Tiểu luận Quan điểm duy vật biện chứng mối quan hệ giữa vật chất với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay | Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã trải qua hơn ba mươi năm, đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, đã, đang và sẽ đem lại những thay đổi lớn lao cho đất nước và dân tộc. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Môn: Triết học Mác Lênin ĐHQGTPHCM
Trường: Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TIỂU LUẬN HỌC PHẦN TRIẾT HỌC Đề tài:
Quan điểm duy vật biện chứng mối quan
hệ giữa vật chất với ý thức và vận dụng vào
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
Đồng Nai – Tháng 06 Năm 2019 MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý
THỨC ............................................................................................................................. 1
1. Vật chất .................................................................................................................. 1
2. Ý thức ..................................................................................................................... 5
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức ................................................................... 7
4. Ý nghĩa phương pháp luận: ............................................................................... 10
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY. ................................... 11
1. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ biện chứng
giữa kinh tế và chính trị .......................................................................................... 11
2. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay: ..................................................................................................... 13
CHƯƠNG 3: TỔNG KẾT .......................................................................................... 20
Tài liệu tham khảo: ..................................................................................................... 21 LỜI MỞ ĐẦU
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo đã trải qua hơn ba mươi năm, đã thu được nhiều thành tựu
quan trọng, đã, đang và sẽ đem lại những thay đổi lớn lao cho đất nước và dân
tộc. Kết quả quan trọng đó có phần quan trọng là Đảng Cộng sản Việt Nam đã
vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của triết học mác xít, trong đó có
phép biện chứng duy vật vào xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới.
Đảng ta xác định rõ mục tiêu giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước hiện nay là: “Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then
chốt, phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng - an
ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”. Điều đó giúp cho chúng ta thấy rõ:
“Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn
diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân”
Để triển khai một cách hiệu quả, đòi hỏi các thế hệ cách mạng hiện nay
phải nắm được bản chất của phép biện chứng duy vật, không ngừng học tập và
rèn luyện mới có thể vận dụng một cách đúng đắn phương pháp biện chứng về
mối quan hê giữa vật chất và ý thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đang
đặt ra mà không rơi vào ngụy biện, chiết trung… để thực hiện thắng lợi mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội
Với ý nghĩa đó em đã chọn đề tài "Mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới nước ta hiện nay". CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học. Phạm trù
vật chất và mối liên hệ giữa vật chất và ý thức đã được các nhà triết học trước Mác
quan tâm với nhiều quan điểm khác nhau và luôn diển ra cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong suốt lịch sử của triết học . 1. Vật chất
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử khoảng 2.500 năm.
Ngay từ lúc mới ra đời, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh
không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Giống như
mọi phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát sinh và phát triển gắn
liền với hoạt động thực tiễn của con người và với sự hiểu biết của con người về giới tự nhiên.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của
mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần nào đó, có thể là "ý chí của Thượng đế"
là "ý niệm tuyệt đối", v.v..
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất,
cái tồn tại một cách vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng.
a. Định nghĩa vật chất
Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Ph. ăngghen; tổng kết những thành tựu khoa
học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm, V.I. Lênin đã định nghĩa:
"Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
V.I.Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng:
Trước hết là phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan
niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối
tượng các dạng vật chất khác nhau. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học dùng
chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn các đối
tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra
và mất đi để chuyển hóa thành cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất nói chung
về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của vật
chất như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại đã làm.
Thứ hai là trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật
chất chính là thuộc tính khách quan. Khách quan, theo V.I.Lênin là "cái đang tồn
tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người". Trong đời sống xã hội,
vật chất "theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con 1
người"3. Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất không có nghĩa gì khác
hơn: "thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh".
Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào
ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác
động lên giác quan của con người.
- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
Với những nội dung cơ bản như trên định nghĩa vật chất của V. I. Lênin có nhiều ý nghĩa to lớn.
- Khi khẳng định vật chất là "thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác", "tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác", V.I.Lênin đã thừa nhận
rằng, trong nhận thức luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của
cảm giác, ý thức. Và khi khẳng định vật chất là cái "được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh", V.I.Lênin muốn nhấn mạnh rằng bằng những
phương thức nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh...) con người có
thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
đã bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết không thể biết, đã khắc
phục được những hạn chế trong các quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác
về vật chất. Đồng thời, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin còn có ý nghĩa định
hướng đối với khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức
mới của vật thể trong thế giới.
Như vậy, chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là một định nghĩa
toàn diện và triệt để nó giải đáp được cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên
lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phân biệt về nguyên tắc với chủ
nghĩa duy tâm, bất khả trị luận, nhị nguyên luận. Đồng thời nó cũng khắc phục
thiếu sót, siêu hình, hẹp hòi trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ.
Định nghĩa vật chất của Lênin cũn giúp chúng ta nhân tố vật chất trong đời
sống xã hội, đó là tồn tại xã hội, và nó cũng có ý nghĩa trực tiếp định hướng trong
nghiên cứu khoa học tự nhiên, giúp khoa học tự nhiên ngày càng đi sâu vào nghiên
cứu dạng cụ thể của vật chất trong giới vĩ mô. Nó cũng giúp chúng ta có thái độ
khách quan và đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan trong suy nghĩ và hành động.
