
















Preview text:
MỤC LỤC 
LỜI NÓI ĐẦU................................................................................................................1 
CHƯƠNG 1: PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH.................................................2 
1.1. Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng...................................................2 
1.1.1. Định nghĩa..................................................................................................2 
1.1.2. Các đặc trưng của phủ định biện chứng....................................................2 
1.2. Quy luật phủ định của phủ định. Hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển.....5 
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận.................................................................................6 
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG PHÂN TÍCH VIỆC KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN 
SÁNG TẠO CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỒNG TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU 
HOÁ HIỆN NAY............................................................................................................8 
2.1. Các giá trị truyền thống của nước ta hiện nay.................................................8 
2.1.1. Giá trị truyền thống là gì?.............................................................................8 
2.1.2. Các giá trị truyền thống của Việt Nam..........................................................9 
2.2. Vai trò của phủ định biện chứng trong việc kế thừa và phát triển sáng tạo 
các giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay..................................9 
KẾT LUẬN...................................................................................................................15 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................16            LỜI NÓI ĐẦU 
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, Việt Nam đã và đang không ngừng hội 
nhập, giao lưu với bạn bè quốc tế. Với việc tham gia vào các tổ chức thế giới như 
WTO, ASSEAN, APEC... đã cho thấy Việt Nam đang hội nhập sâu hơn vào tiến trình 
toàn cầu hoá một cách chủ động nhằm mục tiêu hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất 
nước với phương châm đi tắt đón đầu, thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, 
tạo tiền đề cho quá trình xây dựng chũ nghĩa xã hội. 
Tuy nhiên, bất kì cái gì cũng có tính hai mặt. Toàn cầu hoá sẽ mang đến thời cơ 
lớn để xây dựng, phát triển kinh tế xã hội. Nhưng mặt khác chúng ta cũng phải đối mặt 
với nhiều nguy cơ, nhất là nguy cơ tự đánh mất mình, đi lệch hướng xã hội chủ nghĩa 
và đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Một câu hỏi đặt ra là: 
Làm thế nào để giữ gìn, kế thừa và phát triển sáng tạo những giá trị văn hoá 
truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay?  
Đó là một câu hỏi mang tính thời đại. Một trong những hướng tiếp cận để giải 
quyết câu hỏi trên là dựa vào phương pháp luận phủ định biện chứng. Trong cuốn tiểu 
luận này, tôi lựa chọn đề tài : “Phép biện chứng về phủ định và vận dụng phân tích việc 
kế thừa và phát triển sáng tạo các giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hoá 
hiện nay”. Đề tài với nội dung tập trung chủ yếu vào phép phủ định biện chứng và ứng 
dụng của nó vào thực tiễn với vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc.                1  CHƯƠNG 1: 
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH 
1.1. Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng 
1.1.1. Định nghĩa 
 Trong đời sống thường ngày, khái niệm phủ định thường được biểu hiện bằng từ 
“không”, phủ định có nghĩa là không, bác bỏ một cái gì đó. Còn theo triết học, trong 
thế giới vật chất, mọi sự vật, hiện tượng đều có quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển rồi 
mất đi và được thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này 
bằng hình thái tồn tại khác của cùng một sự vật trong quá trình vận động và phát triển 
của nó. Sự thay thế đó gọi là sự phủ định.  
Phủ định bao gồm phủ định siêu hình và phủ định biện chứng. Phủ định siêu hình 
là phủ định do các nguyên nhân bên ngoài dẫn đến sự triệt tiêu sự vận động, phát triển 
của sự vật, hiện tượng. Còn theo quan điểm duy vật biện chứng, phủ định biện chứng là 
quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn đến sự ra 
đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định. Phủ định biện chứng không bao 
hàm mọi sự phủ định nói chung, nó chỉ bao hàm những phủ định là kết quả của việc 
giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật, tạo ra bước nhảy về chất, tạo tiền đề, điều 
kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời thay thế cái cũ. 
1.1.2. Các đặc trưng của phủ định biện chứng 
Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa. 
