



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58137911 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................................................1
2. Đối tượng nghiên cứu................................................................................................................................1
3. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................................................2
4. Kết cấu tiểu luận.........................................................................................................................................2
Chương 1. Các vấn đề lý luận Triết học Mác - Lênin về cặp phạm trù nguyên nhân - kết
quả...................................2
1.1. Về các khái niệm nguyên nhân và kết
quả....................................................................................................2
1.2. Một số tính chất của mối liên hệ nhân
quả....................................................................................................4 1.2.1. Tính khách
quan....................................................................................................................................4 1.2.2. Tính phổ
biến........................................................................................................................................5 1.2.3. Tính tất
yếu...........................................................................................................................................6
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết
quả...................................................................................7 1.4. Một số kết luận về mặt phương pháp
luận..................................................................................................10
Chương 2. Giải vấn đề tiết giảm chi phí và sử dụng hiệu quả
các........................................................................12 nguồn lực văn phòng của Cảng Hậu Giang hiện
nay.........................................................................................12 2.1. Khái niệm nguồn
lực...............................................................................................................................12
2.2. Vai trò Cảng Hậu Giang và thực tế hoạt động và sử dụng nguồn
lực..............................................................14
2.3. Đánh giá các nhân tố là nguyên nhân ảnh hưởng tới vấn đề tiết giảm chi phí và sử dụng hiệu quả
các nguồn lựcvăn phòng của Cảng Hậu
Giang.....................................................................................................................15
2.4 Giải pháp giảm chi phí và sử dụng hiệu quả các nguồn lực văn phòng của Cảng Hậu Giang hiện nay.................16 2.4.1. Các giải pháp vĩ
mô..............................................................................................................................16
2.4.2. Các giải pháp thực
tế............................................................................................................................18
KẾT LUẬN................................................................................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................................20 lOMoAR cPSD| 58137911 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự vận động của hiện thực, mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ được lặp đi
lặp lại nhiều nhất, phổ biến nhất. Do đó có thể nói, mối liên hệ nhân quả là một trong
những mối liên hệ tự nhiên đầu tiên được phản ánh vào trong đầu óc của con người.
Chúng ta nói rằng, phạm trù là kết quả của những quá trình phản ánh những mối liên
hệ được lặp đi lặp lại của đời sống, và trong trường hợp này, phạm trù nguyên nhân và
kết quả là những phạm trù chứng minh cho quan niệm đó. Mối liên hệ nguyên nhân và
kết quả, hay gọi tắt là mối liên hệ nhân - quả là mối liên hệ vốn có của thế giới vật chất.
Nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chính những tác động của
các sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất, nó được phản ánh ở trong nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến đã làm cho thế giới vận động, sự tác động đó nếu đặt trong mối
quan hệ với kết quả thì đó là nguyên nhân. Vì vậy, bất kỳ một sự vận động nào ở trong
thế giới vật chất suy cho cùng đều là những mối liên hệ nhân quả, xét ở những phạm
vi khác nhau, những thời điểm khác nhau và những hình thức khác nhau. Nói một cách
khác, nếu như vận động là thuộc tính của thế giới vật chất, là phương thức tồn tại của
vật chất thì vận động luôn luôn là sự tác động, hoặc là sự tác động giữa những bộ phận
khác nhau ở trong cùng một một sự vật hiện tượng, hoặc là sự tác động lẫn nhau giữa
các sự vật hiện tượng.
Không nằm ngoài quy luật vận động được chỉ ra bởi Triết học Mác - Lênin, vấn
đề nguồn lực và sử dụng nguồn lực cũng có mối quan hệ biện chứng, ảnh hưởng trực
tiếp tới vấn đề tiết giảm chi phí và sử dụng hiệu quả nguồn lực.
Để làm rõ hơn vấn đề này, dựa trên quan điểm của Triết học Mác - Lênin về cặp
phạm trù nguyên nhân - kết quả để lý giải vấn đề tiết giảm chi phí và sử dụng hiệu quả
các nguồn lực văn phòng của Cảng Hậu Giang hiện nay.
2. Đối tượng nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả
của Triết học Mác - Lênin, đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản để nâng cao giải lOMoAR cPSD| 58137911
vấn đề tiết giảm chi phí và sử dụng hiệu quả các nguồn lực văn phòng của Cảng Hậu Giang hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận là quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập, trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, như phương pháp trừu tượng hóa khoa
học, phương pháp lôgíc - lịch sử...
4. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận gồm có 02 phần:
- Chương 1. Các vấn đề lý luận Triết học Mác - Lênin về cặp phạm trùnguyên nhân - kết quả.
- Chương 2. Giải vấn đề tiết giảm chi phí và sử dụng hiệu quả các nguồn lựcvăn
phòng của Cảng Hậu Giang hiện nay.
Chương 1. Các vấn đề lý luận Triết học Mác - Lênin về
cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả
1.1. Về các khái niệm nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân và kết quả là một cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật của
Chủ nghĩa Mác - Lênin và là một trong những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng hai phạm trù.