b. Các đặc tính của vật chất:
*Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng vận động là mọi sự biến
đổi nói chung chứ không phải là sự chuyển dịnh vị trí trong không gian, Anghen 2
cho rằng vận động là một phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu
của vật chất nó bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ
trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy. Vận động có nhiều hình thức
trong đó có 5 hình thức vận động cơ bản: Thứ nhất vận động cơ học (Di chuyển
vị trí của các vật thể trong không gian); thứ hai: vận động vật lớ (vận động của
các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình điện nhiệt…);thứ
ba:vận động hoá học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá hợp và phân
giải các chất);thữ tư:vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi
trường); thứ năm:vận động xã hội (sự biến đổi thay thế của các hình thái kinh tế
xã hội). Các hình thức vận động đều quan hệ chặt chẽ với nhau. Một hình thức
vận động nào đó được thực hiện là do sự tác động qua lại với các hình thức vận
động khác trong đó những hình thức vận động cao bao giờ cũng bao hàm những
hình thức vận động thấp hơn, nhưng cũng không thể coi hình thức vận động cao
là tổng số đơn giản các hình thức vận động thấp. Mỗi sự vật, hiện tượng có thể
gắn với nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng một
hình thức vận động cơ bản.
Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá trình vận động không ngừng.
Không thể có vật chất không vận động, tức là vật chất tồn tại bằng cách vận động
và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Hay nói cách khác vận
động là phương thức tồn tại của vật chất. Anghen nhận định rằng và các rạng khác
nhau của vật chất chỉ có thể tồn tại thông qua vận động chỉ thông qua vận động
mới có thể thấy được thuộc tính của vật thể. Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ
bản đến thế giới vi mô đến các hệ thống hành tinh khổng lồ trong thế giới vĩ mô
từ vô cơ đến hữu cơ, đến xã hội loài người, tất cả luôn ở trạng thái vận động. Bất
cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu xác định gồm
những nhân tố, những bộ phận, những xu hướng khác nhau, cùng tồn tại, ảnh
hưởng và tác động lẫn nhau. Sự tác động qua lại đó gây ra biến đổi. Nguồn gốc
của vận động là do những nguyên nhân bên trong, vận động của vật chất là tự thân vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, không thể có vận động bên ngoài
vật chất, vận động không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được do đó vận
động được bảo toàn cả về số lượng lẫn chất lượng. Khoa học đã chứng minh rằng
nếu một hình thức vận động nao đó của sự vật nhất định mất đi thì tất yếu nó nảy
sinh ra một hình thức vận động khác thay thế nó. Cỏc hình thức vận động chuyển
hoá lẫn nhau, còn vận động của vật chất nói chung thì vĩnh viễn tồn tai với sự tồn
tại vĩnh viễn của vật chất.
Mặc dù vật chất luôn ở trong quá trình vận động không ngừng nhưng điều
đó không loại trừ mà còn bao hàm cả hiện tượng đứng im tương đối không có hiện
tượng đứng im tương đối thì không có sự phõn hoỏ thế giới vật chất thành các sự
vật và hiện tượng phong phú và đa dạng. Anghen khẳng định rằng khả năng đứng 3
im tương đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ
yếu của sự phân hóa vật chất. Nếu vận động là sự biến đổi của các sự vật, hiện
tượng thì sự đứng im là sự ổn định, là sự bảo toàn tính qui định của các sự vật
hiện tượng. Đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, vận động trong
thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Trạng thái đứng im còn được biểu hiện
như là một quá trình vận động trong phạm vi của sự ổn định, chưa biến đổi. Đứng
im chỉ là tạm thời vỡ nó chỉ xảy ra trong một thời gian nhất định. Vận động riêng
biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng nhưng vận động toàn thể lại phân loại sự
cân bằng riêng biệt thành các sự vật, hiện tượng luôn thay đổi chuyển hoá cho nhau.
*Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí, có hình
hình thức kết cấu, có độ dài, ngắn, cao, thấp. Không gian biểu hiện sự cùng tồn
tại và tách biệt của các sự vật với nhau, biểu hiện khoảng tính của chúng, trật tự
phân bố chúng. Còn thời gian phản ánh thuộc tính của các quá trình vật chất diễn
ra nhanh hay chậm, kế tiếp nhau theo một trật tự nhất định. Thời gian biểu hiện
tốc độ và trình tự diễn biến của các quá trình vật chất, tính cách biệt giữa các giai
đoạn khác nhau của các quá trình đó, sự xuất hiện và mất đi của các sự vật hiên tượng.
Không gian và thời gian là hình cơ bản của vật chất đang vận động. Lênin
đó chỉ ra trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang vận động, và vật chất
đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian. Không
gian và thời gian là tồn tại khách quan. Nó không phải là hình thức chủ quan để
xếp chặt các cảm giác mà ta thu nhận một cách lộn xộn như chủ nghĩa duy tâm
quan niệm, cũng như nó không thể đứng ngoài vật chất. Không có không gian
trống rỗng. Không gian và thời gian không phải là bất biến, tuyệt đối, mà trái lại
không gian và thời gian có sự biến đổi phụ thuộc vật chất vận động.
* Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tinh thần có trước, quyết định vật chất, do đó
cũng cho rằng thế giới thống nhất ở tinh thần. Còn chủ nghĩa duy vật biện chứng
lại khẳng định rằng, tính thống nhất chân chính của thế giới là ở tính vật chất của
nó. Triết học Mác- Lênin khẳng định chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật
chất, không có thế giới tinh thần. Thế giới thần linh ma quỷ tồn tại ở đâu đó bên
trên, bên dưới ở trong hay ở ngoài thế giới vật chất. Đồng thời còn khẳng định
rằng các bộ phận thế giới đều là những dạng cụ thể của vật chất, có liên hệ vật
chất thống nhất với nhau như liên hệ về cơ cấu tổ chức, liên hệ về lịch sử phát
triển và đều phải luôn tuân thủ theo những qui luật khách quan của thế giới vật
chất. Do đó thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô tận không do ai sinh ra
và cũng không mất đi trong thế giới đó không có cái gì khác ngoài những quá 4
trình vật chất đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, là nguyên nhân và là kết quả của nhau. 2. Ý thức
a. Kết cấu của ý thức
Cũng như vật chất có rất nhiều các quan niệm về ý thức theo các trường phái
khác nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật ở đây khẳng định rằng ý thức
là đặc tính là sản phẩm của vật chất, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan
vào bộ óc của con người thông qua lao động và ngôn ngữ. Mác nhấn mạnh rằng
tinh thần, ý thức chẳng qua là cái vật chất được di chuyển vào bộ óc của con người
và được cải biến ở trong đó.
Ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm ý thức,
tri thức, tìm cảm, ý chí trong đó tri thức là quan trong nhất là phương thức tồn tại của ý thức.
Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức vì sự hình thành và phát triển của
ý thức có liên quan mật thiết với nhau trong quá trình nhận thức của con người và
cải biến thế giới tự nhiên. Tri thức càng được tích luỹ con người ngày càng đi sâu
vào bản chất sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn, tính năng động của ý thức
cũng nhờ đó mà tăng hơn. Việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản, quan trọng
nhất của ý thức có ý nghĩa chống quan điểm giản đơn coi ý thức chỉ là tình cảm
niềm tin, ý chí. Quan điểm đú chớnh là biểu hiện của bệnh chủ quan duy ý chí,
của niềm tin mù quáng, của sự tưởng tượng chủ quan. Tuy nhiên việc nhấn mạnh
yếu tố tri thức cũng không đồng nghĩa với việc phủ nhận và coi nhẹ vai trò của
các nhân tố tình cảm ý chí.
Tự ý thức cũng là một yếu tố quan trọng của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm coi
tự ý thức là một thực thể độc lập, tự nó, có sẵn trong các cá nhân, biểu hiện quan
hệ xã hội. Trái lại chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tự ý thức là ý thức hướng
về nhận thức bản thân mình thông qua quan hệ thế giới bên ngoài. Khi phản ánh
thế giới khách quan, con người tự phân biệt mình, đối lập mình với thế giới đó và
tự nhận thức minh như là một thực thể hoạt động, có cảm giác, có tư duy, cú cỏc
hành vi đạo đức và có vị trí xã hội. Mặt khác sự giao tiếp xã hội và hoạt động thực
tiễn xã hội đòi hỏi con người phải nhận rõ bản thân mình và tự điều chỉnh bản
thân mình theo các qui tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra. Ngoài ra văn hoá cũng
đóng vai trũ "Cỏi gương soi" giúp cho con người tự ý thức được bản thân.
Vô thức là một hiện tượng tõm lớ nhưng có liên quan đến những hoạt động
xảy ra ở ngoài phạm vi của ý thức. Có hai loai vô thức: Loại thứ nhất liên quan
đến hành vi chưa được con người ý thức; loai thứ hai liên quan đến các hành vi
trước kia đã được ý thức nhưng do lặp lại nờn đó trở thành thói quen, có thể diễn
ra “Tự động” bên ngoài sư chỉ đạo của ý thức. Vô thức ảnh hưởng đến nhiều phạm
vi hoạt động của con người. Trong những hoàn cảnh nào đó nó có thể giúp con
người bớt sự căng thẳng trong hoạt động. Việc tăng cương rèn luyện để biến 5
những hành vi tích cực thành thói quen và có vai trò rất quan trong đời sống của
con người. Trong con người ý thức vẫn là cái chủ đạo cái quyết định trong hành vi cá nhân.
b. Các đặc tính của vật chất.
*Nguồn gốc tự nhiên:
Ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho tới khi
xuất hiện con người và bộ óc con người. Khoa học đã chứng minh rằng thế giới
vất chất nói chung và trái đất nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện
con người, rằng hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh
lí thần kinh của của bộ não con người. Không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ não
và ý thức là chức năng của bộ não, bộ não là khí quan của ý thức. Sự phụ thuộc
của ý thức vào sự hoạt động của bộ não thể hiện ở chỗ khi bộ não bị tổn thương
thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Tuy nhiên, không thể qui một cách đơn giản ý
thức về các quá trình sinh lí bởi vì óc chỉ là cơ quan phản ánh. Ý thức là sự phản
ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người. Sự xuất hiện của ý thức gắn liền
với sự phát triển đặc tính của phản ánh, đặc tính này phát triển cùng với sự phát
triển của thế giới tự nhiên. Sự xuất hiện của con người và xã hội loài người đưa
lại hình thức của sự phản ánh, đó là sự phản ánh ý thức. Sự phản ánh ý thức luôn
gắn liền với việc làm cho tự nhiên thích nghi với nhu cầu phát triển của xã hội. *Nguồn gốc xã hội:
Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ óc
con người dưới ảnh hưởng của lao động, của giao tiếp và các quan hệ xã hội.
Lao động của con người là nguồn gốc vật chất có tính chất xã hội nhằm cải
tạo tự nhiên, thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích của bản thân con người.
