Tiểu luận Phân tích cung, cầu, sự can thiệp của chính phủ đối với sữa - Kinh tế vĩ mô | Học viện Hàng Không Việt Nam
Tiểu luận Phân tích cung, cầu, sự can thiệp của chính phủ đối với sữa - Kinh tế vĩ mô | Học viện Hàng Không Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế vi mô (0101000104)
Trường: Học viện Hàng Không Việt Nam
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN HÀNG KHÔNG VIỆT NAM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH TIỂU LUẬN KINH TẾ VI MÔ Đềề tài:
Phân tích cung, cầu, giá cả, thị trường
cân bằng, sự can thiệp của chính
phủ đối với sữa.
GVHD: TRẦN DIỆU HẰNG Lớp: 23ĐAQT01
NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 4
Hồề Chí Minh, ngày 08 tháng 11 năm 2023
Các thành viên trong nhóm
Đặng Viên Nhật Vy – 2334330043 (trưởng nhóm)
Nguyềễn Ngọc Thuỳ Linh – 2334330015
Dương Hà Thuỷ Tiên – 2334330040 Trầền Th C
ị ẩm Trúc – 2334330038
Nguyềễn Mạnh Khôi - 2334330042
Võ Huỳnh Linh – 2334330044
Bài tiểu luận gồm các nội dung: 1.
Phân tích thị trường cung cầu sữa ở Việt Nam 2.
Phân tích giá cả của thị trường sữa Việt Nam 3.
Tình hình cân bằng cung cầu sữa ở thị
trường Việt Nam
4.Các chính sách can thiệp của chính phủ.
I. Phân tích thị trường cung cầu sữa ở Việt Nam
Tổng quan nhu cầu thị trường sữa:
Phân loại người tiêu dùng:
-Trên thị trưởng sữa hiện nay có rất nhiều loại sữa khác nhau, các loại sữa này
cũng rất đa dạng về chủng loại và giá cả phù hợp với nhu cầu và khả năng chi trả
của các nhóm đối tượng khác nhau.
- Đối với thị trường trẻ em chiếm đến 25% tổng dân số cả nước và là đối tượng
khách hàng chính sử dụng sữa nước, vì vậy đây là đối tượng cần hưởng đến nhiều
nhất. - Người lớn (15-59 tuổi) chiếm 66% dân số cả nước - một tỉ lệ khá cao. Đây
là đối tượng lao động có thu nhập và nắm giữ chi tiêu nên là đối tượng quyết định
mua hay quan tâm đến chất lượng và thương hiệu sản phẩm.
- Người già chỉ chiếm 9% dân số - một tỉ lệ khá nhỏ và người già hay sử dụng sữa
bột ít dụng sữa nước, vì vậy đây là đối tượng cần phải làm họ thay đổi được xu hướng tiêu dùng sữa.
Các đặc tính cá nhân:
- Dân thành thị chiếm đến 29.6% dân số cả nước và đang có xu hướng tăng. Mật
độ người dân ở thành thị cao nên rất dễ dàng trong việc phân phối sản phẩm, thu
nhập của người dân thành thị cao hơn nên họ quan tâm đến sức khỏe hơn và
thường sử dụng sữa cho cả nhà.
-Dân nông thôn chiếm một tỉ lệ cao 70,4% dân số cả nước nhưng mức sống của
người dân rất thấp và rất ít khi cho con uống sữa. Mật độ phân bố dân cư so với thành thị là thấp.
-Người bình thường chiếm một tỉ lệ lớn và nhu cầu của họ rất phong phú có thể
uống được nhiều loại sữa đặc biệt trẻ em thích những thứ uống ngọt.
-Người bị bệnh phi tiểu đường - tỉ lệ người bị bệnh này đang có xu hướng ngày
cùng lăng tỉ lệ hiện nay rất lớn đặc biệt là trẻ em. Đối với trẻ em dưới 15 tuổi tỉ lệ
này chiếm đến 21% và có xu hướng tăng. Người lớn tỉ lệ này cũng khá cao. Người
già mắc bệnh béo phì chiếm đến 18%.
- Người bị bệnh còi xương suy dinh dưỡng: thường gặp trẻ em đặc biệt là ở miền
núi và nông thôn đối tượng này cũng chiếm một tỉ lệ khá lớn đến 13% nhưng
thường không có khả năng mua sữa uống.
