Tiểu luận Triết học đề tài: Nội dung cặp phạm trù bản chất - hiện tượng và liên hệ ý nghĩa phương pháp luận

Tiểu luận Triết học đề tài: Nội dung cặp phạm trù bản chất - hiện tượng và liên hệ ý nghĩa phương pháp luận với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

 

Thông tin:
8 trang 9 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tiểu luận Triết học đề tài: Nội dung cặp phạm trù bản chất - hiện tượng và liên hệ ý nghĩa phương pháp luận

Tiểu luận Triết học đề tài: Nội dung cặp phạm trù bản chất - hiện tượng và liên hệ ý nghĩa phương pháp luận với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

 

233 117 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD|38777299
LỜI NÓI ĐẦU
Trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, triết học giúp cho con người tìm ra lời
giải không chỉ cho những thách đố muôn thuở, còn cho những vấn đề hoàn
toàn mới do quá trình toàn cầu hoá đặt ra. Triết học giúp con người nhận thức rõ
địa vị của mình, lối sống xứng đáng với con người, giúp họ xác định mục tiêu và
tưởng sống để từ đó, p phần biến đổi hiện thực nhằm phục vụ cho chính
mình. Không chỉ thế, trong giai đoạn phát triển này, triết học còn giúp cho con
người được sự định hướng đúng đắn trong hành động củng cố quyết tâm
hành động, đánh giá đúng những biến động đang diễn ra, gợi mở cách đi, hướng
giải quyết các vấn đề cuộc sống đang đặt ra. Đặc biệt hơn cả, đối với sinh
viên hiện nay, việc nhận thức đúng đắn trong lối sống, xác định lí tưởng của
bản thân một việc thiết yếu, Triết học mt yếu tố quan trọng góp phần
giúp sinh viên định hướng đúng đắn trong suy nghĩ, hành động của bản thân.
Bản thân em cũng đang là một sinh viên của Đại học Kinh tế Quốc dân, theo học
ngành Luật kinh tế, một ngành học liên quan đến duy trí logic, cũng giống
như Triết học. Vì vậy, em càng hiểu rõ hơn vai trò của Triết học đối với sự phát
triển tư duy, định hướng của bản thân về những vấn đề trong cuộc sống. Đối với
ngành luật, mọi lập luận trước một vấn đề đều dựa trên những đánh giá về bản
chất và hiện tượng của sự vật, sự việc. Vì vậy, em chọn cặp phạm trù bản chất
hiện tượng đề tài nghiên cứu, từ đó chỉ ra mối liên hệ giữa cặp phạm trù nói
trên với ngành Luật kinh tế.
1
lOMoARcPSD|38777299
I. Nội dung cặp phạm trù bản chất - hiện tượng:
1. Khái niệm:
Thực tế chúng ta thấy, khi xem xét những sự vật quá trình diễn ra trong tự
nhiên hội sẽ có những mặt bên ngoài mà giác quan thể nhận thức được
nhưng cũng có những mặt, những mối liên hệ ở bên trong bị che khuất, chỉ dùng
tư duy trừu tượng mớithể hiểu được. Mặt bên ngoài đó gọi hiện tượng, còn
mặt bên trong gọi bản chất. Trong cuộc sống, sự vật và quá trình nào cũng
cả hai mặt ấy, chúng luôn luôn vận động phát triển cùng nhau. vậy, khi xem
xét sự vật quá trình trong tự nhiên hội, ta cần phân biệt đâu bản chất
và đâu là hiện tượng.
-Bản chất: phạm trù chỉ tổng thể các mi quan hkhách quan, tất nhiên, tương
đối ổn định bên trong, quy định svận động, phát triển của đối tượng và thể hiện
mình qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng.
-Hiện tượng: Là phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định bên ngoài; mặt dễ biến đổi hơn hình thức thể hiện
bản chất của đối tượng.
-Bản chất hiện tượng một cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác-Lenin
một trong những nội dung của nguyên về mối liên
hệ phổ biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng.
*Ví dụ:
- Điểm chung của con người là đều có chân, tay, mắt, mũi tuy nhiên những
cái chung ấy lại không làm nên bản chất mt con người.
- Bản chất của giai cấp sản bóc lột giai cấp công nhân người lao
động bằng nhiều quy luật. Nhưng những quy luật ấy lại chỉ thể hiện một
phần của bản chất.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất- hiện tượng:
2.1. Bản chất và hiện tượng có tính khách quan và gắn bó chặt chẽ,
thốngnhất với nhau:
Bản chất và hiện tượng luôn luôn tồn tại song song với nhau. Bản chất bao giờ
cũng bộc lộ ra qua hiện tượng ngược lại hiện tượng bao giờ cũng sự biểu
hiện của một bản chất nào đó.Thực vậy, không có bản chất nào thuần tuý nằm
một nơi nào đó bên ngoài các sự vật, bản chất cũng không phải cái thần
bên trong sự vật. Bản chất nhất thiết phải bộc lộ qua hiện tượng. Hiện tượng
tính bản chất, nghĩa là bất cứ hiện tượng nào cũng biểu hiện của bản chất, hoặc
biểu hiện một mặt nào đó ca bản chất. Bản chất như thế nào thiện tượng cũng
như thế ấy. Khi bản chất bị tiêu diệt thì sớm hay muộn hiện tượng do sinh ra
cũng biến mất theo. Bản chất mới ra đời thì các hiện tượng mới phù hợp với
cũng dần xuất hiện.