Chính nhờ lao động, con người và xã hội mới hình thành và phát triển. Lao động
là phương thức tồn tại đầu tiên của con người, lao động đồng thời ngay từ đầu đã
liên kết những con người với nhau trong những quan hệ khách quan, tất yếu, mối
quan hệ này đến lượt nó lại làm nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và tổ chức
lao động, nhu cầu " Cần phải có với nhau một cái gì". Và kết quả là ngôn ngữ ra
đời. Ngôn ngữ được coi là cái vỏ vật chất của tư duy. Với sự xuất hiện ngôn ngữ,
tư tưởng của con người có khả năng biểu hiện thành hiện thực trực tiếp, trở thành
tính hiệu vật chất tác động đến giác quan con người và gây ra cảm giác. Nhờ có
ngôn ngữ con người có thể giao tiếp, trao đổi tư tưởng, tình cảm lẫn nhau truyền
đạt kinh nghiệm cho nhau. Thông qua đó mà ý thức cá nhân trở thành ý thức xã
hội và ngược lai,ý thức xã hội thâm nhập vào ý thức cá nhân. Ngôn ngữ đã trở
thành một phương tiện vật chất không thể thiếu được của sự trừu tượng hoá, tức
là quá trình hình thành, thực hiện ý thức và chính nhờ trừu tượng hoá và khái quát
hoá mà con người có thể đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng, đồng thời
tổng kết được hoạt động của mình trong toàn bộ quá trình phát triển lịch sử.
c. Bản chất của ý thức 6
Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thức, có thể thấy rõ ý thức có bản tính phản
ánh, sáng tạo và bản tính xã hội.
Bản tính phản ánh thể hiện thông tin về thế giới bên ngoài là biểu thị nội
dung nhân được từ vật gây ra tác động và được truyền đi trong quá trình phản ánh.
Bản tính của phản ánh qui định mặt khách quan của ý thức, tức là ý thức phải lấy
cái khách quan làm tiền đề, bị cái khách quan qui định và có nội dung phản ánh là thế giới khách quan.
Ý thức ngay từ đầu đã gắn liền lao động, với hoạt động sáng tạo cải biến và
thống trị tự nhiên của con người và đã trở thành mặt không thể thiếu được của
hoạt động đú. Tớnh sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ nó khụng chụp lại một cách
thụ động, nguyên xi sự vật mà phản ánh gắn liền với cải biến, quá trình thu thập
thông tin gắn liền với xử lí thông tin. Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở khả
năng gián tiếp khái quát thế giới khách quan, ở quá trình chủ động tác động vào
thế giới để phản ánh thế giới đó.
Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhau không thể tách rời.
Không cú phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh là điểm xuất phát là cơ sở
sáng tạo. Ngược lại không có sự sáng tạo thì không phải là phản ánh ý thức. Đó
là mối quan hệ biện chứng giữa hai quá trình thu nhập và xử lí thông tin, là sự
thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan trong ý thức.
Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của
con người. Hoạt động đó không phải là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã hội.
Do ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội. Ý thức trước hết là tri thức của
con người về xã hội và hoàn cảnh, về những gì đang diễn ra ở thế giới khách quan,
về mối liên hệ giữa người và người trong xã hội. Do đó ý thức xã hội hình thành
và bị chi phối bởi tồn tại xã hội và các quy luật tồn tại của xã hội đó…Và ý thức
của mỗi cá nhân mang trong lòng của ý thức xã hội. Bản thống nhất nó thể hiện ở
tính năng động chủ quan của ý thức, ở mối quan hệ giữa nhân tố vật chất và nhân
tố ý thức trong hoạt động cải tao thế giới của con người.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Trong lịch sử, chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước vật chất có sau, ý
thức quyết định vật chất
Chủ nghĩa duy vật siêu hình cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất quyết định ý thức và sinh ra ý thức. Tuy nhiên quan điểm của họ chưa thấy
được vai trò, tính năng động sáng tạo của ý thức.
Mối quan hệ vật chất và ý thức chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: 7
*Vai trò của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: vật chất có trước, ý thức có sau,
vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên
chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế
giới vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật
chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự
phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng
khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ
óc người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh,
lao động, ngôn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan),
hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao
động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật
chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát
triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy
luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này
thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết
định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
*Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến
vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong
hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động
vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò
của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang
bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định 8
mục tiêu, đề ra phương huớng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện
pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức
đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiền của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích
cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình
cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với
các quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong
quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động
tích cực cúa ý thức. Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực
khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của
con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng
tiêu cực đổi với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế
quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay
sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật
chất, của ý thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung
và khả năng sáng tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức
chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà
phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh
của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức
độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con
người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành
động theo định hướng của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ con người hiện thực, con người
thực tiễn để xem xét mối quan hệ này. Từ đó khảng định, vật chất có trước, ý thức
có sau, vật chất quyết định ý thức và ý thức tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động của con người
* Vật chất quyết định ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất quyết
định nguồn gốc, bản chất, nội dung sự biến đổi của ý thức.
Ví dụ :Trong đời sống xã hội câu: thực túc, binh cường, có thực mới vực được đạo.
+ Vật chất Quết định nguồn gốc ý thức: nghĩa là não người là dạng vật chất
cao có tính chất của vật chất là cơ quan phản ánh để hoàn thành ý thức.
Ý thức phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản
ánh thế giới khách quan.
+ Vật chất quyết định bản chất, nội dung ý thức: Bản chất là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan: nghĩa là ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất và
thế giới vật chất được dịch chuyển vào óc người, được cải biến trong đó. Vì thế, 9
vật chất quyết định cả bản chất và nội dung. Nội dung là phản ánh thế giới khách quan.
+ Vật chất quyết định sự biến đổi ý thức: ý thức là cái phản ánh, vật chất là
cái được phản ánh khi cái được phản ánh biến đổi thì cái phản ánh cũng phải biến đổi theo.
* Ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động con người cụ thể nó
có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nhất định, các điều kiện vật chất góp
phần cải tạo hình thức khách quan.
Nếu phản ánh đúng hiện thực khách quan – nó thúc đẩy ngược lại thì nó cản trở
Ví dụ: Chủ rương đổi mới cơ chế quan liêu bao cấp, cản trở phát triển con
người – khủng hoảng kinh tế xã hội, động lực.