2. Xu hướng tiêu dùng
2.1 cung cấp dinh dưỡng
Theo một điều tra người tiêu dùng sữa của IPSARD, tiêu chí ảnh hướng tới việc
lựa chọn sản phẩm sữa, có tới 80% người tiêu dùng quyết định lựa chọn sử dụng
các sản phẩm từ sữa dựa trên tiêu chí cung cấp dinh dưỡng.
2.2 Uy tín thương hiệu
Càng ngày người tiêu dùng càng khắt khe với những thông tin về sản phẩm và
thương hiệu sữa họ đang tiêu thụ. Cũng theo báo cáo của Nielsen tháng 4/2018, có
tới 88% người tiêu dùng Việt Nam đọc rất kỹ thông tin trên bao bì sản phẩm sữa
trước khi mua, 76% đòi hỏi được biết mọi thứ về sản phẩm: thông tin thành phần
dinh dưỡng, các chất phụ gia, hạn sử dụng, công nghệ sản xuất…
2.3 Hương vị lành mạnh
Sữa phải vừa ngon vừa tốt cho sức khỏe trong cả ngắn và dài hạn. Tới 80% người
dùng Việt Nam quan tâm đến tác động lâu dài của những thành phần “nhân tạo” có
trong sữa, cao hơn 5% so với tỷ lệ chung toàn cầu (Nielsens, 4/2017). Chịu ảnh
hưởng từ xu hướng “Organic – non GMO” trên thế giới, người Việt Nam hiện nay
cũng nhạy cảm không kém với những cụm từ “hữu cơ”, “tự nhiên”, “không biến
đổi gen “không GMO” …
Bên cạnh đó, xu hướng “Giảm – Tăng” góp phần tác động tới nhận định Hương vị
lành mạnh: giảm đường, giảm béo, hoặc bổ sungomega-3, canxi, vitamin… để tốt cho sức khỏe hơn.
2.4 Tiêu dùng sữa thực vật
Sữa thực vật là dạng truyền thống và xuất hiện sớm nhất. Hiện đại hơn, sữa đậu
nành đóng hộp ra đời với Vinasoy – hiện đang giữ vị trí “ngôi vương” với hơn 80%
thị phần, còn lại nắm giữ bởi Vinamilk, Tribeco, Nutifood, Tân Hiệp Phát và một
số đơn vị nước ngoài như Homesoy hay Soy Secretz… Theo nghiên cứu của
Nielsen, lượng tiêu thụ sữa đậu nành nước ta đứng thứ 3 trên thế giới tính đến cuối năm 2015.
2.5 Tiêu dùng sữa từ các loại hạt
Trong các siêu thị, người tiêu dùng cũng thường dễ dàng bắt gặp các sản phẩm sữa
thực vật (hạnh nhân, óc chó, gạo lứt, hạt dẻ cười…) nhập khẩu từ Hàn Quốc, Nhật
Bản, Mỹ… Tuy nhiên, do hạn chế về thói quen, nhận thức của người tiêu dung
trong nước, hay do điều kiện sản xuất chưa phù hợp, có thể nói rằng phân khúc sữa
hạt (trừ sữa đậu nành) chưa thực sự phổ biến, vẫn đang trong giai đoạn khởi đầu tại
Việt Nam và sẽ hứa hẹn nhiều cuộc cạnh tranh hơn nữa trong tương lai.
3. Mức tiêu thụ sản phẩm sữa
Doanh thu toàn ngành sữa năm 2017 đạt trên 100.000 tỷ đồng, tăng 10,5% so với
năm 2016. Trong đó sản phẩm sữa tươi đạt 1.333,4 triệu lít, tăng 6,6% so với năm
2016, sữa bột đạt 127,4 nghìn tấn tăng 10,4% so với năm 2016. Nhập khẩu sữa và
các sản phẩm sữa 868 triệu USD tăng 1,9% so với năm 2016. Mặt khác, xu thế cải
thiện thiện sức khỏe và tầm vóc của người Việt Nam khiến cho nhu cầu tiêu thụ
các sản phẩm sữa luôn giữ mức tăng trưởng cao. Dự báo đến năm 2020, mức tiêu
thụ sữa sẽ tăng lên trên 28 lít sữa/năm/người. Tiềm năng của ngành sữa nói chung
và nhu cầu dinh dưỡng thông thường, dinh dưỡng dùng y học... nói riêng còn rất lớn.