lOMoARcPSD|38777299
Chính vì có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng mà con người mớithể
thông qua những hiện tượng để nhận thức bản chất, phát hiện ra những quy luật
phát triển của sự vật
2.2. Bản chất và hiện tượng là quan hệ có tính mâu thuẫn:
Mâu thuẫn giữa bản chất hiện tượng mâu thuẫn giữa cái bên trong và cái
bên ngoài.Bản chất phản ánh cái chung sâu xa, cái bên trong của sự vật. Hiện
tượng phản ánh cái riêng, cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất. Tất cả các hiện
tượng biểu hiện bản chất theo nhiều cách khác nhau: có hiện tượng biểu hiện một
phần bản chất, hiện tượng biểu hiện bản chất tương đối đầy đủ, đúng đắn,
nhưng đôi khi hiện tượng biểu hiện bản chất không hoàn toàn đúng đắn, thậm chí
còn sai lệch bản chất bởi nếu hiện tượng nào cũng bộc lộ ngay tức khắc
hoàn toàn đầy đủ bản chất thì con người chỉ cần dùng giác quan mà nhận thức sự
vật, chứ không cần dùng đến các ngành khoa học, kỹ thuật hiện đại.
Mâu thuẫn giữa bản chất hiện tượng còn biểu hiện mâu thuẫn giữa cái tương
đối ổn định và cái thường xuyên biến đổi
Bản chất của sự vật tồn tại trong suốt quá trình phát triển của nó, chỉ khi nào sự
vật mất đi thì bản chất của mới thay đổi hẳn. Chính thế bản chất tính
tương đối ổn định. Nhưng trong quá trình phát triển của sự vật thì bảnchất của nó
được biểu hiện bằng những hiện tượng khác nhau và luôn thay đổi tuỳ vào những
điều kiện khách quan bên ngoài. Điều đó chứng thiện tượng thường xuyên biến
đổi.-Hiện tượng phong phú hơn bản chất còn bản chất thì sâu sắc hơn hiện
tượng.Hiện tượng phong phú hơn bản chất vì ngoài bản chất chung mà các hiện
tượng đều ra còn chứa đựng những nhân tố biệt mà chỉ riêng
trong hiện tượng có sự thống nhất giữa cái bản chất và những cái không bản chất
bản chất là cái tương đối ổn định ở trong còn hiện tượng là cái biểu hiện ra bên
ngoài.
Ngược lại, bản chất sâu sắc hơn hiện tượng vì nó là những mối liên hệ tất nhiên
bên trong, những quy luật quyết định sự tồn tại và phát triển của svật,
được lặp đi lặp lại trong những hiện tượng khác nhau, biểu hiện quy luật phát
triển chung của hiện tượng đó.
3. Ví dụ về mối quan hệ của cặp phạm trù bản cht - hiện tượng:
3.1. Ví dụ 1:
Bản chất của hội bản sự mâu thuẫn giữa tính xã hội lực lượng sản xuất
mâu thuẫn với tính chiếm hữu tư nhân tư bản đối với tư liệu sản xuất; giữa người
bị bóc lột( giai cấp sản) mâu thuẫn với người bóc lột( giai cấp sản). Bản
chất đó được biểu hiện bằng những hiện ợng cùng phong phú phức tạp:
Đó là cuộc khủng hoảng chu kì:
lOMoARcPSD|38777299
- Nạn thất nghiệp thường xuyên xảy ra.
- Cuộc sống xa hoa trụy lạc của giai cấp tư sản.
- Đời sống cực khổ của giai cấp vô sản và người lao động.
Bản chất của giai cấp tư sản bóc lột giai cấp công nhân người lao động bằng
nhiều quy luật: Quy luật giá trị thặng dư, quy luật lợi nhuận…
Những quy luật biểu hiện của sự bóc lột này của giai cấp sản bằng quy luật
giá trị thặng dư (Quy luật giá trị thặng dư cũng chỉ thể hiện được một mặt). Quy
luật giá trị thặng quy luật kinh tế bản của chủ nghĩa bản. Theo quy
luật này, quá trình sản xuất bản chủ nghĩa chỉ được tiến hành khi nó bảo đảm
sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng cho nhà bản trên sở tăng cường
bóc lột lao động làm thuê dựa vào việc mở rộng sản xuất phát triển kỹ thuật.
Như vậy, quy luật giá trị thặng dư quy luật chi phối toàn bộ quá trình phát sinh,
phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Nói cách khác, nó đồng thời nói lên
bản chất ca nền sản xuất tư bản chủ nghĩa một nền sản xuất nhằm sản xuất giá
trị thặng dư càng nhiều càng tốt.