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Ví dụ: Lao động
và vai trò của lao động là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành ngôn
ngữ và ý thức của con người. Cần phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ:
- Nguyên cớ là một sự kiện xảy ra ngay trước kết quả nhưng không sinh ra kếtquả.
Nguyên cớ có liên hệ nhất định với kết quả nhưng đó là mối liên hệ bên ngoài, không bản chất.
- Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên
nhânnhưng có tác dụng đối với việc sinh ra kết quả. lOMoAR cPSD| 58137911
Các điều kiện này cùng với những hiện tượng khác có mặt khi nguyên nhân gây
ra kết quả được gọi là hoàn cảnh.
Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các
mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra. Hoặc nói một cách khác,
kết quả là những biến đổi do sự tác động của các yếu tố thuộc nguyên nhân.
Thông thường, nguyên nhân được hiểu là hiện tượng A mà tác động của nó gây
nên, làm biến đổi hay kéo theo sau nó hiện tượng khác - hiện tượng B. Trong trường
hợp này A được gọi là nguyên nhân, còn B được gọi là kết quả.
Có thể coi đây là mức độ hiểu biết ban đầu về mối liên hệ nhân quả. Còn nếu tìm
hiểu sâu hơn về nguyên nhân thực sự của B ta thấy không phải bản thân hiện tượng A,
mà chính là sự tác động của nó, hay chính xác hơn, sự tác động qua lại của nó với các
hiện tượng C,D,E... nào đấy mới chính là cái dẫn đến sự xuất hiện hiện tượng B. Chẳng
hạn, không phải dòng điện là nguyên nhân làm bóng đèn phát sáng, mà chính là tương
tác của dòng điện với dây dẫn (trong trường hợp này, với dây tóc của bóng đèn) mới
thực sự là nguyên nhân làm cho bóng đèn phát sáng. Vậy chính tương tác mới thực sự
là nguyên nhân của các sự biến. Ph.Ăng-ghen viết: “... Khoa học tự nhiên xác nhận
câu nói của Hêghen... cho rằng tác dụng lẫn nhau là causa finalis (nguyên nhân cuối
cùng) thật sự của các sự vật”.
Nếu tương tác là nguyên nhân cuối cùng thật sự của sự vật thì rõ ràng là trong bất
cứ trường hợp nào, suy cho cùng, nguyên nhân bao giờ cũng là tương tác giữa các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra những biến đổi nhất định, còn
kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự
vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Đây là mức độ hiểu biết sâu hơn về nguyên nhân và kết quả. Nó khắc phục được
hạn chế của quan điểm coi nguyên nhân của hiện B là một hiện tượng A nào đấy mà
trong những điều kiện nhất định gây nên B (tức là nguyên nhân của một sự vật không
phải tồn tại trong chính bản thân nó, mà là ngoài nó, ở sự vật khác), khắc phục được
thiếu sót của quan điểm, theo đó thì nguyên nhân cuối cùng của sư vận động, phát triển lOMoAR cPSD| 58137911
của toàn bộ thế giới vật chất không phải ở chính thế giới vật chất, mà ở ngoài nó, trong
một lực lượng phi chất nào đấy, thí dụ là thần linh, thượng đế,…v.v.
1.2. Một số tính chất của mối liên hệ nhân quả
1.2.1. Tính khách quan
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ nhân quả là mối
liên hệ khách quan vốn có của bản thân sự vật. Nó tồn tại ngoài ý muốn của con người,
không phụ thuộc vào việc ta có nhận thức được nó hay không.
Ngược lại với quan điểm trên đây, chủ nghĩa duy tâm không thừa nhận mối liên
hệ nhân quả tồn tại ngay trong bản thân sự vật. Chủ nghĩa duy tâm khách quan và tôn
giáo tìm nguyên nhân của mọi hiện tượng ở một thực thể tinh thần hoặc ở Thượng đế
tồn tại bên ngoài thế giới vật chất, là nguyên nhân gây nên mọi biến đổi trên cõi đời
này. Còn chủ nghĩa duy tâm chủ quan thì coi khái niệm nguyên nhân và kết quả chẳng
qua chỉ là những ký hiệu mà con người dùng để ghi những cảm giác của mình. Những
cảm giác này được gọi một cách tuỳ tiện, cái này là nguyên nhân, cái kia là kết quả.
Chẳng hạn, Hium (nhà triết học duy tâm Anh thế kỷ XVIII) cho rằng, nhân quả chỉ có
trong trị giác, nó là thói quen của chúng ta tiếp nhận sự vật cái nọ sau cái kia mà thôi.
Ví dụ, chúng ta thường xuyên quan sát thấy rằng sau khi đốt lửa sẽ có hiện tượng nóng.
Sự lặp lại quan hệ nối tiếp nhau này đã đưa chúng ta đến ấn tượng rằng hễ sau cái nọ
sẽ có cái kia. Kết quả là chúng ta tin rằng ngọn lửa luôn luôn gây nên hiện tượng nóng
và ta coi ngọn lửa là nguyên nhân của sự nóng. Như vậy là theo Hium, tính nhân quả
chỉ là mối liên hệ ổn định của các trị giác được lặp đi lặp lại trong ý thức của một người
hay của nhiều người, chỉ là thói quen tâm lý chứ không có trong bản thân sự vật. Hium
viết rằng, như chúng ta tin rằng lửa làm cho ta nóng và nước làm cho ta lạnh thì chỉ là
vì một ý kiến khác như thế sẽ làm cho chúng ta đau khổ quá đỗi.