* Sự phân chia thị phần cung cấp sữa:
Hiệp hội sữa Việt Nam cho biết, từ trước đến nay, 70% sữa nước được sản xuất tại
Việt Nam là từ sữa hoàn nguyên. Trong khi đó, nhu cầu về sữa tiệt trùng và sữa
thanh trùng (sữa nước, sản xuất từ sữa tươi) ngày càng tăng cao do thay đổi nhận
thức của người tiêu dùng đối với các sản phẩm bổ dưỡng. Ngoài ra, mức tiêu thụ
các sản phẩm khác được sản xuất từ sữa tươi, đặc biệt là sữa chua cũng đẩy nhu cầu sữa tươi tăng cao.
1. Phân khúc sữa bột 1.1 Vinamilk
Hiện đứng đầu phân khúc sữa bột với thị phần 40,6% nhưng Vinamilk vẫn gặp
không ít khó khăn do các đối thủ nhỏ hơn như Nutifood, Dutch Lady và TH
trueMilk tung ra các sản phẩm mới. Vinamilk đã chốt giá bột sữa cho sản xuất đến
tháng 5 - 6/2019, ở mức cao hơn một chút so với cùng kỳ năm 2018. Trước tình
hình giá bột sữa tăng mạnh, có xu hướng đẩy chi phí sản xuất 6 tháng cuối năm
tăng, Vinamilk sẽ tăng giá bán thêm 1- 3% để hỗ trợ biên lợi nhuận nếu giá bột sữa
tiếp tục xu hướng tăng trong các tháng tới. Trong các năm qua, thị phần sữa bột
cho trẻ nhỏ của Vinamilk tăng chủ yếu nhờ các thương hiệu Optimum (tại các thành phố) và Grow Plus. 1.2 NutiFood
Nhờ sản phẩm đặc thù, kết hợp với mức giá trung bình thấp hơn 10-15% so với đối
thủ, NutiFood đang dần có được thị phần tăng trưởng tốt trên thị trường sữa bột.
Nếu năm 2014, thị phần sữa bột của NutiFood chỉ khoảng 10%, thì năm 2017 con
số này đã tăng lên 15%, chủ yếu đánh vào phân khúc trung bình thấp. Hiện sản
phẩm GrowPLUS+ của NutiFood chiếm thị phần cao nhất trong phân khúc sữa bột
đặc trị dành cho trẻ em (39,3%) và phân khúc sữa bột pha sẵn trên toàn quốc
(37,4%), theo khảo sát của Nielsen.
2. Phân khúc sữa nước
Theo công ty nghiên cứu thị trường Kantar World Panel, sữa nước có tính cạnh
tranh ít hơn so với sữa bột vì các doanh nghiệp trong nước có lợi thế về nguồn
cung. Phân khúc này có tốc độ tăng trưởng gộp bình quân năm khoảng 14,6%
trong 5 năm qua và tăng trưởng 13% trong năm 2018. 2.1 Vinamilk
Ở phân khúc sữa nước, Vinamilk tiếp tục dẫn đầu, chiếm 55% thị phần. Tuy nhiên,
với các dự báo đầy tiềm năng của thị trường sữa nước, đặc biệt là sữa tươi chỉ mới
đáp ứng 35%, phần còn lại phục thuộc nhập khẩu khiến những doanh nghiệp khác
tìm cách xâm nhập phân khúc này. 2.2 TH Truemilk
Ngay từ khi thành lập, TH true Milk đã đặt mục tiêu chiếm 50% thị trường sữa tươi
vào 2020. Tập đoàn rút “hầu bao” 1,2 tỉ USD cũng như nhiều nhân lực nhằm xây
dựng dự án trang trại chăn nuôi bò sữa lớn nhất châu Á và nhà máy sữa lớn nhất
Đông Nam Á. Việc tập trung vào dòng sản phẩm mới đã giúp TH true Milk có
những bước phát triển. Chỉ 5 năm sau ngày ra mắt sản phẩm đầu tiên, đến năm
2015, TH true Milk là doanh nghiệp sở hữu đàn bò sữa lớn nhất Việt Nam với quy
mô đàn lên tới 45.000 con, trên diện tích trang trại rộng 8.100 ha tập trung ở Nghệ An. 2.3 Nutifood
Ngoài tập trung vào phân khúc sữa bột, theo xu hướng của người tiêu dùng cùng
với bệ đỡ thương hiệu, Nutifood cũng nhắm tới phân khúc sữa nước, hợp tác với
Hoàng Anh Gia Lai…xây dựng vùng nguyên liệu sữa tươi với gần 120.000 con bò
sữa, có khả năng cung cấp 1,2 triệu lít sữa/ngày. Tuy nhiên đến hiện tại thì chương
trình hợp tác trên không như mong đợi nên lượng sữa tươi của Nutifood bán ra khá
hạn chế, vì vùng nuôi bò của công ty chỉ mới đạt vài nghìn con, thấp so với các công ty khác.