3.2. Ví dụ 2:
Năm 1930, bản chất xã hội nước ta là chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Cho nên
đế quốc Pháp đã xây dựng bộ máy cai trị (Bản chất được biểu hiện bởi hình thức):
Nam kỳ bảo hộ - Bộ máy do Pháp cai trị.Ở Trung , chúng giữ nguyên bộ máy
của giai cấp phong kiến làm nhìn để phục vụ công cuộc xâm lược của chúng.Ở
Bắc kì, chúng xây dựng chế độ tự trị Đây chính sự thể hiện bản chất nào thì
hiện tượng đó.
II. Ý nghĩa phương pháp luận của phạm trù bản chất - hiện tượng: Muốn
nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ những sự vật, hiện
tượng, quá trình thực tế vì lẽ rằng bản chất không tồn tại thuần túy mà tồn
tại trong sự vật và biểu hiện qua hiện tượng.Phải thông qua nhiều hiện
tượng khác nhau mới nhận thức đúng bản chất. Lênin viết: “tư tưởng của
người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp
một…đến bản chất cấp hai…”
Mặt khác, bản chất phản ánh tính tất yếu, tính quy luật nên trong nhận thức
thực tiễn cần phải căn cứ vào bản chất chứ không căn cứ vào hiện tượng thì mới
thể đánh giá một cách đầy đủ, chính xác về sự vật, hiện tượng đó. Bản chất
của sự vật không được biểu hiện đầy đủ trong một hiện tượng nhất định nào và
cũng biến đổi trong quá trình phát triển của sự vật. Do vậy phải phân tích, tổng
lOMoARcPSD|38777299
hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những hiện tượng điển hình mới
hiểu rõ được bản chất của sự vật. Nhận thức bản chất của sự vật là một quá trình
phức tạp đi từ hiện tượng đến bản chất, tbản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc
hơn.
Trong nhận thức không chỉ dừng lại hiện tượng phải tiến đến nhận thức
được bản chất của sự vật. Còn trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất
của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật không được dựa vào
hiện tượng bản chất cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy
định sự vận động phát triển của sự vật, còn hiện tượng cái không ổn định, không
quyết định sự vận động phát triển của sự vật. Do vậy nhận thức không chỉ dừng
lại ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức được bản chất của sự vật. Còn trong
hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức
hoạt động cải tạo sự vật không được dựa vào hiện tượng hay xuyên tạc bản chất.
III. Liên hệ ý nghĩa phương pháp luận với ngành hc:
1. Bản chất của pháp luật:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực
hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong hội, là nhân tố điều chỉnh các
quan hhội. Theo học thuyết Mác - nin, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại
phát triển trong xã hội có giai cấp. Bản chất ca pháp luật thể hiện tính giai cấp
của nó, không có "pháp luật tự nhiên" hay pháp luật không mang tính giai cấp.
1.1. Pháp luật mang tính giai cấp:
Học thuyết Mác-Lênin về nhà nước pháp luật lần đầu tiên trong lịch sử, đã
giải thích một cách đúng đắn khoa học về bản chất của pháp luật những mối
quan hệ của nó với các hiện tượng khác trong xã hội giai cấp. Theo học thuyết
Mác-Lênin, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại phát triển trong xã hội giai cấp.
Bản chất của pháp luật thể hiện tính giai cấp của nó, không "pháp luật t
nhiên" hay pháp luật không mang tính giai cấp.Tính giai cấp của pháp luật thể
hiện trước hết chỗ, pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị.
C.Mác Ănghen khi nghiên cứu về pháp luật sản đã đi đến kết luận: Pháp
lOMoARcPSD|38777299
luật tư sản chẳng qua chỉ là ý chí của giai cấp tư sản được đề lên thành luật, cái ý
chí nội dung của do điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp sản quyết
định. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà
nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung, thống nhất hợp
pháp hóa thành ý chí của nhà nước, ý chí đó được cụ thể hóa trong các văn bản
pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Nhà nước ban hành
bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, vậy pháp luật những quy tắc xử
sự chung tính bắt buộc đối với mọi người. Trong hội giai cấp tồn tại
nhiều loại quy phạm khác nhau, thể hiện ý chí nguyện vọng của các giai cấp,
các lực lượng xã hội khác nhau, nhưng chỉ có một hệ thống pháp luật thống nhất
chung cho toàn bộ xã hội.
Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện mc đích điều chỉnh các quan hệ
hội. Mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều chnh quan hệ giữa các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, pháp luật là nhân tố để điều chỉnh về mặt giai cấp
các quan hệ xã hội nhằm hướng các quan hệ hội phát triển theo một "trật tư”
phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ củng cố địa vị của giai cấp
thống trị. Với ý nghĩa đó, pháp luật chính công c để thực hiện sự thống trị giai
cấp.