Sự phát triển của khoa học và thực tiễn hoàn toàn bác bỏ những điểm sai lầm đó.
Ph. Ăngghen nhấn mạnh: “Hoạt động của con người là hòn đá thử vàng của tính nhân
quả”.1 Việc con người không những chỉ quan sát thấy hiện tượng nọ sau hiện tượng kia
mà còn có thể gây ra một quá trình nhất định bằng cách tạo ra những điều kiện trong
1 C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.719 lOMoAR cPSD| 58137911
đó quá trình ấy xảy ra ở giới tự nhiên hoàn toàn chứng tỏ rằng mối liên hệ nhân quả là
vốn có trong bản thân sự vật.
Vì mối quan hệ nhân quả là vốn có trong bản thân sự vật nên không nên đồng nhất
nó với khả năng tiên đoán. B.Russell viết: “Định luật nhân quả... là bất kỳ định luật
nào... có thể cho chúng ta khả năng dựa trên một số biến cố để đưa ra một kết luận
nào đó về một biến cố khác (hay nhiều biến cố khác)”.2 Ở đây nguyên lý nhân quả đã
bị đồng nhất với khả năng tiên đoán. Theo quan điểm này thì mối liên hệ nhân quả
không phải có trong bản thân sự vật, mà chỉ là sự liên hệ giữa các hiểu biết của chúng
ta về các quá trình, tức là khi dựa vào một hiện tượng ta có thể tiên đoán được về một
hiện tượng khác thì ở đó có nhân quả. Nói cách khác, mối liên hệ nhân quả tồn tại phụ
thuộc vào chủ thể đang nhận thức. Đây là một sự lầm lẫn và rất tiếc rằng sự làm lẫn
này rất hay xảy ra. Trong khi đó, sự thực thì mối liên hệ nhân quả tồn tại một cách
khách quan, không tuỳ thuộc vào việc ta có thể tiên đoán được về một hiện tượng khi
dựa vào một hiện tượng khác hay không. Con người chỉ có thể tìm ra mối liên hệ nhân
quả ấy trong giới tự nhiên khách quan chứ không phải là tạo ra nó từ trong đầu óc.
1.2.2. Tính phổ biến
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì mọi hiện tượng đều có
nguyên nhân. Tất cả mọi cái trong tự nhiên và trong xã hội đều được gây nên bởi những
nguyên nhân nhất định. Không có hiện tượng nào không có nguyên nhân cả. Chỉ có
điều nguyên nhân ấy đã được phát hiện hay chưa được phát hiện mà thôi.
Tư tưởng cho rằng mối liên hệ nhân quả bao trùm tất cả mọi hiện tượng của hiện
thực, không trừ một hiện tượng nào là nội dung cơ bản của nguyên tắc hết sức quan
trọng của nhận thức khoa học. Chủ nghĩa duy tâm hiện đang ra sức phủ nhận nguyên
tắc này và thay vào đó bằng vô định luận - một học thuyết sai lầm cho rằng không có
sự ràng buộc nhân quả trong tự nhiên, rằng có những hiện tượng không có nguyên
nhân. Hiện nay vấn đề này đang được tranh luận sôi nổi trong vật lý học hiện đại, giữa
một bên là những người khẳng định quyết định luận và một bên là những người khẳng
định vô định luận trong các hiện tượng vi mô.
2 B. Russell, Sự nhận thức của con người, (Tiếng Nga), Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1957, tr.362. lOMoAR cPSD| 58137911
1.2.3. Tính tất yếu
Khi xem xét mối liên hệ nhân quả, chúng ta thấy rằng kết quả do nguyên nhân gây
ra phụ thuộc vào những điều kiện nhất định. Những điều kiện này là những hiện tượng
cần thiết cho một biến cố nào đó xảy ra nhưng bản thân chúng không gây nên biến cố
ấy. Tuy nhiên, nếu không có chúng thì nguyên nhân không thể gây nên kết quả được.
Ví dụ, nguyên nhân của một căn bệnh nào đó là do vi trùng xâm nhập vào cơ thể và tác
động với cơ thể. Nhưng để tác động ấy có thể gây nên được căn bệnh tương ứng thì
cần có những điều kiện nhất định, cụ thể là vi trùng phải xâm nhập được vào cơ thể
hiện đang ở vào một trạng thái nhất định nào đấy. Các điều kiện này cùng với các hiện
tượng khác có mặt khi nguyên nhân gây ra kết quả được gọi là hoàn cảnh.
Thực tiễn cho thấy rằng, một nguyên nhân nhất định trong những hoàn cảnh nhất
định chỉ có thể gây ra kết quả nhất định. Điều đó chứng tỏ mối liên hệ nhân quả trong
những điều kiện nhất định có tính tất yếu. Ví dụ, vật trong chân không luôn rơi với gia
tốc 9,8 m/s. Nước ở áp suất 1 atmốtphe luôn luôn sôi ở 100°C, v.v.. Chính nhờ có tính
tất yếu này của mối liên hệ nhân quả mà hoạt động thực tiễn của con người mới có thể tiến hành được.