II. Phân tích giá cả của thị trường sữa Việt Nam
I.Tổng quan thị trường sữa thế giới:
Trong những năm gần đây, các sản phẩm sữa đã trở thành một trong những ngành
phát triển nhanh nhất trong ngành thực phẩm. Tại Việt Nam, tốc độ tăng trưởng
doanh thu bình quân đạt 18%/năm trong giai đoạn 2005-2009 (theo EMI 2009). Tại
các nước đang phát triển như Việt Nam với tốc độ đô thị hóa cao và tốc độ tăng
dân số nhanh, nhu cầu tiêu thụ sữa sẽ tiếp tục tăng trưởng trong vài năm tới. Trước
khi tìm hiểu ngành sữa Việt Nam, trước tiên cần phải hiểu tổng quan về thị trường
sữa thế giới, đặc biệt là cung, cầu và giá nguyên liệu bột sữa Việt Nam, bởi hơn
70% nguyên liệu sữa của Việt Nam là nhập khẩu.
Sản lượng sữa thế giới năm 2009 dự kiến đạt 701 triệu tấn, tăng 1% so với năm
ngoái. Sản lượng của các nước đang phát triển đang tăng nhanh hơn so với các
nước phát triển và điều này càng rõ ràng hơn vào năm 2010. Khi sản lượng không
đổi, tốc độ tăng trưởng của các nước đang phát triển dự kiến là 4%. Sản lượng sữa
sẽ tăng khoảng 2% trong năm 2010, đạt 714 triệu tấn (Bảng 1).
Tổng khối lượng mua bán sữa thế giới năm 2009 giảm 4,6% so với năm 2008, chủ
yếu do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế. Tuy nhiên, dự đoán với sản lượng sữa
trong nước có khả năng giảm trong năm 2010 ở Hoa Kỳ và Châu Âu, đồng thời dự
báo sản lượng ở Australia vẫn chưa rõ ràng, nguồn cung xuất khẩu dự kiến sẽ bị
hạn chế (USD, 2009). Theo dự đoán trên, giá sữa năm 2010 sẽ tăng so với năm
2009. Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, giá sữa trung bình năm 2010 sẽ
vào khoảng 3.600-3.700 USD/tấn, tăng khoảng 20% so với năm 2010. 2009
(Ngành Sữa Việt Nam, 2010)
II. Tổng quan ngành sữa Việt Nam
Nằm trong xu hướng chung ở các nước đang phát triển trên thế giới, Việt Nam
nhận thấy nhu cầu ngày càng tăng về các sản phẩm sữa như một nguồn bổ sung
dinh dưỡng quan trọng. Điều này có thể thấy qua sự tăng trưởng doanh thu bán sữa
của các nhà sản xuất Việt Nam, với tổng doanh thu từ sữa tăng trưởng đều đặn qua
các năm. Tổng doanh thu năm 2009 vượt 18,5 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 14% so với
năm 2010, khối lượng thương mại sữa thế giới tương đương năm 2008, đạt xấp xỉ
40,6 triệu tấn (Bảng 1). Nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm sữa tăng nhanh ở các nước
đang phát triển là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng thương mại sữa thế giới
trong năm tới, bởi nhu cầu này ở các nước phát triển đã ở giai đoạn bão hòa.
Hiện nay, tiêu dùng các sản phẩm sữa tập trung ở các thành phố lớn, với 10% dân
số cả nước tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh tiêu thụ 78% các sản phẩm sữa.