Thứ nhất, phủ định biện chứng có tính khách quan vì nguyên nhân của sự phủ 
định nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng. Nó là kết quả của quá trình đấu tranh 
giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong của bản thân sự vật, tạo khả năng ra đời của cái 
mới thay thế cái cũ. Nhờ việc giải quyết các mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển, vì thế 
phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động và phát triển 
của sự vật. Đồng thời, mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào sự giải    2 
quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng 
không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Con người chỉ có thể tác động làm 
cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát  triển của sự vật. 
Thứ hai, phủ định biện chứng có tính kế thừa. Kế thừa là việc cái mới ra đời từ 
việc giữ lại trong đó những yếu tố tích cực, tiến bộ từ cái cũ và cải tạo đi cho phù hợp. 
Phủ định biện chứng là kết quả của sự tự thân phát triển trên cơ sở giải quyết mâu 
thuẫn vốn có của sự vật, hiện tượng. Vì thế, cái mới ra đời không phải là một sự phủ 
định tuyệt đối, phủ định sạch trơn, mà là một sự phủ định có tính kế thừa. Sự phủ định 
ấy không chỉ đơn thuần là thủ tiêu, phá hủy cái cũ, mà còn là sự giữ lại và phát triển 
những nhân tố tích cực đã có, tức là kế thừa. Trong quá trình phát triển, giữa cái cũ và 
cái mới bao giờ cũng có mối liên hệ ràng buộc, tương tác qua lại, xâm nhập vào nhau, 
chuyển hóa lẫn nhau và làm tiền đề của nhau. Cái cũ cũ khi mất đi không có nghĩa là 
mất đi hoàn toàn, mà trong nó vẫn được bảo tồn và giữ lại những yếu tố tích cực, 
những “hạt nhân hợp lý” để tạo tiền đề, nền tảng cho sự phát triển tiếp theo. Ngược lại, 
cái mới phát triển cao hơn không phải từ hư vô, trên mảnh đất trống không, mà là kết 
quả phát triển hợp quy luật từ những gì hợp lý của cái cũ; là kết quả của sự đấu tranh 
và kế thừa tất cả những yếu tố còn tích cực của cái cũ. Diễn đạt tư tưởng đó, V.I.Lênin  viết: 
“Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy 
nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi 
ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng.., mà là sự phủ định coi như 
là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”. 
Bởi vậy, phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ bên trong 
giữa cái cũ và cái mới, là sự tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển của  sự vật.      3 
1.2. Quy luật phủ định của phủ định. Hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển 
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một 
quá trình vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị cái 
mới khác phủ định… Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo 
khuynh hướng phủ định của phủ định, từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường  xoáy ốc. 
Phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một nấc thang trong quá trình 
phát triển. Nói một cách khái quát, qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một chu 
kỳ phát triển. Phủ định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó là một bước 
trung gian trong sự phát triển. Sau những lần phủ định tiếp theo, tái lập cái ban đầu 
nhưng trên cơ sở mới cao hơn, nó thể hiện rõ rệt bước tiến của sự vật. Những lần phủ 
định tiếp theo đó được gọi là sự phủ định của phủ định. Phủ định của phủ định làm 
xuất hiện cái mới như là kết quả tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực đã được phát 
triển từ trong cái khẳng định ban đầu và cả trong những lần phủ định tiếp theo những 
yếu tố tích cực được khôi phục, được duy trì và phát triển. Cái tổng hợp này là sự 
thống nhất biện chứng tất cả những cái tích cực ở các giai đoạn trước và ở cái mới xuất 
hiện trong quá trình phủ định. Do vậy, cái mới với tư cách là kết quả phủ định của phủ 
định có nội dung toàn diện và phong phú hơn so với cái khẳng định ban đầu và cái kết 
quả của lần phủ định thứ nhất. 
 Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng là sự thống 
nhất giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa) và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được 
thực hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới. Do đó, sự phát triển thông qua 
những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng. Sự phát triển 
đi lên đó không phải diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”. Đề cập tới con 
đường đó của sự phát triển biện chứng, V.I. Lênin viết: “Sự phát triển hình như diễn lại 
những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (“phủ    4 
định của phủ định”); sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường  thẳng...” 
Diễn tả quy luật phủ định của phủ định bằng đường “xoáy ốc” chính là hình thức 
cho phép biểu đạt được rõ ràng nhất các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng: 
tính kế thừa, tính chu kỳ, tính đi lên và tính vô tận của sự phát triển. Mỗi vòng mới của 
đường xoáy ốc thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời dường như 
quay lại cái đã qua, dường như lặp lại vòng trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể 
hiện tính vô tận của sự phát triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao của sự vật, 
hiện tượng trong thế giới. Trong quá trình phát triển của sự vật, phủ định biện chứng đã 
đóng vai trò là những vòng khâu của quá trình đó. 
Tóm lại, quy luật phủ định của phủ định nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị 
phủ định và cái phủ định trong quá trình phát triển của sự vật. Phủ định biện chứng là 
điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung 
tích cực từ trong sự vật cũ, phát huy nó trong sự vật mới và tạo nên tính chu kì của sự  phát triển. 
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận 
Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng 
đắn về xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn 
ra theo đường thằng, mà là con đường quan co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều 
quá trình khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của quá trình phát triển chỉ là 
sự biểu hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến lên theo quy luật. Cần phải 
nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để tác động đến 
sự phát triển, phù hợp với yêu cầu hoạt động, nhận thức biểu hiện của thế giới quan 
khoa học và nhân sinh quan cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta và trong thực 
tiễn. Khẳng định niềm tin vào xu hướng tất yếu là phát triển tiến lên của cái tiến bộ, đó 
là biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng.    5 
Theo quy luật phủ định của phủ định, trong thế giới khách quan, cái mới tất yếu 
ra đời để thay thế cái cũ. Trong tự nhiên, cái mới ra đời và phát triển theo quy luật 
khách quan. Trong đời sống xã hội, cái mới ra đời trên cơ sở hoạt động có mục đích, ý 
thức tự giác và sáng tạo của con người. Vì vậy, cần nâng cao tính tích cực của nhân tố 
chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, ủng hộ cái mới 
và đâu tranh cho cái mới thắng lợi. Do đó, cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo 
điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới, làm trái với quy luật phủ định của phủ định. 
Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định cái cũ 
phải theo nguyên tắc kế thừa có phê phán, kế thừa những nhân tố hợp quy luật và lọc 
bỏ,vượt qua, cải tạo cái tiêu cực, trái quy luật nhằm thúc đẩy theo hướng tiến bộ.                              6  CHƯƠNG 2: 
VẬN DỤNG PHÂN TÍCH VIỆC KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO 
CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỒNG TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ  HIỆN NAY   
2.1. Các giá trị truyền thống của nước ta hiện nay 
2.1.1. Giá trị truyền thống là gì? 
Truyền thống theo tiếng Latin là “traditio”, có nghĩa là nối đời, nối truyền. Theo 
nghĩa thông thường, trong Từ điển Tiếng Việt, truyền thống là thói quen hình thành đã 
lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Còn dưới 
góc độ chính trị, trong Từ điển Chính trị vắn tắt, truyến thống được định nghĩa là di sản 
về xã hội và văn hoá được truyền từ thế hệ nay qua thế hệ khác và được duy trì trong 
suốt thời gian dài. Qua những định nghĩa trên, có thể hiểu: truyền thống là tập hợp 
những tư tưởng, tình cảm, thói quen, tập quán, lối sống và cách ứng xử của một cộng 
đồng người nhất định, được hình thành và phát triển trong lịch sử, đã trở nên ổn định 
và lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. 
Tuy nhiên, dựa trên quan điểm biện chứng, truyền thống bao giờ cũng có tính hai 
mặt, đó là mặt tích cực và mặt tiêu cực. Mặt tích cực bao gồm những yếu tố ưu việt, 
tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của xã hội, góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. 
