Tiểu luận Triết học "Biện chứng giữa cái chung cái riêng và vận dụng vào việc xây dựng nền kinh tế nước ta"
Tiểu luận Triết học "Biện chứng giữa cái chung cái riêng và vận dụng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta", là một tài liệu hay, giúp sinh viên tham khảo và biết cách vận dụng kiến thức từ môn học vào giải quyết các tình huống thực tế.
Môn: Kinh tế chính trị Mác - Lênin (TRI115)
Trường: Đại học Ngoại Thương
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 35883770
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ~~~~~~~~~*~~~~~~~~~
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VÀ VẬN DỤNG
VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở NƢỚC TA
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Hà Anh Mã sinh viên : 2014120008 Lớp hành chính
: Anh 03 - Thƣơng mại quốc tế - Khóa 59 GV hƣớng dẫn
: ThS. Nguyễn Thị Tùng Lâm
Hà Nội, tháng 5 năm 2021 lOMoAR cPSD| 35883770 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 3
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................................... 4
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................................... 4 1.
Khái niệm cái riêng và cái chung ................................................................. 4
1.1. Cái chung .................................................................................................... 4
1.2. Cái riêng ..................................................................................................... 4 2.
Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng ................................. 4
II. VẬN DỤNG QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI
RIÊNG VÀO NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM ............................... 5 1.
Khái niệm kinh tế thị trường ......................................................................... 5 2.
Tính tất yếu phải tiến lên kinh tế thị trường ở Việt Nam ............................ 5 3.
Nền kinh tế thị trường mang định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ... 7 4.
Thành tựu trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa .................................................................................................................. 8 5.
Tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam ................................................................................................................... 8
5.1. Tạo lập, duy trì, phát triển tự do hóa kinh tế .............................................. 8
5.2. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, một điều kiện cho sự phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ............................................................... 9
5.3. Tạo dựng hành lang và cơ chế đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa đối với nền kinh tế thị trường ..................................................................... 9
5.4. Tạo lập bộ máy nhà nước vững mạnh ....................................................... 10
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 11
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 12 2 lOMoAR cPSD| 35883770 LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trong khu vực đã gặp rất nhiều
khó khăn khi xây dựng nền kinh tế. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói đất nước ta
trải qua hàng nghìn năm phong kiến lạc hậu, sau đó phải đấu tranh chống lại kẻ thù xâm
lược. Khi nước ta còn quá non trẻ ta đã vội vàng áp dụng nền kinh tế bao cấp làm cho
nền kinh tế càng chậm phát triển, trong khi xu hướng chung của nền kinh tế thế giới lúc
bấy giờ là kinh tế thị trường và đã đạt được những bước phát triển lớn. Trước tình hình
đó, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện một bước chuyển đổi lớn đưa nước ta ra khỏi nền
kinh tế bao cấp, đến nền kinh tế tập trung và sau đó là nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Qua đó giúp nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, vững chắc và theo kịp các quốc gia khác.
Bước đầu tiến lên nền kinh tế thị trường, nước ta đã gặp phải rất nhiều khó khăn mà
tiêu biểu là cuộc khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên với việc vận dụng chủ động sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lênin mà điển hình là mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái
riêng, Đảng và Nhà nước đã đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển vững chắc và nhanh chóng hội
nhập với nền kinh tế thế giới.
Vì vậy em quyết định chọn đề tài tiểu luận: Biện chứng giữa cái chung và cái riêng
và vận dụng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường nước ta. Qua đề tài này em
muốn phân tích, làm rõ sự vận dụng quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và những lợi ích, từ đó thể hiện sự đồng tình
của bản thân em cũng như giúp cho mọi nguời hiểu rõ về đường lối phát triển kinh tế
đúng đắn của đất nước. 3 lOMoAR cPSD| 35883770 PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.
Khái niệm cái riêng và cái chung 1.1. Cái chung
Cái chung: là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính,
những yếu tố, những quan hệ,… lặp lại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Trong tập thể sinh viên trường đại học Ngoại Thương thì thuộc tính sinh viên
là cái chung của tất cả thành viên trong tập thể.
Cái chung thường chứa đựng tính quy luật, sự lặp lại.
Ví dụ: quy luật cung – cầu, quy luật giá trị thặng dư,… là đặc điểm chung của mọi
nền kinh tế thị trường buộc phải tuân theo. 1.2. Cái riêng
Cái riêng: là một phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan.
Ví dụ: Cái riêng trong lịch sử xã hội là một sự kiện riêng lẻ nào đó, ví dụ như cuộc
Cách mạng tháng Tám của Việt Nam.