Bản chất giai cấp thuộc tính chung của bất kỳ kiểu pháp luật nào nhưng mỗi
kiểu pháp luật lại những nét riêng cách biểu hiện riêng. dụ: Pháp luật
chủ nô công khai quy định quyền lực vô hạn ca chủ nô, tình trạng vô quyền của
lệ. Pháp luật phong kiến công khai quy định đặc quyền, đặc lợi của địa chủ
phong kiến, cũng như quy định các chế tài hà khắc man để đàn áp nhân dân
lao động. Trong pháp luật sản bản chất giai cấp được thể hiện một cách thận
trọng, tinh vi dưới nhiều hình thức như quy định về mặt pháp lý những quyền tự
do, dân chủ... nhưng thực chất pháp luật tư sản luôn thể hiện ý chí của giai cấp tư
sản và mục đích trước hết nhằm phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản. Pháp luật xã
hội chủ nghĩa thhiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, công
cụ để xây dựng một hội mới trong đó mọi người đều được sống tự do, nh
đẳng, công bằng xã hội được bảo đảm.
1.2. Tính xã hội của pháp luật:
lOMoARcPSD|38777299
Pháp luật do nhà nước, đại diện chính thức của toàn xã hội ban hành nên nó
còn mang tính chất xã hội. Nghĩa là, ở mc độ ít hay nhiều (tùy thuộc vào hoàn
cảnh trong mi giai đoạn cụ thể), pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của các
giai tầng khác trong xã hội. Ví dụ: Pháp luật tư sản ở giai đoạn đầu, sau khi cách
mạng tư sản thắng lợi, bên cạnh việc thể hiện ý chí của giai cấp tư sản còn thể
hiện nguyện vọng dân chủ và lợi ích ca nhiều tầng lớp khác trong xã hội.
Trong quá trình phát triển tiếp theo, tùy theo tình hình cụ thể, giai cấp tư sản đã
điều chỉnh mức độ thể hiện đó theo ý chí của mình để pháp luật thể "thích
ứng" với điều kiện và bối cảnh xã hội cụ thể. Đối với pháp luật hội chủ nghĩa
cũng vậy, bên cạnh việc pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể của mỗi thời kỳ (mỗi giai đoạn nhất định của quá trình phát triển), cũng phải
tính đến ý chí và lợi ích ca các tầng lớp khác.
2. Vai trò của pháp luật trong cuộc sống hiện nay:
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là công cụ
không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói
chung và của nền đạo đức nói riêng…
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là công cụ
không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói
chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản
nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức
đạo đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá
trị mới.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp
luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục đích
xây dựng mt xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ
và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức. Pháp luật càng
chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề
cao, đồng thời khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng
và ảnh hưởng một cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ
giữa con người với con người, giữa con người với xã hội. Một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của số đông, phù hợp
với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã
hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa hiện nay,
lOMoARcPSD|38777299
yêu cầu đặt ra đối với pháp luật là phải tác động tích cực đến nền đạo đức của
xã hội. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi cá nhân trong
hoạt động của mình phải tính toán chặt chẽ những điều kiện khách quan và hiệu
quả kinh tế. Khi đời sống kinh tế - xã hội đã và đang có những chuyển biến lớn,
thì quan hệ giữa con người với con người không thể chỉ là mối quan hệ trực
tiếp, cảm tính, chủ yếu vẫn bị chi phối bởi những nguyên tắc và chuẩn mực của
sự phát triển ưu trội về đạo đức như trước đây, mà nó cần được bổ sung những
chuẩn mực, những giá trị mới, như tính kinh tế, tính hiệu quả...
Việc tăng cường vai trò của pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho shình thành
và phát triển ý thức đạo đức đã trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết. Quá
trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa cũng như xã hội dân sự đòi hỏi phải tích cực hơn nữa trong việc đưa
pháp luật vào đời sống, hình thành và phát triển ý thức pháp luật. Đồng thời, việc
hội hóa tri thức, nâng cao dân trí, tạo cơ sở nâng cao đạo đức lên trình độ duy
lý pháp lý và khoa học, chuyển thói quen điều chỉnh xã hội theo “lệ”, chủ yếu là
sự cảm thông sang điều chỉnh hội bằng pháp luật trên nguyên tắc công bằng
và bình đẳng xã hội là điều hết sức cần thiết. Trong quan niệm về chuẩn giá trị
đánh giá đạo đức, tính khách quan, khoa học phải thay cho sự tùy tiện vốn dựa
trên sở kinh nghiệm, duy cảm, duy tình. Sự điều chỉnh xã hội bằng pháp luật
(với nguyên tắc tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật) làm cho mọi
thành viên trong xã hội có thể tdo phát huy khả năng sáng tạo của mình trong
môi trường lành mạnh - môi trường vận hành trật tự, nền nếp, kỷ cương của
một xã hội năng động, phát triển văn minh. Đó cũng chính nhu cầu tình cảm,
là trách nhiệm và yêu cầu đạo đức đối với mỗi công dân trong giai đoạn mới.