Bình quân mức tiêu thụ hàng năm hiện đạt 9 lít/người/năm, vẫn còn thấp so với các
nước trong khu vực như Thái Lan (23 lít/ người/ năm) hay Trung Quốc (25 lít/
người/ năm); do đó, theo xu hướng của các nước này, mức tiêu thụ tại Việt Nam sẽ
tăng lên cùng với GDP (VINAMILK 2010). Cùng với nhu cầu về các sản phẩm
sữa ngày càng tăng lên tại Việt Nam, thị trường sữa hiện có sự tham gia của nhiều
hãng sữa, cả trong nước và nước ngoài, với nhiều sản phẩm phong phú đạt 50/50
(theo IDP). Theo ước tính của các chuyên gia ngành sữa, tỷ lệ doanh số bán sữa
chua so với sữa uống hiện chỉ đạt 20/80. Dự kiến khoảng hơn 5 năm nữa Việt Nam
sẽ nâng được tỷ lệ sử dụng sữa chua so với sữa uống lên ngang bằng với Thái Lan (50/50).
III. Tình hình cân bằng cung cầu sữa ở thị trường Việt Nam 1. Cầu tại Việt Nam
1.1 Tổng quan nhu cầu thị trường
Năm 2019: Trong năm 2019, thị trường sữa tăng trưởng chậm với mức tăng 0,5%
về vốn hóa thị trường, thấp hơn so với mức tăng 7,7% của VN-Index. Sau 6 quý
giảm liên tiếp, lượng tiêu thụ sữa trên thị trường bắt đầu ổn định từ quý 2/2019.
Sản phẩm từ sữa, nhưng đặc biệt là sữa đậu nành và sữa lúa mạch, đã trở thành lựa
chọn thay thế tốt hơn cho sữa tươi nhờ hàm lượng protein cao. Tổng giá trị tiêu thụ
sữa đậu nành có thương hiệu đã tăng 13% trong 10 tháng đầu năm 2019, và doanh
thu của Vinasoy đã tăng 15% trong 9 tháng đầu năm 2019.
Năm 2020: Quy mô thị trường sữa khoảng 5,5 tỷ USD, chiếm hơn 10% tiêu thụ
hang FMCG tại Việt Nam. Kênh hiện đại tiếp tục tăng trưởng vượt qua kênh truyền
thống mặc dù kênh truyền thống đang chiếm tỷ trọng chính trong doanh thu sữa.
Tiêu thụ sữa tăng vì là một trong những sản phẩm được mua nhiều qua thương mại
điện tử trong thời kỳ đại dịch. Sản xuất sữa tươi tăng đáng kể do đầu tư vào trang
trại bò sữa từ phía công và tư nhân để giảm phụ thuộc vào nhập khẩu. Nhu cầu
trong nước cho sữa tươi ít bị ảnh hưởng bởi zCovid-19, giảm -6.1% về giá trị so
với giảm -7.5% của hàng tiêu dùng nhanh trong 9 tháng đầu năm 2020. Tiêu thụ
sữa chiếm 11.9% trong tiêu thụ FMCG tại Việt Nam, không thay đổi so với năm
2019. Đại dịch Covid-19 đã giúp các công ty sữa cải thiện tỷ suất lợi nhuận.
Dự kiến tiêu thụ sữa tươi sẽ tăng trong tương lai do tăng thu nhập, dân số và phát
triển chuỗi cung ứng bán lẻ hiện đại. Làn sóng đầu tư tư nhân vào ngành sữa, cả ở
mảng chăn nuôi và sản xuất phân phối, cho thấy triển vọng tích cực cho ngành sản
xuất sữa Việt Nam. Năm 2021 Triển vọng tăng trưởng ngành sữa trong năm 2021 ít
nhạy cảm hơn với dịch COVID-19. Giá sữa nguyên liệu có thể tăng khoảng 4% so
với cùng kỳ trong năm 2020.
Người tiêu dùng quan tâm đến nguồn gốc nguyên liệu và sự an toàn của sản phẩm
sữa. Họ thường ưa chuộng các sản phẩm sữa được sản xuất trực tiếp từ sữa tươi
hơn là từ sữa hòa nguyên. Thị trường sữa Việt Nam đang nhận được sự quan tâm
và đầu tư từ các công ty trong và ngoài nước. Kiểm soát vùng nguyên liệu sữa là
vấn đề quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất sữa tại Việt Nam. Lượng sữa
tươi có chất lượng cao đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật chỉ đạt khoảng 30%-35% nhu
cầu nguyên liệu của các doanh nghiệp lớn.