Như chúng ta đã biết, trong thiên nhiên không thể có những sự vật hoàn toàn giống
nhau. Vì vậy, khái niệm nguyên nhân như nhau trong những hoàn cảnh hoàn toàn như
nhau bao giờ cũng cho kết quả hệt nhau ở mọi nơi, mọi lúc là một khái niệm trừu tượng.
Tuy nhiên, có những sự vật, những hiện tượng về cơ bản là giống nhau. Những sự vật
những hiện tượng này trong những hoàn cảnh tương đối giống nhau sẽ gây nên những
kết quả giống nhau về cơ bản. Ví dụ: thóc gieo xuống một mảnh ruộng sẽ cho lúa chứ
không cho ngô, khoai v.v.. Nếu tính đến tình hình này thì tính tất yếu của mối liên hệ
nhân quả phải được hiểu như sau: Nếu các nguyên nhân và hoàn cảnh càng ít khác nhau
bao nhiêu thì các kết quả do chúng gây nên cũng càng ít khác nhau hay nhiều. Nếu hiểu
tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả như thế thì ta có thể giải thích được nhiều hiện
tượng, đặc biệt là trong lĩnh vực vật lý vi mô, nơi các nhà triết học và vật lý học duy
tâm hiện nay đang tìm mọi cách phủ định tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả và cho
rằng điện tử có “tự do ý chí” trong quá trình chuyển động của mình. lOMoAR cPSD| 58137911
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, xuất hiện trước kết quả. Còn kết quả chỉ xuất
hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động Tuy nhiên, không phải sự nối
tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng cũng đều biểu hiện mối liên hệ nhân quả.
Ví dụ, ngày luôn luôn "đến sau" đêm, sấm luôn luôn "đến sau" chớp
v.v., nhưng ngày không phải là nguyên nhân của đêm, sấm không phải là nguyên nhân của chớp.
Như vậy, khi xem xét mối liên hệ nhân quả mà chỉ chú ý đến tính liên tục về thời
gian không thôi thì chưa đủ. Cái quan trọng nhất, cũng đồng thời là cái phân biệt liên
hệ nhân quả với liên hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian chính là ở chỗ giữa nguyên nhân
và kết quả còn có mối quan hệ sản sinh, quan hệ trong đó nguyên nhân sinh ra kết quả.
Cần phân biệt quan hệ nhân quả với tương quan hàm số. Hàm số là một trong
những khái niệm cơ bản của toán học. Người ta nói rằng đại lượng Y sẽ là hàm số của
đại lượng X nếu như giữa X và Y có một quan hệ phụ thuộc, trong đó ứng với mỗi
giá trị của X sẽ có một giá trị tương ứng của Y. Ví dụ, quãng đường đi được S là một
hàm số của thời gian t vì khi vật chuyển động với tốc độ cho trước thì quãng đường
đi được sẽ tăng lên nếu thời gian tăng (S = vt).
Dùng quan hệ hàm số người ta có thể diễn tả nhiều quan hệ phụ thuộc khác nhau,
trong đó có cả một số quan hệ nhân quả. Khi ấy kết quả sẽ là hàm số của nguyên nhân.
Tuy nhiên, không phải mọi quan hệ hàm số đều biểu thị quan hệ nhân quả. Ví dụ: công
thức tính diện tích của hình tròn: S= n.R diễn tả quan hệ hàm số giữa diện tích S và bán
kính R, nhưng giữa S và R ở đây không có quan hệ nhân quả. Ngược lại, có nhiều mối
quan hệ nhân quả không diễn đạt được bằng tương quan hàm số. Ví dụ: Những sự biến
bất thường xảy ra trong cuộc sống của một người đều có nguyên nhân của mình, đều
thuộc về mối liên hệ nhân quả, nhưng không thể diễn đạt được bằng tương quan hàm
số. Như vậy, ngay về mặt phạm vi tác động cũng đã không thể đồng nhất liên hệ nhân
quả với tương quan hàm số được. Nhưng điều quan trọng hơn là trong tương quan hàm
số, cái quan trọng nhất trong liên hệ nhân quả đã bị che mờ đi. Đó là: trong liên hệ nhân lOMoAR cPSD| 58137911
quả, giữa nguyên nhân và kết quả phải có mối quan hệ sản sinh, quan hệ trong đó
nguyên nhân sinh ra kết quả, còn trong tương quan hàm số yêu cầu đó không cần thiết.
Nguyên nhân sinh ra kết quả như thế nào. Thực tiễn cho thấy, thứ nhất, cùng một
nguyên nhân có thể gây nên nhiều kết quả khác nhau tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể.