Cần phân biệt cái riêng và cái đơn nhất. Cái đơn nhất là cái chỉ tồn tại ở một sự vật,
hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác, trong khi cái riêng
tồn tại một số đặc điểm chung nào đó.
Ví dụ: Chiều cao, cân nặng, vóc dáng của một người là cái đơn nhất. 2.
Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
Triết học duy vật biện chứng cho rằng hai phạm trù cái chung và cái riêng có mối
liên hệ biện chứng mật thiết với nhau, và cả hai đều tồn tại một cách khách quan.
Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại.
Không có cái chung tồn tại độc lập bên ngoài cái riêng. Ví dụ quy luật bóc lột giá trị
thặng dư của nhà tư bản là một cái chung, nhưng quy luật đó được thể hiện ra ngoài
dưới những biểu hiện khác nhau của nhà tư bản (cái riêng).
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái riêng nào
tồn tại độc lập. Ví dụ: Nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi quy luật cung – cầu, quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đó là cái
chung. Như vậy sự vật hiện tượng nào cũng bao hàm cái chung.
Cái chung là bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng, cái riêng là toàn bộ nhưng phong
phú hơn cái chung. Cái riêng phong phú hơn cái chung là vì ngoài đặc điểm chung, cái
riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những
thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, và lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại.
Có thể khái quát công thức như sau:
Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất 4 lOMoAR cPSD| 35883770
Công thức trên không hoàn toàn đúng một cách tuyệt đối, nhưng trong một chừng
mực nào đó thì nó có thể nói được một cách chính xác mối quan hệ biện bao trùm giữa cái chung và cái riêng.
Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của
sự vật. Sở dĩ vậy vì trong hiện thực cái mới bao giờ cũng xuất hiện trong cái đơn nhất.
Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành cái chung
nhưng về sau nữa khi không phù hợp với điều kiện mới mà bị mất dần đi và trở thành
cái đơn nhất. Như vậy, sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của
quá trình cái mới ra đời và thay thế cái cũ. Ngược lại, sự chuyển hóa từ cái chung thành
cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
Ý nghĩa phương pháp luận: Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái
chung nhằm phát triển nên kinh tế thị trường ở Việt Nam một cách vững chắc, theo kịp
các quốc gia khác, đồng thời cung cấp cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
II. VẬN DỤNG QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI
RIÊNG VÀO NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM 1.
Khái niệm kinh tế thị trường
Theo góc độ vĩ mô, thị trường là phạm trù kinh tế tồn tại khách quan cùng với sự tồn
tại và phát triển của sản xuất hàng hóa, và lưu thông hàng hóa. Ở đâu có sản xuất hàng
hóa thì ở đấy có thị trường. Theo David Begg “Thị trường là sự biểu hiện thu gọn của
quá trình mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng
nào, các quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu, cho ai đều được dung hòa
bằng sự điều chỉnh của giá cả”. Ta cũng có thể định nghĩa thị trường là nơi diễn ra hoạt
động mua bán trao đổi hàng hóa, nơi cung gặp cầu.
Nền kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế - xã hội mà ở đó các quan hệ kinh tế,
sự trao đổi, sự mua bán các sản phẩm và nhất là sự phân chia lợi ích, tìm kiếm lợi
nhuận,... đều do các quy luật của thị trường điều tiết và chi phối. Đó là nền kinh tế hoạt
động theo cơ chế thị trường, với những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng
hóa, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng
hóa sở hữu, phân phối do cung – cầu,… 2.
Tính tất yếu phải tiến lên kinh tế thị trường ở Việt Nam
Xét về hoàn cảnh lịch sử, xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là nền kinh tế
phong kiến. Ngoài ra, nước ta còn phải trải qua hai cuộc chiến tranh giữ nước khốc liệt
mà ở đó, cơ sở vật chất vốn đã ít ỏi còn bị tàn phá nặng nề.
Sau chiến tranh, nước ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hóa tập
trung dựa trên hình thức sở hữu chung tư liệu sản xuất. Trong thời gian đầu, với sự nỗ
lức của nhân dân ta cùng với sự giúp đỡ của các nước XHCN mà mô hình kinh tế phát
huy được tính ưu việt của nó. Song, sau ngày giải phóng miền Nam, bức tranh nền kinh
tế Việt Nam tồn tại cùng lúc ba gam màu: kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế tập trung và
kinh tế hàng hóa. Do sự không hài hòa giữa các nền kinh tế và sự chủ quan cứng nhắc 5 lOMoAR cPSD| 35883770
không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý mà chúng ta không tạo được động lực
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đồng thời trong lúc này, chúng ta còn bị cắt giảm viện
trợ từ các nước XHCN. Tất cả nguyên nhân đó khiến cho nền kinh tế nước ta trong
những năm cuối thập kỷ 80 rơi vào khủng hoảng trầm trọng đời sống nhân dân bị giảm
sút, một số nơi còn bị nạn đói đe dọa. Nguyên nhân của sự suy thoái này bắt nguồn từ
những sai lầm cơ bản như:
− Ta đã thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất trên một quy mô lớn trong
điều kiện chưa cho phép, khiến cho một số bộ phận tài sản vô chủ và không sử dụng
hiệu quả nguồn lực vốn đang khan hiếm của đất nước khi dân số ngày một gia tăng với tỉ lệ khá cao.