Quan hệ vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều tác động biện chứng qua lại,
trong đó vật chất quyết định ý thức còn ý thức tác động trở lại thực tiễn thông qua
hoạt động nhận thức của con người.
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức thì: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức,
quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người; vì vậy, con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời
phát huy tính năng động chủ quan của mình. nên mọi chủ trương hoạt động nhận
thức, hoạt động con người đều phải xuất phát từ hiện thực khách quan và hoạt
động tuân theo quy luật khách quan, nghĩa là chúng ta phải có quan điểm khách
quan trong nhận thức hoạt động thực tiễn.
* Xuất phát từ hiện thực khách quan, không phải từ những cái lẻ tẻ của hiện
thực khách quan, phải xuất phát từ cái chung là quy luật khách quan.
Nghị quết 6 của Đảng là bài học kinh nghiệm là phải nắm vững hiện thực khách quan.
+ Hoạt động tuân theo quy luật (quan điểm khách quan) là nhận thức sự vật
phải tôn trọng chính nó có, phải phản ánh đúng quy luật vận động phát triển của
sự vật và chống chủ nghĩa khách quan, đồng thời chống chủ quan duy ý chí.
*Vì ý thức có tính độc lập tương đối, có tính năng động sáng tạo có thể tác
động trở lại vật chất thông qua hoạt động con người, cho nên cùng với xuất phát
từ cái hiện thực khách quan thì phải phát huy tính năng động chủ quan , tức là
phát huy mặt tích cực ý thức, hạn chế mặt tiêu cực của ý thức.
Ví dụ: Trước một trận đánh làm quyết tâm thư, tự phê bình và phê bình, rut
ra những nhược điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt tiêu cực.
* Giữa vật chất và ý thức chỉ có đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận thức
luận. Ngoài lĩnh vực đó ra, sự phân biệt chỉ là tương đối (Lê Nin)
Vì thế một chính sách đúng đắn là cơ sở liên kết hợp hai yếu tố này. 10
Ví dụ: giáo dục chính trị, tư tưởng gắn liền với khuyến khích lợi ích vật chất
như đạt danh hiệu thi đua, được phần thưởng.
+ Công tác tư tưởng phải gắn liền với công tác tổ chức nếu tuyệt đối hóa yếu
tố vật chất, yếu tố kinh tế mà coi nhẹ ý thức của con người, coi nhẹ tính năng
động , sáng tạo của con người sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường, ngược lại
nếu tuyệt đối hóa yếu tố ý thức và coi nhẹ điều kiện vật chất nhất định thì sẽ rơi
vào chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
Ví dụ: một thời kỳ đề ra vấn đề công hữu , xây dựng quan hệ sản xuất không
dựa trên lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối
quan hệ này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức,
quyết định ý thức, song ý thức không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động
trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý
THỨC TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ biện
chứng giữa kinh tế và chính trị
Như chúng ta đã biết, giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng lẫn
nhau. Nhân tố vật chất giữ vai trò là cơ sở, quyết định, còn nhân tố ý thức là có
tác dụng trở lại đối với nhân tố vật chất. Trong nhiều trường hợp, nhân tố ý thức
có tác dụng quyết định đến sự thành bại của hoạt động con người. Điều này thể
hiện rõ trong tác động của đường lối, các chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế
của Đảng. Song xét đến cùng, tác động của ý thức có tính tương đối, có điều kiện.
Vai trò tích cực hay tiêu cực của ý thức chỉ được trong một thời gian nhất định và
điều kiện cụ thể. Vì thế giới vẫn tồn tại khách quan và vận động theo qui luật
khách quan đòi hỏi ý thức phải biến đổi phù hợp với nó, và nếu là tiêu cực, ý thức
sớm muộn sẽ bị đào thải. Mặt khác, ý thức là cái có sau, là cái phản ánh, hơn nữa
vai trò của nó còn tuỳ thuộc vào mức độ chính xác trong quá trình phản ánh hiện
thực. Do vậy, xét toàn cục, ý thức chỉ có được nếu nó thâm nhập vào quần chúng
và tổ chức hoạt động. Nếu như chúng ta đưa nó vào những điều kiện và hoàn cảnh
cụ thể, thì chúng ta có thể thấy rằng, giữa kinh tế ( biểu hiện của vật chất) và chính
trị ( biểu hiện về ý thức) cũng có mối quan hệ rằng buộc với nhau.
Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, có tác động
trực tiếp đến những hoạt động cơ bản của con người cũng như quá trình phát triển của loài người
Khi phân tích bản chất của nhà nước vô sản, V.I. Lê-nin chỉ ra rằng, kinh tế
quyết định chính trị là vì, dù đã nắm trong tay chính quyền nhà nước, giai cấp vô
sản vẫn phải căn cứ vào nhu cầu phát triển khách quan của kinh tế để xác định
phương hướng hoạt động của bộ máy chính trị, của cả hệ thống chính trị và lúc 11
này kinh tế cũng quyết định tính chất, quy mô, mức độ và khả năng ảnh hưởng
của bộ máy chính trị đối với sự phát triển tiếp theo của kinh tế. Sự quyết định và
chi phối của kinh tế đối với chính trị lúc này thường thông qua việc xác lập các
chính sách, đường lối, cơ cấu và bộ máy tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế,
xã hội và chính trị. Theo nghĩa đó, “chính trị là sự thể hiện tập trung của kinh tế”.