Sự thiếu hụt sữa tươi đạt chuẩn quốc tế đặc biệt là sữa hữu cơ, vẫn là một vấn đề
tồn đọng tại Việt Nam.
1.2 Nhân tố ảnh hưởng tới cầu
1.2.1 Thu nhập người tiêu dùng:
Theo tạp chí doanhnhansaigon.vn, sự tăng trưởng liên tục ở GNI2 đầu người của
Việt Nam trong năm 2019-2021 lần lượt là 3.280 USD, 3.390 USD và 3.560 USD
-số liệu cung cấp bởi Bộ Chỉ số Phát triển Thế giới (WDI) được Ngân hàng Thế
giới (WB). Ngoài ra, theo thông tin từ Tổng cục Thống kê (Bộ kế hoạch và đầu tư)
thu nhập bình quân đầu người trong quý 3 năm 2022 là 6,7 triệu đồng/tháng, tăng
1,6 triệu đồng so với cùng kỳ năm ngoái do nền kinh tế Việt Nam.
1.2.2 Thị hiếu người tiêu dùng
Thị hiếu là yếu tố quan trọng không thể thiếu có tác động đến lượng cầu hàng hóa,
các doanh nghiệp khi sản xuất và kinh doanh luôn phải chú trọng đến vấn đề này.
Nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp cung ứng sữa hàng năm cho
ra mắt rất nhiều sản phẩm. Cụ thể trong 2 năm trở lại đây, thị trường sữa Việt năm
đã có hơn 40 sản phẩm mới với chất lượng dinh dưỡng tiên tiến nhằm mục đích
phục vụ cho sức khỏe người tiêu dùng như dòng sữa tươi tiệt trùng, sữa dinh
dưỡng sữa hạt nước ép, sữa đậu nành. Giờ đây, cùng với kinh tế và dân trí tăng lên,
người dân đã nhận thấy sức khỏe là tài sản quý giá của con người. Vì thế việc tiêu
dùng những sản phẩm dinh dưỡng dành cho người cao tuổi bắt đầu tăng. Ví dụ như
Vinamilk cũng đầu tư sản xuất nhiều sản phẩm dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe
người cao tuổi, như sữa toàn diện Vinamilk Sure Prevent, sữa dành cho người tiểu
đường Vinamilk Diecerna Vinamilk CanxiPro, Vinamilk giảm cân sữa bột nguyên
kem có đường Vinamilk dinh dưỡng. Ngoài ra còn có sữa đậu nành bổ sung canxi
và vitamin. Công ty Nutifood có sữa dành cho người cao tuổi mới ốm dậy người bị
tiểu đường, loãng xương.... Thị trường sữa bột dành cho người cao tuổi tại Việt
Nam đã tăng trưởng đạt mức 11% vào 2019 (theo Viracresearch). Các doanh
nghiệp cũng bắt đầu đầu tư nhiều hơn để làm phong phú và đa dạng nhóm sản
phẩm này. Ngoài ra các công ty cũng rất chú trọng về hình ảnh sản phẩm, liên tục
thay đổi phù hợp với xu hướng từng thời kỳ, thu hút người tiêu dùng: hộp 180ml,
bịch giấy 200ml, hộp 1L...
Các yếu tố chính thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường sữa hữu cơ trên toàn cầu
bao gồm nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng đối với các sản phẩm thực
phẩm hữu cơ và sự gia tăng số lượng người tiêu dùng không khỏe mạnh mắc các
bệnh như tiểu đường huyết áp cao, bệnh tim mạch, béo phì và các bệnh khác. Vì
thế, nhu cầu sử dụng các sản phẩm sữa chua, sữa nước cao cấp (organic, sữa A2)
và các loại sữa thay thế từ thực vật (sữa óc chó, sữa đậu nành, sữa macca) đang
ngày càng gia tăng. Không chỉ trên thế giới mà ngay cả ở thị trưởng Việt Nam
người tiêu dùng đang dần chuyển sang sử dụng sữa hạt xen kẽ hoặc thay thế sữa
động vật. Tại Việt Nam, xu hướng sử dụng sữa hạt cũng đang gia tăng mạnh mẽ.
Theo kết quả khảo sát năm 2019, có tới 66% người tiêu dùng Việt mong muốn có
nhiều sản phẩm hơn nữa được làm hoàn toàn từ nguyên liệu tự nhiên. Các lựa chọn
thay thế sữa bổ như sữa đậu nành, sữa hạnh nhân, sữa gạo, sữa yến mạch, sữa dừa,
sữa hạt điều... sẽ ngày càng trở nên hấp dẫn với người tiêu dùng, với nhu cầu khác nhau tùy theo vùng.
