỡng
tâm lý nhân cách rất được gia đình, nhà trường và xã hội quan tâm, chú trọng, vì
trẻ em ngay từ khi còn nhỏ đã bắt đầu hình thành nhân cách.
Liên hệ với đất nước ta, đất nước ta đang trong quá trình đổi mới kinh tế,
phát triển công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong những năm qua, chúng ta đã đạt
được những thành tựu đáng kể trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều đó tác
động đến mỗi thành viên trong xã hội, làm phong phú đa dạng thêm đồng thời
cũng phức tạp thêm lối sống của mỗi người, đặc biệt ảnh hưởng đến sự hình thành
và phát triển nhân cách của lớp trẻ.
Thực tiễn cho thấy trong mấy năm gần đây, thang giá trị của xã hội đang có
sự thay đổi nhanh chóng. Chính sự thay đổi một số giá trị dẫn đến sự thay đổi đặc
điểm nhân cách của tuổi trẻ Việt Nam trong thời kỳ mới. Định hướng giá trị là yếu 21
tố quan trọng nhất của cấu trúc bên trong nhân cách. Chúng ta đang trong quá
trình vận động và chuyển đổi trên mọi lĩnh vực.
Vì vậy, không thể không có sự chuyển đổi thang giá trị, biểu định hướng
giá trị trong việc kế thừa và duy trì các giá trị truyền thống và hình thành những
giá trị chuẩn mực mới, tiếp cận thời đại. Những giá trị truyền thống gia đình, tình
nghĩa, đề cao cái tâm, chữ tín và đạo hiếu, lễ nghĩa vẫn được duy trì nhằm hạn
chế, khắc phục tính ích kỷ, thờ ơ thậm chí là lạnh lùng của một số người dưới tác
động của cơ chế thị trường.
Tính cộng đồng vẫn được quan tâm nhưng bên cạnh đó một số giá trị phẩm
chất cá nhân ngày càng được đề cao như: Học vấn, sức khoẻ, sáng tạo, tự lập, tự
trọng, tinh thần khám phá, chí tiến thủ,… Mục tiêu, yêu cầu của mô hình nhân
cách tuổi trẻ Việt Nam cần phải có sự kết hợp những giá trị chuẩn mực truyền
thống và mô hình phát triển của con người Việt Nam XHCN 22 lOMoAR cPSD| 36817126 KẾT LUẬN
Có thể thấy, các yếu tố như sinh thể, môi trường, giáo dục, hoạt động và
giao tiếp có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Tuy
nhiên, mỗi nhân tố lại có những ảnh hưởng khác nhau đến sự hình thành nhân cách.
Qua những phân tích trên có thể thấy, hoạt động cá nhân là yếu tố tác
động trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách. C.Mác đã chứng minh
cho chúng ta thấy mối quan hệ biện chứng giữa sự biến đổi môi trường xung
quanh con người, sự biến đổi bản chất con người và vai trò tích cực, năng động
của con người. Theo Mác, môi trường, giáo dục không phải là sự tác động bên
ngoài vào sự hình thành những phẩm chất nào đó của con người mà là quá trình
tự biến đổi con người.
C.Mac đã khẳng định: “Hoàn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực
con người sáng tạo ra hoàn cảnh”.
Có thể thấy, sự hình thành và phát triển nhân cách vẫn luôn là vấn đề được
xã hội dành sự quan tâm rất nhiều. Mà nhân cách lại bị ảnh hưởng chi phối của
nhiều yếu tố. Nên việc phân tích, tìm hiểu vai trò của các yếu tố tác động đến sự
hình thành và phát triển nhân cách có ý nghĩa vô cùng lớn không chỉ ở phương
diện lý luận, nghiên cứu tâm lý học mà còn cả ở trong thực tiễn. DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình Tâm lý học đại cương, Nguyễn Xuân Thức (chủ biên), NXB ĐH Sư Phạm
2. Tâm lý học nhân cách, Nguyễn Ngọc Bích (1996)
3. Sức mạnh của nhân cách, Nguyễn Minh (biên dịch), NXB Thanh niên
4. Các học thuyết tâm lý nhân cách, Th.S Nguyễn Thơ Sinh, NXB Lao Động 23