Ví dụ, cùng một chủ trương cần kích thích lợi ích cá nhân khi áp dụng vào trường hợp
này có thể gây nên sự hăng hái của người lao động nhưng trong trường hợp khác lại có
thể gây nên những hành vi tội lỗi. Thứ hai, cùng một kết quả có thể được gây nên bởi
những nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ, ví dụ, vật thể nóng lên có thể do bị
đốt nóng, có thể do cọ sát với vật thể khác, có thể do mặt trời chiếu vào, v.v. hay tác
động cùng một lúc, ví dụ, phẩm chất đạo đức của một học sinh vừa là kết quả phấn đấu
của bản thân, vừa là kết quả giáo dục phối hợp của cả gia đình, nhà trường và toàn xã hội.
Khi các nguyên nhân tác động lên sự vật cùng một lúc thì hiệu quả tác động của
từng nguyên nhân tới sự hình thành kết quả sẽ khác nhau tuỳ thuộc vào hướng tác động
của nó. Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì
chúng sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các
nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì chúng sẽ làm
suy yếu, thậm chí hoàn toàn tiêu diệt tác dụng của nhau.
Căn cứ vào tính chất và vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, có
thể phân các nguyên nhân ra thành:
Một là, nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu: những nguyên nhân nào
mà thiếu chúng thì kết quả sẽ không thể xảy ra gọi là nguyên nhân chủ yếu.
Còn những nguyên nhân nào mà sự có mặt của chúng chỉ quyết định những đặc điểm
nhất thời, không ổn định, cá biệt của hiện tượng thì gọi là nguyên nhân thứ yếu. Ví dụ,
nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảng kinh tế dưới chế độ tư bản chủ nghĩa là mâu
thuẫn giữa lao động có tính chất xã hội với chiếm hữu có tính chất cá nhân. Còn nguyên
nhân thứ yếu ở đây là sự giảm nhu cầu đối với một mặt hàng nào đó, sự phá sản của
một nhà băng nào đấy gây ra sự khánh kiệt của một xí nghiệp có liên quan với nhà băng này, v.v.. lOMoAR cPSD| 58137911
Hai là, nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài: nguyên nhân bên trong
là sự tác động lẫn nhau giữa những mặt hay những yếu tố của cùng một kết cấu vật
chất nào đó và gây ra những biến đổi nhất định. Còn nguyên nhân bên ngoài là sự tác
động lẫn nhau giữa những kết cấu vật chất khác nhau và gây ra những biến đổi thích
hợp trong những kết cấu vật chất ấy.
Nguyên nhân bên trong bao giờ cũng quyết định sự hình thành, tồn tại và phát
triển của các kết cấu vật chất. Còn nguyên nhân bên ngoài chỉ phát huy được tác dụng
thông qua những nguyên nhân bên trong.
Ví dụ: Thắng lợi của Liên Xô trong chiến tranh thế giới lần thứ II đã tạo ra những
điều kiện thuận lợi cho các dân tộc thuộc địa giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc mình.
Nhưng thắng lợi đó, như thực tế lịch sử đã cho thấy, chỉ phát huy được tác dụng ở nơi
nào mà cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân đã đạt đến đỉnh cao và lợi thế đã
nghiêng về phía các lực lượng nổi dậy làm cách mạng.
Ba là, nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan: nguyên nhân khách
quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động độc lập đối với ý thức của con người, của
các giai cấp, các chính Đảng v.v.. Còn nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân xuất hiện
và tác động phụ thuộc vào ý thức của con người, trong lĩnh vực hoạt động của các cá
nhân, các giai cấp, các chính Đảng, v.v. nhằm thúc đẩy hay kìm hãm sự xuất hiện, phát
triển... của các quá trình hiện thực.
Nếu hoạt động của con người phù hợp với quan hệ nhân quả khách quan thì sẽ
đẩy nhanh sự biến đổi của các hiện tượng. Ngược lại, nếu hoạt động của con người
không phù hợp với quan hệ nhân quả khách sẽ kìm hãm sự biến đổi ấy.
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai
trò thụ động đối với nguyên nhân, trái lại, nó lại tác động tích cực ngược trở lại đối với
nguyên nhân. Ví dụ, nhúng một thanh sắt đã nung đỏ vào chậu nước lạnh. Kết quả là
nhiệt độ của nước ở trong chậu tăng lên. Sự tăng nhiệt độ của nước ở trong chậu, đến
lượt mình, lại kìm hãm tốc độ toả nhiệt của thanh sắt. Ở đây, kết quả, sau khi xuất hiện,
đã tác động tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân. Hiện tượng này là phổ biến
trong mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả. lOMoAR cPSD| 58137911
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả còn thể hiện ở chỗ, cái trong
mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại.
Ph.Ăngghen đã nhận xét rằng: “Nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý
nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất
định; nhưng một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ
chung của nó với toàn bộ thế giới thì những khái niệm ấy lại vẫn gắn với nhau và xoắn
xuýt với nhau trong một khái niệm về sự tác động qua lại lẫn nhau một cách phổ biến,
trong đó nguyên nhân và kết quả luôn luôn thay đổi vị trí cho nhau: cái ở đây hoặc
trong lúc này là nguyên nhân thì ở chỗ khác hoặc ở lúc khác lại là kết quả và ngược lại”.3
Một hiện tượng nào đó với tính cách là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh
ra, đến lượt mình, lại trở thành nguyên nhân của hiện tượng khác. Hiện tượng khác này
lại trở thành nguyên nhân của hiện tượng thứ ba v.v. và quá trình này cứ thế tiếp tục
mãi không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó
không có khâu nào có thể trở thành khâu bắt đầu hay khâu cuối cùng. Vì vậy, các chuỗi
nhân quả là “không đầu” và “không đuôi”. Chúng vô tận cả trong quá khứ và trong
tương lai. Do đó, một hiện tượng nào đó được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ
cũng ở trong một quan hệ xác định cụ thể.