1.3 Cầu tăng theo thị trường
Kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát và lan rộng trên toàn cầu, giá nhiều nguyên liệu
đã tăng liên tiếp trong những tháng qua Chi phí nguyên liệu đầu vào của nhiều
doanh nghiệp theo đó cũng tăng mạnh, có thể sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận
của các doanh nghiệp trong năm 2021. Cụ thể, một doanh nghiệp dẫn đầu là
Vinamilk, khoảng 30% giá vốn hàng bán (sữa bột và đường) phải nhập khẩu, trong
khi giá nguyên liệu đã tăng 35-40% trong hơn 4 tháng đầu năm. Vinamilk đã bảo
hiểm rủi ro hơn, lượng sữa nhập khẩu. Do vậy, chi phí đầu vào sữa và đường chỉ có
khả năng tăng 16% trong năm nay. Điều này sẽ làm giảm tỷ suất lợi nhuận gộp của
công ty khoảng 6 % (tỷ suất lợi nhuận gộp của VNM là 47% vào năm 2019) nhưng
cạnh tranh trên thị trường sữa có thể gây khó khăn cho việc chuyển những chi phí
đầu vào cao hơn đó cho khách hàng. Bên cạnh đó ngành chăn nuôi bò sữa vẫn
chưa đáp ứng đủ nhu cầu lượng sữa cho các nhà máy sản xuất sữa trong nước.
IV. Các chính sách của chính phủ
Trong quá khứ, chúng ta đã chứng kiến việc ban hành nhiều chính sách để thúc đẩy
và hỗ trợ sự phát triển của ngành chăn nuôi. Trong số đó, có những chính
sách được thiết kế để khuyến khích nghiên cứu khoa học trong lĩnh
vực nông nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, cung cấp hỗ trợ trong
trường hợp xảy ra thiên tai và kiểm soát dịch bệnh.
Hiện tại, các chính sách này đã được triển khai và áp dụng hiệu quả. Chúng đã thu
hút sự quan tâm và đầu tư từ phía người dân và các doanh nghiệp trong việc phát
triển ngành chăn nuôi, công ty sản xuất và tiêu thụ sản phẩm sữa không chỉ trong
nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. 1. Thuế
Chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn 2045 đã được Thủ
tướng chính phủ phê duyệt được kỳ vọng sẽ tạo nhiều động lực cho ngành chăn
nuôi phát triển bền vững; trong đó có chăn nuôi bò sữa...Nhằm tăng nhanh đàn bò
sữa, ngành chăn nuôi chủ trương đẩy nhanh, mạnh xây dựng và chuyển giao những
tiến bộ khoa học công nghệ kỹ thuật chăn nuôi theo chuỗi sản phẩm từ khâu sản
xuất giống, chế biến thức ăn, bảo quản chế biến đến tiêu thụ sản phẩm, gắn với xây
dựng thương hiệu sản phẩm. Bên cạnh đó, Hiệp hội sữa Việt Nam đề nghị giảm
thuế nhập khẩu mặt hàng sữa bột (mã HS 04.02) từ 5% xuống 3% vì sẽ góp phần
giảm giá sữa, tạo điều kiện mọi đối tượng nâng cao sức khỏe cải thiện tầm vóc
Việt, đa dạng hóa nguồn nguyên liệu, tăng tính cạnh tranh.
Ngoài ra, Bộ Tài chính trình Chính phủ giảm thuế suất các mặt hàng trên như sau:
Mặt hàng Sữa và kem, đã cô đặc, đã pha thêm đường hoặc chất tạo ngọt khácgiảm
thuế MFN từ 5% xuống 2%; mặt hàng Pho mát và sữa đông: giảm thuế MFN từ
10% xuống 5%; mặt hàng Albumin sữa, kể cả các chất cô đặc của hai hoặc nhiều
whey protein: giảm thuế suất MFN từ 10% xuống 5%; mặt hàng Pepton và các dẫn
xuất của chúng; protein khác và các dẫn xuất của chúng, chưa được chi tiết hoặc
ghi ở nơi khác; giảm thuế suất MFN là 5% xuống 3% Theo Bộ Tài chính do mặt
hàng sữa và các sản phẩm sữa thuộc nhóm hàng cắt giảm thuế quan theo cam kết,
hiện đang áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt thấp.