KẾT LUẬN
Trong đời sống hội, pháp luật vai trò đặc biệt quan trọng. công cụ
không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của hội nói
chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý
nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức
đạo đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những g
trị mới. Nhờ vào ý nghĩa của cặp phạm trù bản chất - hiện tượng, chúng ta đã có
thể phân ch một phần bản chất vai trò của pháp luật trong cuộc sống hiện đại.
Triết học pháp luật luôn song hành, pháp luật được xây dựng dựa trên những
căn nguyên, chân lí của triết học. Vì vậy, đối với những người học luật, triết học
môn học quan trọng, không thể thiếu, giúp người học thể tiếp thu những
nguồn gốc, bản chất sự việc, làm tiền đề cho việc học luật pháp phát triển sự
nghiệp liên quan tới pháp luật sau này.
| 1/8

Preview text:

lOMoARcPSD| 38777299 LỜI NÓI ĐẦU
Trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, triết học giúp cho con người tìm ra lời
giải không chỉ cho những thách đố muôn thuở, mà còn cho những vấn đề hoàn
toàn mới do quá trình toàn cầu hoá đặt ra. Triết học giúp con người nhận thức rõ
địa vị của mình, lối sống xứng đáng với con người, giúp họ xác định mục tiêu và
lý tưởng sống để từ đó, góp phần biến đổi hiện thực nhằm phục vụ cho chính
mình. Không chỉ thế, trong giai đoạn phát triển này, triết học còn giúp cho con
người có được sự định hướng đúng đắn trong hành động và củng cố quyết tâm
hành động, đánh giá đúng những biến động đang diễn ra, gợi mở cách đi, hướng
giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra. Đặc biệt hơn cả, đối với sinh
viên hiện nay, việc có nhận thức đúng đắn trong lối sống, xác định rõ lí tưởng của
bản thân là một việc thiết yếu, mà Triết học là một yếu tố quan trọng góp phần
giúp sinh viên có định hướng đúng đắn trong suy nghĩ, hành động của bản thân.
Bản thân em cũng đang là một sinh viên của Đại học Kinh tế Quốc dân, theo học
ngành Luật kinh tế, một ngành học liên quan đến tư duy lí trí và logic, cũng giống
như Triết học. Vì vậy, em càng hiểu rõ hơn vai trò của Triết học đối với sự phát
triển tư duy, định hướng của bản thân về những vấn đề trong cuộc sống. Đối với
ngành luật, mọi lập luận trước một vấn đề đều dựa trên những đánh giá về bản
chất và hiện tượng của sự vật, sự việc. Vì vậy, em chọn cặp phạm trù bản chất và
hiện tượng là đề tài nghiên cứu, từ đó chỉ ra mối liên hệ giữa cặp phạm trù nói
trên với ngành Luật kinh tế. 1 lOMoARcPSD| 38777299
I. Nội dung cặp phạm trù bản chất - hiện tượng: 1. Khái niệm:
Thực tế chúng ta thấy, khi xem xét những sự vật và quá trình diễn ra trong tự
nhiên và xã hội sẽ có những mặt bên ngoài mà giác quan có thể nhận thức được
nhưng cũng có những mặt, những mối liên hệ ở bên trong bị che khuất, chỉ dùng
tư duy trừu tượng mới có thể hiểu được. Mặt bên ngoài đó gọi là hiện tượng, còn
mặt bên trong gọi là bản chất. Trong cuộc sống, sự vật và quá trình nào cũng có
cả hai mặt ấy, chúng luôn luôn vận động và phát triển cùng nhau. Vì vậy, khi xem
xét sự vật và quá trình trong tự nhiên và xã hội, ta cần phân biệt rõ đâu là bản chất
và đâu là hiện tượng.
-Bản chất: Là phạm trù chỉ tổng thể các mối quan hệ khách quan, tất nhiên, tương
đối ổn định bên trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng và thể hiện
mình qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng.
-Hiện tượng: Là phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định ở bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể hiện
bản chất của đối tượng.
-Bản chất và hiện tượng là một cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác-Lenin và là một trong những nội dung của nguyên lí về mối liên
hệ phổ biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng. *Ví dụ:
- Điểm chung của con người là đều có chân, tay, mắt, mũi tuy nhiên những
cái chung ấy lại không làm nên bản chất một con người.
- Bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột giai cấp công nhân và người lao
động bằng nhiều quy luật. Nhưng những quy luật ấy lại chỉ thể hiện một phần của bản chất.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất- hiện tượng:
2.1. Bản chất và hiện tượng có tính khách quan và gắn bó chặt chẽ,
thốngnhất với nhau:
Bản chất và hiện tượng luôn luôn tồn tại song song với nhau. Bản chất bao giờ
cũng bộc lộ ra qua hiện tượng và ngược lại hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu
hiện của một bản chất nào đó.Thực vậy, không có bản chất nào thuần tuý nằm ở
một nơi nào đó bên ngoài các sự vật, bản chất cũng không phải là cái gì thần bí
bên trong sự vật. Bản chất nhất thiết phải bộc lộ qua hiện tượng. Hiện tượng có
tính bản chất, nghĩa là bất cứ hiện tượng nào cũng là biểu hiện của bản chất, hoặc
biểu hiện một mặt nào đó của bản chất. Bản chất như thế nào thì hiện tượng cũng
như thế ấy. Khi bản chất bị tiêu diệt thì sớm hay muộn hiện tượng do nó sinh ra
cũng biến mất theo. Bản chất mới ra đời thì các hiện tượng mới phù hợp với nó cũng dần xuất hiện. lOMoARcPSD| 38777299
Chính vì có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng mà con người mới có thể
thông qua những hiện tượng để nhận thức bản chất, phát hiện ra những quy luật
phát triển của sự vật
2.2. Bản chất và hiện tượng là quan hệ có tính mâu thuẫn:
Mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng là mâu thuẫn giữa cái bên trong và cái
bên ngoài.Bản chất phản ánh cái chung sâu xa, cái bên trong của sự vật. Hiện
tượng phản ánh cái riêng, cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất. Tất cả các hiện
tượng biểu hiện bản chất theo nhiều cách khác nhau: có hiện tượng biểu hiện một
phần bản chất, có hiện tượng biểu hiện bản chất tương đối đầy đủ, đúng đắn,
nhưng đôi khi hiện tượng biểu hiện bản chất không hoàn toàn đúng đắn, thậm chí
còn sai lệch bản chất bởi vì nếu hiện tượng nào cũng bộc lộ ngay tức khắc và
hoàn toàn đầy đủ bản chất thì con người chỉ cần dùng giác quan mà nhận thức sự
vật, chứ không cần dùng đến các ngành khoa học, kỹ thuật hiện đại.
Mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng còn biểu hiện là mâu thuẫn giữa cái tương
đối ổn định và cái thường xuyên biến đổi
Bản chất của sự vật tồn tại trong suốt quá trình phát triển của nó, chỉ khi nào sự
vật mất đi thì bản chất của nó mới thay đổi hẳn. Chính vì thế bản chất có tính
tương đối ổn định. Nhưng trong quá trình phát triển của sự vật thì bảnchất của nó
được biểu hiện bằng những hiện tượng khác nhau và luôn thay đổi tuỳ vào những
điều kiện khách quan bên ngoài. Điều đó chứng tỏ hiện tượng thường xuyên biến
đổi.-Hiện tượng phong phú hơn bản chất còn bản chất thì sâu sắc hơn hiện
tượng.Hiện tượng phong phú hơn bản chất vì ngoài bản chất chung mà các hiện
tượng đều có ra nó còn chứa đựng những nhân tố cá biệt mà chỉ riêng nó có vì
trong hiện tượng có sự thống nhất giữa cái bản chất và những cái không bản chất
vì bản chất là cái tương đối ổn định ở trong còn hiện tượng là cái biểu hiện ra bên ngoài.
Ngược lại, bản chất sâu sắc hơn hiện tượng vì nó là những mối liên hệ tất nhiên
bên trong, là những quy luật quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, nó
được lặp đi lặp lại trong những hiện tượng khác nhau, biểu hiện quy luật phát
triển chung của hiện tượng đó.
3. Ví dụ về mối quan hệ của cặp phạm trù bản chất - hiện tượng: 3.1. Ví dụ 1:
Bản chất của xã hội tư bản là sự mâu thuẫn giữa tính xã hội lực lượng sản xuất
mâu thuẫn với tính chiếm hữu tư nhân tư bản đối với tư liệu sản xuất; giữa người
bị bóc lột( giai cấp vô sản) mâu thuẫn với người bóc lột( giai cấp tư sản). Bản
chất đó được biểu hiện bằng những hiện tượng vô cùng phong phú và phức tạp:
Đó là cuộc khủng hoảng chu kì: lOMoARcPSD| 38777299
- Nạn thất nghiệp thường xuyên xảy ra.
- Cuộc sống xa hoa trụy lạc của giai cấp tư sản.
- Đời sống cực khổ của giai cấp vô sản và người lao động.
Bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột giai cấp công nhân và người lao động bằng
nhiều quy luật: Quy luật giá trị thặng dư, quy luật lợi nhuận…
Những quy luật biểu hiện của sự bóc lột này của giai cấp tư sản bằng quy luật
giá trị thặng dư (Quy luật giá trị thặng dư cũng chỉ thể hiện được một mặt). Quy
luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Theo quy
luật này, quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ được tiến hành khi nó bảo đảm
sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản trên cơ sở tăng cường
bóc lột lao động làm thuê dựa vào việc mở rộng sản xuất và phát triển kỹ thuật.