1.4. Một số kết luận về mặt phương pháp luận
Vì mọi hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, tồn tại và hiện tượng nào đấy,
mà chỉ có vấn đề các nguyên nhân ấy đã được phát hiện hay chưa được phát hiện mà
thôi. Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của nhận thức khoa học nói riêng, chính là đi
tìm cho được những nguyên nhân còn chưa được phát hiện đó. Trong quá trình đi tìm
nguyên nhân ấy, cần lưu ý:
Vì mối liên hệ nhân quả tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào thức con người,
nên chúng ta chỉ có thể tìm nguyên nhân của hiện tượng ở trong chính thế giới các hiện
tượng chứ không thể ở ngoài nó.
3 C.Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.38. lOMoAR cPSD| 58137911
Vì nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, nên khi tìm nguyên nhân của một hiện
tượng nào đấy cần tìm giữa những mặt, những sự kiện, những mối liên hệ đã xảy ra
trước khi hiện tượng xuất hiện.
Vì dấu hiệu đặc trưng của nguyên nhân trong mối liên hệ với kết quả là nguyên
nhân sinh ra kết quả, nên khi xác định nguyên nhân của hiện tượng cần đặc biệt chú ý
đến dấu hiệu đặc trưng ấy.
Vì một hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra, nên trong quá trình xác
định nguyên nhân của một hiện tượng nào đấy cần hết sức tỉ mỉ, thận trọng, vạch ra
cho được hiệu quả tác động của từng mặt, từng sự kiện, từng mối liên hệ cũng như của
các tổ hợp khác nhau của chúng đã làm hiện tượng nảy sinh để trên cơ sở đó có thể xác
định đúng nguyên nhân của hiện tượng.
Vì một hiện tượng trong mối quan hệ này là kết quả và trong mối quan hệ khác có
thể là nguyên nhân, nên để hiểu rõ tác dụng của hiện tượng ấy cần xem xét nó trong
những quan hệ xác định cụ thể trong quan hệ mà nó giữ vai trò là nguyên nhân cũng
như trong quan hệ mà nó là kết quả.
Vì mối liên hệ nhân quả mang tính tất yếu, nên ta có thể dựa vào mối liên hệ nhân
quả để hành động. Trong quá trình hoạt động, cần lưu ý muốn loại bỏ một hiện tượng
nào đó cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh ra nó.
Ngược lại, muốn cho hiện tượng ấy xuất hiện cần tạo ra nguyên nhân cùng những
điều kiện cần thiết cho nguyên nhân sinh ra nó phát sinh tác dụng. Vì một hiện tượng
có thể xuất hiện do nhiều nguyên nhân tác động riêng lẻ hoặc đồng thời, nên trong hoạt
động thực tiễn cần tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà lựa chọn phương pháp hành động thích
hợp chứ không nên hành động rập khuôn theo phương pháp cũ.
Vì các nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong giữ vai trò quyết định trong
sự xuất hiện, vận động và tiêu vong của hiện tượng, nên trong hoạt động thực tiễn cần
dựa trước hết vào các nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong.
Để đẩy nhanh (hay kìm hãm hoặc loại trừ) sự biến đổi của một hiện tượng xã hội
nào đó cần làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều (hay lệch hoặc
ngược chiều) với chiều vận động của mối quan hệ nhân quả khách quan. lOMoAR cPSD| 58137911
Vì sau khi xuất hiện kết quả lại tác động tích cực ngược trở lại nguyên nhân, nên
trong hoạt động thực tiễn cần tính đến tác động ngược trở lại đó để dự kiến các phương
án hành động cho thích ứng.
Chương 2. Giải quyết vấn đề giảm chi phí và sử dụng hiệu quả các nguồn
lực văn phòng của Cảng Hậu Giang hiện nay
2.1. Khái niệm nguồn lực
Nguồn lực là tất cả các “yếu tố đầu vào” sẵn sàng đưa vào sử dụng hoặc dự trữ để
phục vụ sản xuất của một quốc gia, địa phương, doanh nghiệp, gia đình hoặc cá nhân.
Theo phương thức tồn tại, có nguồn lực vật thể và nguồn lực phi vật thể; theo tính chất
có nguồn lực tự nhiên (vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên), hệ thống tài sản quốc gia,
nguồn lực xã hội - nhân văn (tri thức, lao động, di sản văn hóa, thông tin, khoa học -
công nghệ...), nguồn lực tài chính; theo chủ sở hữu có nguồn lực nhà nước, nguồn lực
doanh nghiệp và nguồn lực xã hội.
Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức và cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư khiến quan niệm về nguồn lực có nhiều thay đổi. Trong khi các nguồn lực
truyền thống ngày càng cạn kiệt thì con người lại phát hiện, phát minh những nguồn
lực mới không chỉ bù đắp những thiếu hụt, bổ sung nhu cầu phát triển, mà còn mang
tính “xanh”, “sạch”, thân thiện môi trường, như nguồn năng lượng tái tạo, nguồn lực
tri thức, nguồn lực thông tin... Nhờ thành tựu khoa học công nghệ mà liên kết, “dữ liệu
hóa” khiến thông tin trở thành nguồn lực quan trọng; làm cho phế thải có thể tái chế,
trở thành nguồn lực “đầu vào” cho sản xuất gắn với nguyên lý tuần hoàn; biến những
nơi có tiềm năng năng lượng gió, năng lượng bức xạ nhiệt mặt trời có cơ hội phát triển
các ngành năng lượng tái tạo. Tri thức ngày càng nổi lên trở thành nguồn lực quan trọng
bậc nhất trong nền kinh tế tri thức, đẩy các nguồn lực khác xuống hàng thứ yếu, làm
đảo lộn vai trò giữa nguồn lực vô hình và hữu hình, giữa sở hữu giá trị và sở hữu hiện vật.
Nguồn lực có tính giới hạn, tính cạnh tranh và tính động. Nguồn lực tự nhiên
truyền thống ngày càng khan hiếm, do không có nhiều khả năng tái tạo trước nhu cầu
khai thác, sử dụng theo cấp số nhân của con người, nhất là đất đai, năng lượng hóa lOMoAR cPSD| 58137911
thạch... Tính khan hiếm đặt ra yêu cầu phải sử dụng nguồn lực không tái tạo một cách
tiết kiệm, hiệu quả, bảo đảm hài hòa giữa khai thác phục vụ trước mắt và dự trữ, bồi
đắp vì sự phát triển bền vững trong tương lai. Tính cạnh tranh nguồn lực ngày càng
khốc liệt trong nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, không chỉ giữa các chủ thể trong
từng quốc gia, mà kể cả giữa các quốc gia trên phạm vi toàn cầu. Không có cuộc chiến
tranh, xung đột nào giữa các quốc gia nằm ngoài mục đích chiếm hữu, kiểm soát nguồn
lực, như tranh giành lãnh thổ, mở rộng thị trường, kiểm soát các vị trí địa chiến lược,
giành giật dầu mỏ, nguồn nước ngọt... Ngày nay, cạnh tranh chiến lược về khoa học,
công nghệ, thu hút nhân tài trở nên phổ biến trong quan hệ quốc tế cũng không nằm
ngoài tranh giành nguồn lực. Tính “động” thể hiện ở khả năng dịch chuyển của nguồn
lực từ chỗ sản xuất kém hiệu quả đến chỗ sản xuất hiệu quả hơn, khiến các quốc gia
luôn tìm cách cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh để nâng cao sức hấp dẫn thu hút
nguồn lực, còn các nhà đầu tư luôn tìm bến đỗ an toàn, hiệu quả, sinh lời cao cho tài
sản của mình. Tính “động” của nguồn lực còn thể hiện ở khả năng chuyển hóa, tái tạo
nguồn lực, nhất là nguồn lực tri thức, thông tin, nguồn lực văn hóa...
Nguồn lực có vai trò to lớn đối với toàn nhân loại, từng quốc gia - dân tộc và mỗi
chủ thể sản xuất, kinh doanh.4
2.2. Vai trò Cảng Hậu Giang và thực tế hoạt động và sử dụng nguồn lực
VIMC Hậu Giang hiện là đơn vị quản lý Cảng Hậu Giang (nằm trong Khu công
nghiệp Sông Hậu), là cảng biển quốc tế chính thức được đi vào hoạt động từ 8/2017.
Cảng có các hạng mục chính gồm: Bến cảng số 1, công trình kho bãi, hệ thống hạ tầng
kỹ thuật đồng bộ đi kèm; có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải đến
20.000DWT; công suất hàng hóa thông qua cảng khoảng 1 triệu tấn/ năm.5
Cảng Hậu Giang có vị trí chiến lược, là đầu mối giao thương giữa TP.Hồ Chí
Minh với Vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long (TP.Cần Thơ, Cà Mau,
Kiên Giang, An Giang); giữa Vương quốc Campuchia với các tỉnh Đồng bằng sông
Cửu Long và TP.Hồ Chí Minh. Đây còn là nơi lưu kho, bảo quản, vận chuyển nguyên
4 https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ket-noi-phan-bo-su-dung-hieu-quanguon-
luc-nha-nuoc-nguon-luc-doanh-nghiep-va-nguon-luc-xa-hoi-cho-phat-trien-kinh-te
5 https://vimc.co/vinalines-hau-giang-chung-tay-khai-thac-tiem-nang-cang-bien-logistics-cua-khu-vuc/ lOMoAR cPSD| 58137911
vật liệu đầu vào cho các khu công nghiệp; là điểm tập kết hàng hóa từ các trung tâm
sản xuất công nghiệp để phân phối cho thị trường trong nước và quốc tế thông qua hệ
thống đường bộ và đường thủy.