Chúng ta thấy rằng, tình hình kinh tế của một nước là cơ sở, là quyết định,
song chính trị là cơ bản. Nếu kinh tế của một nước giầu mạnh, nhưng chính trị
không ổn định, đấu tranh giai cấp, tôn giáo giữa các Đảng phái khỏc
nhau.v.v…thở đất nước đó cũng không thể trở nên yên ấm và tồn tại lâu dài được,
cuộc sống của nhân dân tuy sung túc, đầy đủ nhưng luôn phải sống trong lo âu,
sợ hãi vì nội chiến, chết chóc. Do đó, nếu chính trị của một nước mà ổn định, tuy
nhiều Đảng khác nhau nhưng vẫn qui về một chính Đảng thống nhất đất nước, và
Đảng này vẫn đem lại sự yên ấm cho nhân dân, thì nếu đất nước đó giầu thì cuộc
sống của nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, ngược lại nếu như nước đú nghốo
thỡ cho dù chính trị ổn định đến đâu thì cuộc sống của nhân dân sẽ trở nên khó
khăn và sẽ dẫn đến đảo chính, sự sụp đổ chính quyền để thay thế một chính quyền
mới đem lại nhiều lợi ích cho nhân dân hơn.
Theo C. Mác, giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Trong đó, quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất là những quan hệ xã hội cơ bản, quyết
định mọi quan hệ về chính trị, pháp luật, tư tưởng... Giai cấp nào chiếm địa vị
thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần của xã
hội. Mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quyết định mâu thuẫn trong
lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Cuộc đấu tranh trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng là
biểu hiện của những mâu thuẫn trong đời sống kinh tế. C. Mác viết: “Phương thức
sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và
tinh thần nói chung”. Cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội không chỉ sản sinh ra
kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng, quy định tính chất của nền chính trị,
mà còn quyết định sự xuất hiện và biến đổi cơ cấu giai cấp, quyết định bản chất
của chế độ chính trị - xã hô ̣i, quyết định giai cấp nào giữ vai trò thống trị về chính trị.
Vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị còn thể hiện ở chỗ, nếu kinh
tế thay đổi thì sớm hay muộn sẽ dẫn đến sư ̣ biến đổi của tư tưởng chính trị và thể
chế chính trị. Quá trình đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn chuyển tiếp có tính
cách mạng - từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác,
mà còn được thực hiện ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội, do đó,
“Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo
lộn ít nhiều nhanh chóng”(5). Bởi vì, kinh tế là nội dung, là thước đo tính hợp lý
của chính trị, còn chính trị là hình thức biểu hiện của kinh tế. Tương ứng với một
trình độ phát triển nhất định của kinh tế có một trình độ phát triển nhất định về
chính trị. Cơ sở kinh tế như thế nào thì cơ cấu thể chế chính trị cũng tương ứng 12
như thế ấy. Sự biến đổi, phát triển của kinh tế là nguồn gốc sâu xa của mọi biến
đổi xã hội và đảo lộn về chính trị. Các quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp, hay
các quan hệ chính trị nói chung chỉ là sự phản ánh các quan hệ lợi ích kinh tế, các
mâu thuẫn trong quan hệ kinh tế. Kinh tế phát triển thì chứng tỏ chính trị có sự
tiến bộ nhất đi ̣nh; ngược lại, kinh tế khủng hoảng là dấu hiệu cho thấy sự bất cập
của chính trị và đòi hỏi chính trị phải có sự điều chỉnh.
2. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong công cuộc đổi
mới ở nước ta hiện nay:
Nước ta, trong thời kỳ chiến tranh, Đảng ta xác định, phải ưu tiên chính trị,
kinh tế là nhân tố phục vụ cho mục tiêu chính trị. Thậm chí, ở mức độ nào đó,
chúng ta đã phải tạm thời gác lại các nhu cầu, lợi ích kinh tế để ưu tiên tập trung
cho giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc - nhiệm vụ chính trị cao nhất trong
bối cảnh lịch sử đó. Vì vậy, việc phát triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
bao cấp là phù hợp và cần thiết.
Sau khi kết thúc chiến tranh (năm 1975), nhiê ̣m vu ̣ chính trị lúc này là phải
đẩy ma ̣nh phát triển kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Nhưng chúng ta đã
kéo dài mô hình kinh tế và chính trị thời chiến sang thời bình, thậm chí có lúc, có
nơi còn tuyệt đối hóa chính trị. Theo đó, mô hình kinh tế và chính trị được thiết
lập một cách chủ quan, duy ý chí, không dựa trên cơ sở thực trạng phát triển kinh
tế đất nước, không phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới của cách mạng, quá nhấn
mạnh vai trò của chính trị, coi nhẹ quy luật kinh tế; chính tri ̣ can thiệp một cách
quá sâu bằng những biện pháp áp đặt phi kinh tế vào sự phát triển của kinh tế.
Hậu quả là, chính trị mang nặng tính quan liêu, trở thành gánh nặng cản trở sự
phát triển của kinh tế; kinh tế mất động lực phát triển, rơi vào trì trệ, khủng hoảng.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đã nhận định: "Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố
gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã sai phạm sai lầm chủ quan duy ý trí, vi
phạm qui luật khách quan: Nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghia, xoá bỏ ngay
nền kinh tế nhiều thành phần; cú lỳc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công
nghiệp nặng; duy trì quản lý cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều
chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương".