− Thực hiện việc phân phối theo hình thức bình quân vừa phân phối theo hình thức
gián tiếp trong khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã làm mất động lực phát triển.
− Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh
lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất
và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của người lao động.
Chính vì việc quá tập trung vào bên ngoài cái riêng, đó là mục tiêu phát triển, xây
dựng mà quên đi cái riêng là sở hữu tư nhân và cá nhân. Điều đó trái với quy luật phát
triển và quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng dẫn đến những hậu quả nghiêm
trọng, làm kìm hãm sự phát triển kinh tế. Đồng thời trước sự thay đổi của tình hình kinh
tế thế giới là các nước tư bản chủ nghĩa đã sớm chuyển sang nền kinh tế thị trường và
đã đạt được những bước tăng trưởng mạnh. Đó là những yêu cầu cấp bách đòi hỏi phải
thay đổi phương hướng nhằm cải thiện nền kinh tế trong nước. Nói cách khác đó là
những điều kiện tiên quyết yêu cầu cái chung phải trở thành cái đơn nhất và cái đơn
nhất trở thành cái chung. Cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung phải trở
thành nền kinh tế thị trường hội nhập thế giới.
Nếu chúng ta không tiến hành các bước chuyển đổi trên, chúng ta sẽ phải đối mặt với
nhiều vấn đề kinh tế như: −
Nếu vẫn giữ nguyên cơ chế cũ thì không thể có đủ sản phẩm tiêu dùng chứ chưa
nói đến tích lũy vốn để mở rộng sản xuất. −
Do đặc trưng của nề kinh tế tập trung rất cứng nhắc nên nó chỉ có tác dụng thúc
đẩy tăng trưởng trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển kinh tế theo chiều
rộng. Nền kinh tế nước ta tồn tại quá dài nên nó không những không có tác dụng đáng
kể mà còn gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Chính vì vậy mà từ đại hội Đảng VI, chúng ta đã có quyết định về việc chuyển sang
kinh tế thị trường, đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên việc
chuyển đổi tiếp thu cần là bản chất chứ không chỉ dừng lại ở hình thức, cần phải giữ
được cái đơn nhất cần thiết của nền kinh tế đất nước, từ đó còn phải xây dựng một nền
kinh tế mới về chất, thể hiện sự phát triển, phủ định biện chứng đối với nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa. Trước những yêu cầu trên, Đảng và Nhà nước ta quyết định
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc chuyển đổi này mặc
dù đã gây ra nhiều khó khăn cho nền kinh tế trong nước nhưng đó là một bước phát
triển tất yếu cần thiết đúng theo quy luật biện chứng giữa cái chung và cái riêng. 6 lOMoAR cPSD| 35883770 3.
Nền kinh tế thị trường mang định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Đảng và Nhà nước đã vận dụng chủ động, sáng tạo các mối quan hệ biện chứng giữa
cái chung và cái riêng vào việc quản lý nền kinh tế nước ta để đạt được nhiều thành tựu.
Học tập, tiếp thu nền kinh tế thị trường của các nước tư bản nhưng không làm mất đi cái
đơn nhất là bản chất xã hội chủ nghĩa. Điều này đã giúp chúng ta xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thể hiện qua các mặt:
− Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả
ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công băng, dân chủ, văn minh.
− Về sở hữu sẽ phát triển theo nhiều hình thức khác nhau, nhiều thành phần kinh
tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để
đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc
đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã
hội nên phải từng bước xác lập và phát triển chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản
xuất chủ yếu một cách vững chắc, tránh nóng vội xây dựng ồ ạt, mà không tính đến hiệu quả như trước đây.
− Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần có sự quản
lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng
pháp luật, chiến lước, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các
hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, phát
huy tính tích cực và hạn chế mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi
ích của toàn bộ nhân dân.
− Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa dạng
hóa các hình thức phân phối. “Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và
thông qua phúc lợi xã hội.” Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực kích thích chủ thể
kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời hạn chế những bất công trong xã hội.
− Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn thể
hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến mang đậm bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần nhân dân, nâng cao dân
trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn lực của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thể hiện trình độ tư duy, vận dụng của Đảng ta về quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là mô
hình kinh tế tổng quan của nước ta trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa. 7 lOMoAR cPSD| 35883770 4.
Thành tựu trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Xét về lĩnh vực con người, người Việt Nam đã thể hiện sự năng động, tinh tế, nhạy
cảm (đặc biệt là với thị trường) hơn hẳn so với những năm 80.
Xét về lĩnh vực kinh tế nhờ chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường theo đường lối
đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh (con người, tự nhiên, xã hội, điều kiện lịch
sử) của Việt Nam mà nền kinh tế cũng như đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể:
• So với năm 1993, tổng sản phẩm trong nước năm 1994 tăng 8,5%, trong đó sản xuất
công nghiệp tăng 13%, sản xuất nông nghiệp tăng 4%, kim ngạch xuất khẩu tăng
20,8%, lạm phát được kiềm chế. Bước đầu thu hút được vốn đầu tư nước ngoài với
số vốn đăng ký 10 tỷ USD. Nền kinh tế đã bắt đầu có tích lũy nội bộ. Xuất khẩu và
nhập khẩu dần lấy lại thế cân bằng.
• Sản xuất nông nghiệp phát triển từ chố thiếu lương thực triền miên đến nay đã đứng
thứ 2 về xuất khẩu gạo trên thế giới.
• Ước tính chỉ số GNP của Việt Nam tăng đáng kể sau vài năm đổi mới: Chỉ tiêu 1971 1983 1986 1996
Thu nhập quốc dân (tỷ USD) 4.97 5.14 5.78 12.46 Trên đầu người 101 94 101 175
Công tác xã hội cũng ngày được coi trọng. Ta đã và đang kiểm soát được phần nào
những khuyết tật xã hội do kinh tế thị trường mang lại, bù đắp những mất mát cho gia
đình cách mạng, thực hiện một số phúc lợi xã hội, tiến hành xây dựng chế độ XHCN
trên phương diện xã hội.
Trong “bầu trời u ám” kinh tế thế giới năm 2020, Việt Nam nổi lên như một điểm
sáng đáng ghi nhận và tự hào. Với tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2020 tăng
2,91% so với năm trước, Việt Nam thuộc nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới.
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và thiên tai gây hậu quả nặng nề thì đây là thành công
lớn của Việt Nam. Lý giải nguyên nhân dẫn đến thành công này, nhiều chuyên gia kinh
tế cho rằng, có nguyên nhân quan trọng từ mô hình kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Mô hình này tỏ rõ hiệu quả về khả năng tự chủ, tự cường, phản ứng chính sách
và phản ứng thị trường đồng bộ. Có thể nói nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã
là cơ sở để Việt Nam hoàn thành mục tiêu “kép”, vừa phòng, chống dịch thành công,
vừa tập trung nguồn lực phát triển kinh tế. 5.
Tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 5.1.
Tạo lập, duy trì, phát triển tự do hóa kinh tế
Đây là một điều kiện có tầm quan trọng đến sự hình thành, tồn tại và phát triển của
nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tự do hóa kinh tế là một điều kiện tất yếu để sản sinh
và nuôi dưỡng tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ, rất cần thiết cho các chủ
doanh nghiệp với tư cách là những đơn vị kinh tế tự chủ.
Tương ứng với điều kiện này, các giải pháp cần có là: 8 lOMoAR cPSD| 35883770 −
Tiếp tục thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách nền kinh tế đa dạng hóa về
hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. −
Có những chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn: Thực hiện chiến lược mở cửa và
hội nhập, hợp tác và phối hợp chính sách quốc tế; nỗ lực gia tăng việc thực hiện cải
cách thể chế ngoại thương; áp dụng nhiều công cụ biện pháp khuyến khích, hỗ trợ xuất
khẩu, như giảm thuế xuất khẩu, hoàn thuế giá trị gia tăng hàng xuất khẩu… −
Chú trọng xây dựng năng lực thể chế và chuyên môn song song với việc đào tạo
cán bộ có trình độ về kinh tế thị trường, pháp luật kinh doanh quốc tế,... với cải cách thủ
tục hành chính, đặc biệt là việc xử lý mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường là những tiền đề quan trọng. 5.2.