Theo Bộ Tài chính, do mặt hàng sữa và các sản phẩm sữa thuộc nhóm hàng cắt
giảm thuế quan theo cam kết, hiện đang áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu
đãi đặc biệt thấp (cơ bản là 0%) nên việc giảm thuế suất MFN đối với các nhóm
mặt hàng này cơ bản không ảnh hưởng nhiều đến tác động giảm thu ngân sách.
LỢI NHUẬN SAU THUẾ NĂM 2022 CỦA VINAMILK LÙI VỀ MỨC THẤP NHẤT 7 NĂM 2. Giá trần
Sau một thời gian quy định áp trần giá sữa có hiệu lực, thực tế diễn biến trên thị
trường khiến nhà quản lý, người tiêu dùng chưa thực sự yên tâm…
Trước đây, giá sữa liên tục tăng, mỗi năm tăng 3 - 4 lần, khiến người tiêu dùng, đặc
biệt là các bà mẹ đang nuôi con nhỏ vô cùng bức xúc. Khi Bộ Tài Chính ra quy
định về việc áp trần giá sữa cho trẻ em dưới 6 tuổi (có hiệu lực kể từ 1/6), đã khiến
người tiêu dùng hân hoan đón chờ, kể các các shop bán lẻ cũng rất ủng hộ…
Thực hiện việc áp giá trần, Bộ Tài chính khẳng định, sau đây, giá bán buôn các sản
phẩm sữa sẽ thấp hơn 10-15% thậm chí 20% so với giá bán buôn trước đây, và giá
sữa bột bán lẻ không được vượt quá 15% giá tối đa trong khâu bán buôn, chậm
nhất giá bán buôn phải được áp dụng từ 11/6 và giá bán lẻ từ 21/6.
Trước quy định này, các bà mẹ hy vọng giá sữa sẽ không tăng vô tội vạ, họ sẽ
không phải chạy theo giá đứt hơi như trước, ngay cả cac shop bán lẻ cũng rất vui
mừng, khi giá quá cao người tiêu dùng quay lưng lại với sản phẩm sữa cả nội và
ngoại, khiến vấn đề kinh doanh rất khó khăn, doanh số bán giảm, lợi nhuận thu về
cũng thấp. Giảm giá sữa không chỉ là tín hiệu vui mừng cho người tiêu dùng mà cả
cho người kinh doanh ở khâu bán lẻ.
Vì quyền lợi của hàng triệu trẻ em và người tiêu dùng, Bộ Tài chính đã quyết tâm
rất cao trong việc bình ổn giá sữa, người tiêu dùng cũng rất phấn khởi ủng hộ, các
doanh nghiệp cũng được yêu cầu phải chấp hành, phải thấy trách nhiệm đối với xã
hội, với thế hệ tương lai của mình, không thể nhắm mắt chạy theo lợi nhuận.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp đã chấp hành như thế nào? Có chấp hành đúng bản
chất sự việc hay không? Thực tế, đến lúc này, tại nhiều tỉnh trên cả nước, các
phóng viên thị sát thị trường cho biết, các doanh nghiệp chỉ giảm giá sữa cho sản
phẩm với mẫu mã cũ còn tồn đọng, không sản xuất nữa, còn sản phẩm với mẫu mã
mới thì lại tăng giá, thậm chí còn tăng cao hơn trước đây. Ví dụ: với sản phảm sữa
Enfagrow A+ của hãng Mead Johnson dành cho trẻ em 1-3 tuổi, loại 1,8kg, giá cũ
đang bán là 836.000 đồng/hộp, theo thông báo của hãng thì kể từ 21/6 giá bán lẻ tại
các đại lý sẽ theo giá mới do Bộ Tài chính quy định với mức 631.000đ/hộp, nhưng,
Enfagrow A+ lại được đổi sang mẫu mã mới và lại được bán với giá
894.000đồng/hộp, cao hơn mức cũ và mức quy định của Bộ Tài chính (ghi nhận
của PV. tại Huế). Thêm nữa, các công ty có tới hàng chục, hàng trăm mẫu mã sản
phẩm nhưng lại chỉ giảm cho một vài sản phẩm, điều này khiến người tiêu dùng
đang rất băn khoăn, thắc mắc.