Tất nhiên, ngoài những khuyết điểm chủ yếu nêu trên, còn có những nguyên
nhân khách quan như hậu quả của nhiều năm chiến tranh, bối cảnh quốc tế...song
chủ yếu là do chúng ta phạm sai lầm chủ quan, những sai lầm đó cùng với trì trệ
trong công tác tổ chức cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuất và triệt tiêu nhiều
động lực phát triển. mà nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do
sự lạc hậu ,yếu kém về lý luận ,do tâm lý của người sản xuất nhỏ và do chúng ta
kéo dài chế độ quan liêu bao cấp . 13
Nhắc lại tình hình trên để thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức (Ở đây là các
chủ trương chính sách về quản lí) đối với vật chất (là nền kinh tế) và thấy tác
động qua lại giữa kinh tế và chính trị trước khi có công cuộc đổi mới. Phép biện
chứng duy vật khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào thải.
Vì vậy, Việt Nam buộc phải tiến hành đổi mới, trong đó có vấn đề giải quyết
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị một cách biện chứng.
Từ khi đổi mới (năm 1986) đến nay, trên cơ sở nhận thức lại chủ nghĩa Mác
- Lê-nin nói chung và quan điểm của C. Mác về mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị nói riêng, Đảng ta đã chủ trương đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, trong đó có đổi mới cả kinh tế lẫn chính trị. Thành công nổi bật
là Đảng ta đã xác định đúng đắn trọng tâm, trọng điểm và bước đi trong đổi mới.
Cụ thể, bắt đầu từ đổi mới tư duy; đổi mới tư duy lý luâ ̣n về chủ nghĩa xã hội. Cùng
với đổi mới tư duy, Đảng chủ trương kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị. Đây là sự vận dụng đúng đắn quan điểm của C. Mác về mối quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị.
Thời kỳ đầu, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị.
Kết quả là, chúng ta đã đổi mới mô ̣t cách cơ bản về cơ sở ha ̣ tầng, tức là từ nền
kinh tế một thành phần sang kinh tế nhiều thành phần; từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; từ phân phối
bình quân theo chế đô ̣ hiện vật sang phân phối theo hiệu quả lao động, theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực khác và thông qua hê ̣ thống an sinh xã hô ̣i, phúc lợi xã hội.
Và đến Đại hội Đại Biểu toàn Quốc lần thứ VII ta đã đánh giá tình hình kinh
tế chính trị xã hội Việt Nam sau bốn năm thực hiện đường lối đổi mới: công cuộc
đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tình hình chính trị
của đất nước ổn định, nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình
thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lí của nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn,
tốc độ lạm phát được kìm chế bớt, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận
nhân dân có phần được cải thiện. So với trước đây thì mức độ khủng hoảng đã
giảm bớt. Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy... ...khắc phục
được nhiều mặt đình đốn, suy thái, tốc độ tăng trưởng khá và liên tục trong 3 năm
qua. Lạm phát được đẩy lùi từ 67% năm 1991 xuống còn 17,5% năm 1992 và còn
5,2% năm 1993. Tổng sản phẩm trong nước GDP tăng bình quân 8,2% (mức đề
ra cho năm 1991- 1995 là 5,5- 6,5%). Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối
toàn diện, sản lượng lương thực 5 năm qua tăng 26% so với 5 năm trước đó, tạo
điều kiện cơ bản để ổn định đời sống nhân dân, phát triển ngành nghề, chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, vấn đề lương thực được giản quyết 14
tốt. Sản xuất công nghiệp đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm 13,3 %
(mức kế hoạch là 7,5% - 8,5%). Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo
hướng đa dạng hoá và đa phương hoá, thị trường xuất nhập khẩu được củng cố và
mở rộng, nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh...tăng kim ngạch xuất khẩu
trong 5 năm 1991 - 1995 đạt trên 17 tỷ USD (kế hoạch là 12 - 15 tỷ USD), đảm
bảo nhập các loại vật tư, thiết bị và hàng hoá đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời
sống, góp phần cải thiện cán cân thanh toán thương mại...Khoa học công nghệ có
bước phát triển, đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong
sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta, phục vụ cho việc xây dựng đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Lĩnh vực văn hoá - xã hội có nhiều chuyển
biến tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện một bước. Quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Hội nghị Đại biểu toàn quốc cũng nêu lên thành tựu về tiếp tục giữ vững và củng
cố sự ổn định chính trị, về mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo môi trường thuận lợi
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Qua những dẫn chứng trên, ta thấy rõ tác động qua lại giữa ý thức và vật
chất, giữa kinh tế và chính trị. Nhờ có đường lối đổi mới, sản xuất phát triển, đời
sống của nhân dân nói chung được cải thiện, mức độ khủng hoảng đã giảm bớt,
do đó đã góp phần ổn định tình hình chính trị của đất nước, góp phần vào việc
phát huy dân chủ trong xã hội. Đổi mới kinh tế quyết định nhưng các nhân tố
chính trị, xã hội, đối ngoại cũng ảnh hưởng tích cực trở lại một cách biện chứng
đối với kinh tế. Vân dụng đúng đắn các qui luật của phép biện chứng duy vật
Không chủ quan với những thành tựu đã đạt được, Đại hội VII đã chỉ ra
những tồn tại lớn cần giải quyết, đặc biệt về mặt kinh tế đó là: lạm phát còn ở mức
cao, nhiều cơ sở sản xuất đình đốn kéo dài, lao động thiếu việc làm tăng
lờn…Đồng thời cũng tự phê bình về việc chậm xác định rõ yêu cầu và nội dung
đổi mới, còn nhiều lúng túng và sơ hở trong điều hành, quản lý vĩ mô nền kinh tế
thị trường... Đặc biệt, Đại hội cũng xác định: "Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị tập trung sức đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách
của nhân dân và làm việc, các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kĩ
thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới
trong lĩnh vực chính trị".