Như vậy, quy luật giá trị thặng dư là quy luật chi phối toàn bộ quá trình phát sinh,
phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Nói cách khác, nó đồng thời nói lên
bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa – một nền sản xuất nhằm sản xuất giá
trị thặng dư càng nhiều càng tốt. 3.2. Ví dụ 2:
Năm 1930, bản chất xã hội nước ta là chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Cho nên
đế quốc Pháp đã xây dựng bộ máy cai trị (Bản chất được biểu hiện bởi hình thức):
Nam kỳ bảo hộ - Bộ máy do Pháp cai trị.Ở Trung kì, chúng giữ nguyên bộ máy
của giai cấp phong kiến làm bù nhìn để phục vụ công cuộc xâm lược của chúng.Ở
Bắc kì, chúng xây dựng chế độ tự trị Đây chính là sự thể hiện bản chất nào thì hiện tượng đó.
II. Ý nghĩa phương pháp luận của phạm trù bản chất - hiện tượng: Muốn
nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ những sự vật, hiện
tượng, quá trình thực tế vì lẽ rằng bản chất không tồn tại thuần túy mà tồn
tại trong sự vật và biểu hiện qua hiện tượng.Phải thông qua nhiều hiện
tượng khác nhau mới nhận thức đúng bản chất. Lênin viết: “tư tưởng của
người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp
một…đến bản chất cấp hai…”
Mặt khác, bản chất phản ánh tính tất yếu, tính quy luật nên trong nhận thức và
thực tiễn cần phải căn cứ vào bản chất chứ không căn cứ vào hiện tượng thì mới
có thể đánh giá một cách đầy đủ, chính xác về sự vật, hiện tượng đó. Bản chất
của sự vật không được biểu hiện đầy đủ trong một hiện tượng nhất định nào và
cũng biến đổi trong quá trình phát triển của sự vật. Do vậy phải phân tích, tổng lOMoARcPSD| 38777299
hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những hiện tượng điển hình mới
hiểu rõ được bản chất của sự vật. Nhận thức bản chất của sự vật là một quá trình
phức tạp đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Trong nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức
được bản chất của sự vật. Còn trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất
của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật không được dựa vào
hiện tượng vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy
định sự vận động phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, không
quyết định sự vận động phát triển của sự vật. Do vậy nhận thức không chỉ dừng
lại ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức được bản chất của sự vật. Còn trong
hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức
hoạt động cải tạo sự vật không được dựa vào hiện tượng hay xuyên tạc bản chất.
III. Liên hệ ý nghĩa phương pháp luận với ngành học:
1. Bản chất của pháp luật:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực
hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Theo học thuyết Mác - Lênin, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại và
phát triển trong xã hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp
của nó, không có "pháp luật tự nhiên" hay pháp luật không mang tính giai cấp.
1.1. Pháp luật mang tính giai cấp:
Học thuyết Mác-Lênin về nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong lịch sử, đã
giải thích một cách đúng đắn khoa học về bản chất của pháp luật và những mối
quan hệ của nó với các hiện tượng khác trong xã hội có giai cấp. Theo học thuyết
Mác-Lênin, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp.
Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của nó, không có "pháp luật tự
nhiên" hay pháp luật không mang tính giai cấp.Tính giai cấp của pháp luật thể
hiện trước hết ở chỗ, pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị.
C.Mác và Ănghen khi nghiên cứu về pháp luật tư sản đã đi đến kết luận: Pháp lOMoARcPSD| 38777299
luật tư sản chẳng qua chỉ là ý chí của giai cấp tư sản được đề lên thành luật, cái ý
chí mà nội dung của nó là do điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp tư sản quyết
định. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà
nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung, thống nhất và hợp
pháp hóa thành ý chí của nhà nước, ý chí đó được cụ thể hóa trong các văn bản
pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Nhà nước ban hành
và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, vì vậy pháp luật là những quy tắc xử
sự chung có tính bắt buộc đối với mọi người. Trong xã hội có giai cấp tồn tại
nhiều loại quy phạm khác nhau, thể hiện ý chí và nguyện vọng của các giai cấp,
các lực lượng xã hội khác nhau, nhưng chỉ có một hệ thống pháp luật thống nhất
chung cho toàn bộ xã hội.
Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, pháp luật là nhân tố để điều chỉnh về mặt giai cấp
các quan hệ xã hội nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một "trật tư”
phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp
thống trị. Với ý nghĩa đó, pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp.
Bản chất giai cấp là thuộc tính chung của bất kỳ kiểu pháp luật nào nhưng mỗi
kiểu pháp luật lại có những nét riêng và cách biểu hiện riêng. Ví dụ: Pháp luật
chủ nô công khai quy định quyền lực vô hạn của chủ nô, tình trạng vô quyền của
nô lệ. Pháp luật phong kiến công khai quy định đặc quyền, đặc lợi của địa chủ
phong kiến, cũng như quy định các chế tài hà khắc dã man để đàn áp nhân dân
lao động. Trong pháp luật tư sản bản chất giai cấp được thể hiện một cách thận
trọng, tinh vi dưới nhiều hình thức như quy định về mặt pháp lý những quyền tự
do, dân chủ... nhưng thực chất pháp luật tư sản luôn thể hiện ý chí của giai cấp tư
sản và mục đích trước hết nhằm phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản. Pháp luật xã
hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là công
cụ để xây dựng một xã hội mới trong đó mọi người đều được sống tự do, bình
đẳng, công bằng xã hội được bảo đảm.