Mặt tiêu cực là hiện thân của sức ỳ, của sự bảo thủ, lạc hậu, ảnh hưởng xấu đến sự phát  triển của xã hội. 
Hai mặt mâu thuẫn đó cùng song song tồn tại trong truyền thống, có khi còn đan 
xen, chống chéo lên nhau. Chính vì vậy, khi nói đến giá trị truyền thống là muốn nói 
đến những mặt tốt đẹp, mặt tích cực, là đặc trưng cho bản sắc văn hoá dân tộc. Hơn 
nữa, không phải cái gì tốt cũng được gọi là giá trị truyền thống, mà nó còn phải có tính 
phổ biến, cơ bản, có ảnh hưởng tích cực trong đời sống xã hội. Như vậy, giá trị truyền    7 
thống là tập hợp những nhân tố tích cực, phổ biến về tư tưởng, tình cảm, thói quen, tập 
quán lối sống, được hình thành và phát triển trong lịch sử, đã trở nên ổn định và lâu 
bền, có khả năng lưu truyền trong không gian và thời gian, là những gì mà con người 
cần giữ gìn và phát triển. 
2.1.2. Các giá trị truyền thống của Việt Nam 
Trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, có biết bao các giá trị truyến thống của 
con người Việt Nam được hình thành, được dư luận xã hội cổ vũ, trở thành bản sắc văn 
hoá của dân tộc. Có thể kể đến một số giá trị truyền thống điển hình như tinh thần yêu 
nước; tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường, ý thức độc lập tự do; lòng nhân ái, khoan 
dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong 
ứng xử, tính giản dị trong lối sống; tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo...Đó là những 
giá trị truyền thống cơ bản, vô cùng quý báu, đã tạo nên cốt cách của con người Việt 
Nam. Các giá trị văn hoá truyền thống không chỉ có ý nghĩa trong lịch sử, mà còn có 
tầm quan trọng trong hiện tại và tương lai. Vì thế, việc kế thừa và phát huy các giá trị 
truyền thống được đặt ra như một tất yếu mang tính khách quan và cấp thiết, đặc biệt là 
trong thời kỳ hiện nay, nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 
2.2. Vai trò của phủ định biện chứng trong việc kế thừa và phát triển sáng tạo các 
giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay 
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng 
ta luôn kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những di sản quý báu của dân tộc và nhân loại. 
Trong đó, truyền thống văn hóa của dân tộc được Đảng ta kế thừa và phát huy triệt để, 
góp phần trực tiếp nâng truyền thống văn hóa của dân tộc và các giá trị của nó lên một 
tầm cao mới, với một chất lượng mới. Những thành tựu đạt được qua 25 năm đổi mới 
đã chứng minh sự đúng đắn trong quan điểm của Đảng ta nhằm khai thác, kế thừa, phát 
huy các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc vào xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ 
quốc Việt Nam XHCN. Phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương năm khóa VIII, Tổng 
bí thư Lê Khả Phiêu khẳng định: “Phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc dưới sự    8 
lãnh đạo của Đảng là nhân lên sức mạnh của nhân dân ta để vượt qua khó khăn, thử 
thách, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, mở rộng 
quan hệ đối ngoại, tạo ra thế và lực mới cho đất nước ta bước vào thế kỷ 21”. 
Trước bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước hiện nay, 
dưới sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, của cuộc cách mạng khoa học - công 
nghệ, của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã, đang và sẽ đặt ra cho chúng ta 
những khó khăn, thách thức lớn đối với việc kế thừa các giá trị truyền thống văn hóa 
của dân tộc. Vì vậy, nhiệm vụ giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống văn hóa của 
dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN thời kỳ mới 
càng trở nên cấp thiết và nặng nề hơn bao giờ hết. 
2.1.1. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay là sự thống 
nhất của hai quá trình giữ lại và lọc bỏ. 
Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay, về thực chất là một 
quá trình phủ định biện chứng các mặt, các yếu tố, thuộc tính và các bộ phận cấu thành 
của nó. Sự kế thừa đó không phải là loại bỏ hoàn toàn hay phủ định sạch trơn truyền 
thống văn hóa, cắt đứt sợi dây liên hệ giữa quá khứ, truyền thống với hiện tại và tương 
lai; nó cũng không phải là bê nguyên xi hoàn toàn truyền thống văn hóa mà là sự kế 
thừa có chọn lọc, kế thừa có điều kiện, tức là chỉ giữ lại những “hạt nhân hợp lý”, 
những yếu tố còn tích cực, tiến bộ, đồng thời loại bỏ những yếu tố tiêu cực, lỗi thời, lạc 
hậu trong truyền thống văn hóa. 
Do điều kiện đặc thù của sự sinh tồn, truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam 
từng bước được hình thành và phát triển. Truyền thống đó đã đồng hành và phát huy 
sức mạnh của nó trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước 
của dân tộc Việt Nam. Truyền thống ấy cũng thường xuyên được các thế hệ người Việt 
Nam kế tiếp tuyển chọn và sàng lọc, loại bỏ những yếu tố không còn phù hợp, giữ lại 
những nhân tố tích cực, tiến bộ, những “hạt nhân hợp lý”. Nhờ đó, dân tộc Việt Nam 
luôn đứng vững trước muôn vàn thử thách, chiến thắng tất cả các thế lực ngoại xâm,    9 
bảo vệ vững chắc nền độc lập, chủ quyền của dân tộc, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc 
và cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của nhân dân. 
Vì vậy, khi nhận thức và hành động, các chủ thể văn hóa cần có thái độ khách 
quan, khoa học trong giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc. Tích cực đi sâu nghiên cứu, 
tìm hiểu, thông qua điều tra, khảo sát, đánh giá phân loại một cách có hệ thống, đồng 
bộ để lưu giữ những truyền thống văn hóa còn tiến bộ, còn phát huy tác dụng. Kiên 
quyết loại bỏ những gì của truyền thống văn hóa đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, không còn 
phát huy tác dụng. Xây dựng một thái độ đúng mực đối với những gì cần được bảo tồn, 
giữ gìn. Cái gì cần được bảo tồn, giữ gìn thì phải bảo tồn, giữ gìn ngay từ khi nó còn 
đang tồn tại. Hiện nay, trong hệ các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc có rất 
nhiều giá trị độc đáo, đặc sắc cần phải được giữ gìn, kế thừa và phát huy. Đó là những 
giá trị tiêu biểu mang tính ổn định, lâu dài và là điểm tựa để Việt Nam phát triển đi lên. 
2.2.2. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay là quá 
trình bổ sung, phát triển hơn nữa những “hạt nhân hợp lý” trong truyền thống văn 
hóa được giữ lại, làm cho truyền thống đó có nội dung và hình thức mới phù hợp 
với yêu cầu của thời kỳ mới. 
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã xây dựng 
nên truyền thống văn hóa với những giá trị đặc sắc, độc đáo, mang sắc thái riêng của 
dân tộc Việt Nam. Trong quá trình phát triển, truyền thống văn hóa của dân tộc không 
hề đứng yên và bất biến, mà trái lại luôn được các thế hệ người Việt Nam kế tiếp kế 
thừa, bổ sung, phát triển và đổi mới liên tục. Đặc biệt, ở những thời kỳ chuyển biến 
mạnh mẽ của lịch sử, vào những thời điểm chuyển giao thời đại, nhiều giá trị, nhiều 
khía cạnh của truyền thống văn hóa dân tộc cũng có sự thay đổi mang tính bước ngoặt. 
Thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới đã và đang 
đặt ra những yêu cầu, nội dung và hình thức mới cho việc bổ sung, phát triển truyền 
thống văn hóa của dân tộc. Dựa trên nền tảng của những “hạt nhân hợp lý” trong 
truyền thống văn hóa dân tộc được giữ lại, cần tích cực bổ sung, phát triển thêm các giá 
trị mới, bảo đảm cho sự phát triển của hệ thống các giá trị văn hóa dân tộc luôn là một    10 
dòng chảy liên tục, không đứt đoạn. Các giá trị mới là những cái mới phù hợp, cái mới 
đang phát huy tốt tác dụng theo quan điểm của Đảng và nhân dân ta. Các giá trị mới ở 
đây không phải hoàn toàn tách rời giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa 
của nhân loại, càng không phải do ý muốn chủ quan của một vài cá nhân áp đặt, mà nó 
được hình thành trong sự kế thừa biện chứng, trong sự tiếp nối hợp lôgíc các giá trị văn 
hóa truyền thống của dân tộc qua hàng nghìn năm lịch sử. Trong đó, các giá trị văn hóa 
truyền thống cần phải được bảo tồn và phát huy trong những giá trị văn hóa hiện đại và 
ngược lại, những giá trị văn hóa hiện đại phải dựa trên nền các giá trị văn hóa truyền 
thống, lấy nó làm điểm tựa để phát triển. Chẳng hạn, truyền thống đoàn kết cố kết dâ n 
tộc để giữ nước: “Cử quốc nghênh địch”, “cả nước chung sức đánh giặc” của các triều 
đại phong kiến Việt Nam trước đây có thể được kế thừa và nâng cao trong công cuộc 
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN thời kỳ mới thành tư tưởng đại đoàn kết 
toàn dân, đại đoàn kết dân tộc, toàn dân tham gia phát triển kinh tế, toàn dân tham gia 
xây dựng nền quốc phòng, toàn dân sẵn sàng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, toàn 
dân tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Truyền thống 
“ngụ binh ư nông”, “động vi binh, tĩnh vi dân” vẫn có thể được kế thừa và phát triển 
thành các quan điểm như: kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng - an ninh và 
ngược lại; kết hợp giữa xây dựng với bảo vệ, bảo vệ với xây dựng; kết hợp giữa xây 
dựng đất nước với xây dựng các tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân và tiềm lực của 
chiến tranh nhân dân; kết hợp giữa xây dựng đất nước với xây dựng thế trận quốc 
phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. 
2.2.3. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay cần phải 
chống hai khuynh hướng sai lầm: khuynh hướng bảo thủ và khuynh hướng phủ 
định sạch trơn đối với truyền thống văn hóa của dân tộc. 
Trong hai khuynh hướng này, khuynh hướng bảo thủ thực chất là khuynh hướng 
đề cao, tuyệt đối hóa truyền thống văn hóa dân tộc. Coi truyền thống văn hóa dân tộc là 
cái bất biến, không thể thay đổi được và vì vậy kế thừa nguyên xi, không cần phải bổ 
sung, sửa đổi và phát triển. Việc bảo thủ, khép kín trước yêu cầu hiện đại hoá, hội nhập    11 
tạo nên sự trì trệ trong đời sống, sự đông cứng văn hoá. Việc đó đồng nghĩa với việc 
đưa văn hoá dân tộc đến chỗ suy thoái, chỗ bế tắc, tự trói buộc bản thân mình. 
Khuynh hướng phủ định sạch trơn là khuynh hướng xuất hiện ngay từ những năm 
đầu xây dựng CNXH ở nước Nga. Những người theo khuynh hướng phủ định sạch trơn 
tập hợp trong phái “văn hóa vô sản” chủ trương xây dựng một nền văn hóa mới từ đầu, 
đoạn tuyệt hẳn với văn hóa của chế độ Nga hoàng cũ. V.I.Lênin đã kịch liệt phê phán 
những người theo khuynh hướng này. Người viết: “Văn hóa vô sản không phải bỗng 
nhiên mà có, nó không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa vô 
sản, phát minh ra. Đó hoàn toàn là điều ngu ngốc. Văn hóa vô sản phải là sự phát triển 
hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích lũy được dưới ách 
thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”. Ở Việt 
Nam, khuynh hướng phủ định sạch trơn đã từng xuất hiện trong cuộc cách mạng tư 
tưởng và văn hóa trước đây. Hậu quả của khuynh hướng này là nhiều giá trị truyền 
thống văn hóa và những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc bị xóa bỏ hoặc lãng 
quên; nhiều di tích lịch sử, văn hóa bị tàn phá nặng nề hoặc bị xuống cấp nghiêm trọng; 
nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp không được bảo tồn, lưu giữ, dần dần bị mai một. 