Thực tiễn đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam sau hơn 30 năm
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Về đổi mới kinh tế, nhờ thực hiện chủ trương “lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm”, tập trung giải quyết những vấn đề cấp thiết của nhân dân về sản xuất và đời
sống, giải phóng sức sản xuất, hình thành và phát huy vai trò của hệ thống động
lực..., nước ta đã thoát khỏi tình trạng trì trệ và khủng hoảng về kinh tế - xã hội
vốn kéo dài nhiều năm; hơn thế, còn tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh 15
tế khá cao, ổn định và liên tục, mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều
quốc gia và tổ chức kinh tế quốc tế..., tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư
nước ngoài, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần với sự đa dạng của các hình thức sở hữu, các hình thức phân
phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu,
cũng như mô hình quản lý theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được xác lập và bước đầu vận hành thông suốt.
Về đổi mới chính trị, việc đổi mới về thể chế, tổ chức, nội dung và phương
thức hoạt động được thực hiện đồng bộ trong các cơ quan đảng, nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội theo hướng dân chủ hóa; khắc phục và loại bỏ cơ chế tập
trung, quan liêu, hành chính, mệnh lệnh, xơ cứng, giáo điều, tách rời và cản trở
sự phát triển của kinh tế. Đánh giá ảnh hưởng tích cực của đổi mới chính trị đối
với kinh tế, Đảng ta từng khẳng định: “Những kết quả của đổi mới hệ thống chính
trị, từ đổi mới tư duy, chính sách, pháp luật đến tổ chức hoạt động của bộ máy
nhà nước tuy mới là bước đầu, song đã tạo nền tảng vững chắc cho đổi mới và
phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh”.
Với việc kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị,
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, chúng
ta vừa thúc đẩy được nền kinh tế của đất nước phát triển theo quy luật khách quan,
vừa tạo nên sự năng động, tích cực trong tư duy, tư tưởng và đời sống tinh thần
nói chung của xã hội, làm cho con người được thực sự tự do và có điều kiện phát
huy tính chủ động, sáng tạo của mình. Hai quá trình đó có quan hệ biện chứng với
nhau, tạo nên sức mạnh giúp chúng ta có cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp
đổi mới toàn diện đất nước.
Như vậy, rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam ngày càng vận dụng đúng đắn
phương pháp luận duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
vào công cuộc đổi mới, tiến hành đổi mới kinh tế trước để tạo điều kiện đổi mới
trong lĩnh vực chính trị.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình đổi mới đất nước
nói chung và đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng vẫn còn những bất cập, hạn chế.
Văn kiê ̣n Đa ̣i hô ̣i XII của Đảng đã chỉ ra, quá trình đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị ở nước ta hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, đó
là: Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và
thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô có lúc
thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng,
hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn
thấp. “Tổ chức bộ máy của Đảng và toàn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều
tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng yêu cầu, 16
nhiệm vụ,... Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức nhà nước, các
tổ chức chính trị - xã hội gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức kết quả còn thấp. Số lượng cán bô ̣, công chức không những
không giảm mà lại tăng...”. Vì thế, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh mục tiêu và
nhiệm vụ phát triển đất nước trong 5 năm tới là: “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và
đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”.
Xuất phát từ thực tiễn đó, để tiếp tục đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có
hiệu quả, cần nắm vững những nguyên tắc có tính phương pháp luận như sau:
Thứ nhất, cần nhận thức đúng vấn đề có tính quy luật là mọi sự biến đổi của
chính trị đều là sự phản ánh sư ̣ biến đổi của kinh tế, do kinh tế quyết định. Vì vậy,
phải từ đổi mới kinh tế mà tiến tới đổi mới chính trị và từ thực tiễn xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà đổi mới chính trị cho phù hợp.
Đồng thời, chính trị có vai trò định hướng, dẫn dắt (thông qua cơ chế, chính sách)
đối với kinh tế nên phải không ngừng đổi mới chính trị. Tuy nhiên, chính trị là
lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp nên đổi mới chính trị phải thận trọng, có bước đi
phù hợp, tiến hành từng bước.
Thứ hai, đặt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong xu
thế phát triển của thời đại và trong các mối quan hệ khác của công cuộc đổi mới.
Cần khắc phục tính tự phát do ảnh hưởng của xã hội tiểu nông, xác định những
yêu cầu mới trong việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị là điều kiện giải quyết các mối quan hệ khác trên cơ sở giữ vững độc lập,
chủ quyền trong quá trình hội nhập quốc tế. Theo đó, giải quyết mố i quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị theo hướng thiết lập và hoàn thiện thể chế
kinh tế - chính trị - xã hội thống nhất, hài hòa; xây dựng nền kinh tế thị trường
hiện đại, đầy đủ, hội nhập quốc tế; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phù
hợp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; phát huy đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa thông qua nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện và ngày càng coi
trọng các hình thức dân chủ trực tiếp.
Thứ ba, cần nắm vững những quan điểm có tính chỉ đạo, những yêu cầu về
sự thay đổi tương thích cần có giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị để có sự
lựa chọn và vận dụng các phương pháp khoa học trong việc giải quyết mối quan
hệ giữa chúng. Theo đó, trong những năm tới, cần tập trung thực hiê ̣n một số giải pháp sau:
Về kinh tế: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Kinh tế quyết định chính trị và nguyên nhân sâu xa của mối quan hệ
này là do sở hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu quy định. Do vậy, để đổi mới kinh
tế, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Cụ thể, cần tập trung thể chế hóa các quyền tài sản trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồ ng thời thể chế hóa vai trò “chủ đạo”
của kinh tế nhà nước và xác định rõ vị trí, vai trò, biện pháp phát triển kinh tế tư 17