1.2. Tính xã hội của pháp luật: lOMoARcPSD| 38777299
Pháp luật do nhà nước, đại diện chính thức của toàn xã hội ban hành nên nó
còn mang tính chất xã hội. Nghĩa là, ở mức độ ít hay nhiều (tùy thuộc vào hoàn
cảnh trong mỗi giai đoạn cụ thể), pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của các
giai tầng khác trong xã hội. Ví dụ: Pháp luật tư sản ở giai đoạn đầu, sau khi cách
mạng tư sản thắng lợi, bên cạnh việc thể hiện ý chí của giai cấp tư sản còn thể
hiện nguyện vọng dân chủ và lợi ích của nhiều tầng lớp khác trong xã hội.
Trong quá trình phát triển tiếp theo, tùy theo tình hình cụ thể, giai cấp tư sản đã
điều chỉnh mức độ thể hiện đó theo ý chí của mình để pháp luật có thể "thích
ứng" với điều kiện và bối cảnh xã hội cụ thể. Đối với pháp luật xã hội chủ nghĩa
cũng vậy, bên cạnh việc pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể của mỗi thời kỳ (mỗi giai đoạn nhất định của quá trình phát triển), cũng phải
tính đến ý chí và lợi ích của các tầng lớp khác.
2. Vai trò của pháp luật trong cuộc sống hiện nay:
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là công cụ
không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói
chung và của nền đạo đức nói riêng…
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là công cụ
không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói
chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý
nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức
đạo đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp
luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục đích
xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ
và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức. Pháp luật càng
chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề
cao, đồng thời khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng
và ảnh hưởng một cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ
giữa con người với con người, giữa con người với xã hội. Một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của số đông, phù hợp
với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã
hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa hiện nay, lOMoARcPSD| 38777299
yêu cầu đặt ra đối với pháp luật là phải tác động tích cực đến nền đạo đức của
xã hội. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi cá nhân trong
hoạt động của mình phải tính toán chặt chẽ những điều kiện khách quan và hiệu
quả kinh tế. Khi đời sống kinh tế - xã hội đã và đang có những chuyển biến lớn,
thì quan hệ giữa con người với con người không thể chỉ là mối quan hệ trực
tiếp, cảm tính, chủ yếu vẫn bị chi phối bởi những nguyên tắc và chuẩn mực của
sự phát triển ưu trội về đạo đức như trước đây, mà nó cần được bổ sung những
chuẩn mực, những giá trị mới, như tính kinh tế, tính hiệu quả...
Việc tăng cường vai trò của pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành
và phát triển ý thức đạo đức đã trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết. Quá
trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa cũng như xã hội dân sự đòi hỏi phải tích cực hơn nữa trong việc đưa
pháp luật vào đời sống, hình thành và phát triển ý thức pháp luật. Đồng thời, việc
xã hội hóa tri thức, nâng cao dân trí, tạo cơ sở nâng cao đạo đức lên trình độ duy
lý pháp lý và khoa học, chuyển thói quen điều chỉnh xã hội theo “lệ”, chủ yếu là
sự cảm thông sang điều chỉnh xã hội bằng pháp luật trên nguyên tắc công bằng
và bình đẳng xã hội là điều hết sức cần thiết. Trong quan niệm về chuẩn giá trị và
đánh giá đạo đức, tính khách quan, khoa học phải thay cho sự tùy tiện vốn dựa
trên cơ sở kinh nghiệm, duy cảm, duy tình. Sự điều chỉnh xã hội bằng pháp luật
(với nguyên tắc tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật) làm cho mọi
thành viên trong xã hội có thể tự do phát huy khả năng sáng tạo của mình trong
môi trường lành mạnh - môi trường vận hành có trật tự, nền nếp, kỷ cương của
một xã hội năng động, phát triển và văn minh. Đó cũng chính là nhu cầu tình cảm,
là trách nhiệm và yêu cầu đạo đức đối với mỗi công dân trong giai đoạn mới. KẾT LUẬN
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là công cụ
không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói
chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý
nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức
đạo đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá
trị mới. Nhờ vào ý nghĩa của cặp phạm trù bản chất - hiện tượng, chúng ta đã có
thể phân tích một phần bản chất và vai trò của pháp luật trong cuộc sống hiện đại.
Triết học và pháp luật luôn song hành, pháp luật được xây dựng dựa trên những
căn nguyên, chân lí của triết học. Vì vậy, đối với những người học luật, triết học
là môn học quan trọng, không thể thiếu, giúp người học có thể tiếp thu những
nguồn gốc, bản chất sự việc, làm tiền đề cho việc học luật pháp và phát triển sự
nghiệp liên quan tới pháp luật sau này.