2.2.4. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay gắn với 
quá trình mở rộng giao lưu và tiếp biến những giá trị văn hóa của các dân tộc khác 
trên thế giới. 
Mở rộng giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc với nhau là một 
vấn đề có tính quy luật của mọi nền văn hóa, đồng thời cũng là một trong những động 
lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển văn hóa của mỗi dân tộc. Đảng ta chỉ rõ: “Văn hóa 
Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng 
nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ 
tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình”. Trong lịch 
sử dân tộc Việt Nam trước đây, tuy đã từng có thời kỳ cha ông ta thực hiện chính sách 
“bế quan tỏa cảng”, đóng cửa tự ru ngủ mình, không giao lưu với bên ngoài, từ chối 
con đường tiếp cận văn minh của nhân loại nhằm giữ cho được “nếp nhà”, giữ được    12 
thuần phong mỹ tục của dân tộc. Thực tế, hậu quả của chính sách này đã không tự bảo 
vệ được mình, mà Tổ quốc còn bị rơi vào tay kẻ khác. Nhưng, xét một cách khách 
quan, trong suốt chiều dài lịch sử, thì Việt Nam là đất nước có một nền văn hóa mở với 
một tư duy văn hóa mở. Người Việt Nam không có tư tưởng kỳ thị dân tộc, không cực 
đoan trong giao lưu và tiếp biến văn hóa với các quốc gia, dân tộc khác. Trong quá 
trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn tiếp thụ có chọn lọc những tinh 
hoa văn hóa của các nước có quan hệ với Việt Nam để bổ sung và làm giàu truyền 
thống văn hóa của dân tộc. 
Ngày nay, dưới sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, của cuộc cách mạng khoa 
học - công nghệ, cùng với đó là công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đang đi vào 
chiều sâu, nên việc mở rộng giao lưu và tiếp biến với những giá trị văn hóa của các dân 
tộc khác trên thế giới được đặt ra như một tất yếu. Thông qua đó, truyền thống văn hóa 
của dân tộc được truyền bá ra bên ngoài, được khẳng định lại, được tiếp xúc nhiều hơn 
với các nền văn hóa khác để học hỏi, trao đổi, so sánh, tiếp nhận, tiếp biến, làm phong 
phú thêm truyền thống văn hóa của dân tộc, đồng thời truyền thống văn hoá Việt Nam 
cũng có cơ hội thẩm định lại, cải tạo cho phù hợp với hoàn cảnh hiện nay của đất nước. 
Đó là một tất yếu khách quan. Chẳng hạn, tinh thần cộng đồng đề cao văn hoá làng, xã 
trng truyền thống con người Việt Nam là một nét đẹp quan trọng trong bản sắc văn hoá 
dân tộc. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, phẩm chất này lại bộc lộ 
nhiều hạn chế nhất định, đó là trong đời sống xã hội, còn nhiều quan hệ, nhiều vấn đề 
còn giải quyết thiên về tình cảm, dẫn đến chỗ tuỳ tiện, coi thường pháp luật, thiếu tinh 
thần cạnh tranh, còn nặng tác phong nông nghiệp, tản mạn, khép kín. Chính vì vậy, 
việc tiếp thu tinh thần cạnh tranh, đề cao pháp luật, coi trọng tác phong công nghiệp từ 
các dân tộc khác trên thế giới để thẩm định, bổ sung và đổi mới các giá trị truyền thống 
của con người Việt Nam là hết sức cần thiết. 