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, một điều kiện cho sự phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được gọi là định hình khi đã đạt
trình độ kinh tế thị trường hỗn hợp hay hiện đại, ngang với trình độ các nước có nền
kinh tế phát triển. Một nền kinh tế như vậy chỉ có thể dựa vào cơ sở vật chất kỹ thuật
hiện đại, tương ứng với trình độ văn minh có sự giao thoa văn minh công nghiệp, văn
minh hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Với tư cách là một điều kiện của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ sở vật chất kỹ thuật đó phải được thực hiện
thông qua sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công ở nước ta. 5.3.
Tạo dựng hành lang và cơ chế đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
đối với nền kinh tế thị trường −
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong các
ngành, các cấp, hệ thống các trường và các tổ chức kinh tế. Thông qua giáo dục học tập
cho tất cả các tổ chức trên về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh với nền tảng của cách mạng XHCN, nội dung định hướng XHCN và sự
cần thiết phải giữ vững định hướng XHCN đối với kinh tế thị trường. −
Củng cố và tăng cường năng lực và hiệu lực của Quốc hội, ban hành các luật
pháp còn thiếu, điều chỉnh và bổ sung hoàn thiện các luật pháp đã có sao cho phù hợp
với thực tiễn Việt Nam và tính đến sự phù hợp với thông lệ quốc tế, trên cơ sở quyền
lực thống nhất, cần tăng cường tính quyền lực tương đối và năng lực của các cơ quan tư
pháp trong xử lí nghiêm minh và kịp thời những vi phạm pháp luật đối với các tổ chức
kinh tế, chính trị, xã hội và dân cư. −
Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách đa dạng hóa về sở hữu và thành phần
kinh tế tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước nắm những
khâu, ngành then chốt trọng yếu, tạo thực lực kinh tế để Nhà nước điều tiết tính tự phát
của kinh tế thị trường, thực sự gương mẫu chấp hành luật pháp, hỗ trợ và dẫn dắt các
thành phần kinh tế khác theo định hướng XHCN. 9 lOMoAR cPSD| 35883770 5.4.
Tạo lập bộ máy nhà nước vững mạnh
Có thể quan niệm sự vững mạnh của Nhà nước qua các tiêu chuẩn sau: trung thành
với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với ích lợi dân tộc. Trong sạch về
phẩm chất đạo đức: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Có năng lực chuyện môn, có
uy tín với chủ doanh nghiệp và nhân dân trong việc thực hiện tốt công tác quản lí vĩ mô
của nhà nước với kinh tế thị trường.
Tính hiện thực của các tiêu chuẩn nói trên sẽ được thực hiện qua các giải pháp như:
giáo dục rèn luyện; trong nâng cấp, nâng bậc công chức ngoài năng lực chuyên môn cần
đưa thêm tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức để tuyển loại cán bộ viên chức. Đẩy nhanh nhịp
độ cải cách hành chính Nhà nước và từng bước đưa kết quả của cuộc cải cách vào đời sống. 10 lOMoAR cPSD| 35883770 KẾT LUẬN
Tiểu luận với đề tài “Biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng và nền
kinh tế thị trường nước ta” của em đã nêu ra những kiến thức cơ bản về cái chung và
cái riêng, mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Vận dụng vào nền kinh tế Việt Nam, đất
nước ta đã tiến hành phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp
thu cái chung của nền kinh tế thế giới mà không làm mất đi cái đơn nhất, bản sắc của
nền kinh tế Việt Nam. Thực hiện đúng quy luật phát triển, chúng ta đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng, đạt mức tăng trưởng kinh tế cao. Tiểu luận đã phân tích thành tựu
nền kinh tế đạt được qua việc vận dụng nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng chúng ta vẫn phải tiếp tục cải thiện những thiếu
sót nhằm hoàn thiện nền kinh tế, tiêu biểu là cải thiện nhận thức, thống nhất quan điểm
để mỗi cá nhân đều tin tưởng vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
của nước ta thông qua việc giáo dục tuyên truyền. Đồng thời tăng cường công tác quản
lý của Nhà nước, kích thích các doanh nghiệp cá nhân cạnh tranh phát triển công bằng,
lành mạnh. Tích cực học hỏi, hội nhập nền kinh tế quốc tế, khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tư vào Việt Nam. Qua đó làm cho nền kinh tê nước ta năng động, phát triển
và hội nhập với thế giới. 11 lOMoAR cPSD| 35883770
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Mai Ngọc Cường (1992). Lý thuyết hiện đại về kinh tế thị trường, NXB Chính trị quốc gia. 2.
Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia. 3.
Đặng Thị Nhung (1998). Tạp chí cộng sản, số 9/1998. 4.
Đặng Thị Nhung (1996). Tạp chí kinh tế và phát triển, số 13/1996. 5.
Đặng Thị Nhung (1996). Tạp chí thương mại, số 5/1996. 12