Tuy nhiên, hội nhập nền văn hoá thế giới là con dao hai lưỡi. Song song với 
những mặt tích cực là những mặt tiêu cực, mà điển hình là nguy cơ nền văn hoá đang 
dần bị “hoà tan”. Chúng ta đang đứng trước thử thách rất lớn về văn hoá trước xu thế    13 
và những tác động của văn hoá thế giới, làm sao để “hoà nhập” mà không “hoà tan” 
đang ngày trở thành thách thức của văn hoá nước nhà. Trước thực trạng đó, Đảng Cộng 
sản Việt Nam đã rút ra kinh nghiệm: Trong bất kì tình huống nào, đặc biệt là thời kì 
đẩy manh công nghiệp hoá, hiên đại hoá phải “tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc 
tế” nhưng phải “giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc” Hội nhập văn hoá 
phải trên cơ sở định hướng với sự lựa chọn tối ưu, làm sao để tích hợp nhiều tinh hoa 
đặc sắc của nhiều nền văn hoá khác nhau. Nếu sự tiếp thu ấy là bê nguyên xi những cái 
bên ngoài vào thì văn hoá sẽ bị mất gốc, sẽ bị đồng hoá. Tiếp thu trong tư thế chủ động 
là điều kiện của việc xử lý mối quan hệ biện chứng nội sinh, ngoại sinh. Nguyên tắc 
tiếp thu là lấy bản sắc văn hoá của mình làm gốc, lấy tiêu chí văn hoá làm bộ lọc, tiếp 
thu các văn hoá hiện đại của thế giới, lấy cái tiến bộ bổ sung cho cái thiếu hụt trong 
văn hoá truyền thống, tạo thuận lợi cho văn hoá dân tộc phát triển. 
Tóm lại, việc kế thừa và phát triển sáng tạo các giá trị truyền thống là một tất yếu 
khách quan. Đó là một quá trình lọc bỏ và giữ lại những “hạt nhân hợp lý”, bổ sung, 
phát triển và tạo ra các giá trị truyền thống mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của xã hội hiện 
nay. Đặc biệt, hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá, việc kế thừa và phát triển văn hoá 
còn là sự giao lưu, học hỏi và tiếp biến với các nền văn hoá khác trên thế giới một cách 
có chọn lọc nhằm làm phong phú và hiện đại hoá truyền thống văn hoá Việt Nam, làm 
đậm đà và bền vững thêm bản sắc văn hoá của mình.                  14  KẾT LUẬN 
Trước bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, hầu như dân tộc nào cũng 
đứng trước thử thách của phát triển và luôn tìm kiếm con đường phát triển riêng phù 
hợp vời đặc điểm lịch sử, văn hoá truyền thống vốn có của dân tộc mình. Đối với 
dân tộc Việt Nam, trong quá trình đổi mới, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất thiết phải giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống 
của con người Việt Nam đã được hình thành và hun đúc trong hàng nghìn năm lịch  sử. 
Dưới góc nhìn của phương pháp luận phủ định biện chứng, chủ trương lớn 
nhất, bao quát nhất để đối phó với những thách thức của hội nhập là "Xây dựng và 
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", làm cho văn 
hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia 
đình, từng cộng đồng, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người. Chỉ trên cơ 
sở có một nền văn hóa như vậy, xã hội ta mới có thể có nguồn lực nội sinh to lớn, 
để từ đó có sức đề kháng, khả năng "miễn dịch" mạnh mẽ trước những yếu tố văn 
hóa tiêu cực du nhập từ bên ngoài và nảy sinh ngay từ bên trong, từ mặt trái của nền  kinh tế thị trường.                    15 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Giáo trình "Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin", Nxb Chính trị  Quốc gia, Hà Nội, 2010 
2. V.I.Lênin: "Toàn tập", Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1981 
3. Từ điển chính trị vắn tắt, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1988 
4. Trần Văn Giàu, "Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam", Nxb 
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980 
5. Minh Thu, Giáo dục truyền thống đạo đức của dân tộc, http://tinhdoan-
vinhphuc.vn/index.php?action=details&id=ART52019, truy cập ngày 5/12/2014 
6. Kim Dung, Hoà nhập văn hoá và nỗi lo "hoà tan", http://vov.vn/van-hoa/hoa-
nhap-van-hoa-va-noi-lo-hoa-tan-263938.vov, truy cập ngày 5/12/2014      16