Ngoài ra, với việc nằm giữa trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long nên Cảng
Hậu Giang còn tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Hậu Giang.
Cụ thể, thông qua hoạt động của cảng đã giúp khai thác tiềm năng về logistics, góp
phần làm giảm chi phí giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Ngoài ra,
cảng còn giúp thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phụ trợ và sản xuất công nghiệp,
tạo nguồn thu cho ngân sách tỉnh.
Do hạn chế luồng lạch và kết nối giao thông, từ khi đi vào khai thác (năm 2019)
đến nay, cảng VIMC Hậu Giang dù đã đạt hơn 90% công suất thiết kế và đầu tư thêm
một bến cảng 5.000 DWT để giải phóng tình trạng kẹt cầu nội bộ. Tuy nhiên, cảng vẫn
phải chia sẻ hàng hóa nông sản xuất khẩu với khu vực cảng biển TPHCM, Cái Mép –
Thị Vải do chưa đáp ứng được việc đón tàu vận tải container chuyên dụng đi các tuyến
quốc tế có trọng tải lớn hơn 20.000 DWT.
2.3. Đánh giá các nhân tố là nguyên nhân ảnh hưởng tới vấn đề tiết giảm chi
phí và sử dụng hiệu quả các nguồn lực văn phòng của Cảng Hậu Giang
Hoạt động sản xuất kinh doanh của Cảng Hậu Giang những năm qua đạt được
nhiều thành quả đáng khích lệ. Công ty đã quan tâm hơn đến công tác đào tạo nguồn
nhân lực nên đội ngũ lao động tại công ty có kỹ năng nghề nghiệp, năng lực chuyên
môn tốt, có tâm huyết với nghề nghiệp. Tuy nhiên, công tác phát triển nguồn nhân lực
của Cảng Hậu Giang những năm qua vẫn còn có những hạn chế: Chưa xây dựng chiến
lược phát triển nguồn lực hoàn chỉnh; Chưa chú trọng chuyển dịch cơ cấu nguồn lực
theo hướng phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, toàn diện gắn với định hướng
phát triển của ngành và doanh nghiệp. Đào tạo nguồn nhân lực còn chậm đổi mới, chưa
đạt yêu cầu về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt chưa quan tâm đến việc
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Phát triển nguồn lực phải theo chiến lược kinh doanh của tổ chức. Tổ chức muốn
hướng đến cái gì trong tương lai thì sẽ quyết định đến năng lực cần có của mỗi cá nhân lOMoAR cPSD| 58137911
trong tổ chức nếu muốn phát triển cùng tổ chức. Vì vậy, tổ chức cần xây dựng chiến
lược kinh doanh cho tổ chức mình, từ đó làm cơ sở cho các hoạt động phát triển nguồn lực.
Tổ chức cần ban hành những chính sách cần thiết nhằm thúc đẩy công tác phát triển nguồn lực:
- Chính sách tiền lương, phúc lợi phù hợp, tương xứng với sức lao động, nănglực cá nhân,…
- Chính sách phụ cấp ưu đãi đối với cán bộ quản lý có trình độ sau đại học,công
nhân kỹ thuật có bậc thợ cao, làm việc trong môi trường độc hại,..
- Chính sách sắp xếp, sử dụng, bố trí nhân lực có trình độ chuyên môn cao.
Văn hóa doanh nghiệp là phong tục, tập quán, nghi thức, các giá trị được chia sẻ
tạo thành các chuẩn mực hành vi chi phối hành vi ứng xử của người lao động. Chức
năng chủ yếu của văn hóa doanh nghiệp là tạo nên sự thống nhất của mọi thành viên, trong doanh nghiệp.
Công tác phát triển nguồn nhân lực phải làm cho người lao động cảm thấy thoả
mãn, hài lòng, gắn bó với doanh nghiệp bởi vì thành công của tổ chức phụ thuộc rất
lớn vào con người xét về nhiều khía cạnh khác nhau.
Chu kỳ kinh tế và chu kỳ kinh doanh ảnh hưởng lớn đến phát triển nguồn nhân
lực. Các yếu tố về văn hóa xã hội đóng vai trò quan trọng trong nâng cao chất lượng
nguồn lực: đổi mới tư duy, thái độ và đạo đức nghề nghiệp, lối sống giao tiếp, ứng xử,
chuẩn mực đạo đức, lối sống,..
Hệ thống pháp luật bao gồm thể chế, cơ chế với các quy định về cơ hội lao động,
bình đẳng và quyền con người (tuổi và khả năng lao động, tiền lương, thời gian làm
việc, nghỉ ngơi, thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, hưu trí, luật pháp về an
toàn, điều kiện lao động, công đoàn, quan hệ lao động,…) có ảnh hưởng trực tiếp đến
toàn bộ hoạt động quản trị nguồn nhân lực, trong đó có phát triển nguồn nhân lực.6
6 http://vimchaugiang.vn/?com=com_content&view=article&id=236 lOMoAR cPSD| 58137911
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ đòi hỏi phải tăng cường công tác
đào tạo, đào tạo lại, sắp xếp lực lượng lao động, và thu hút nguồn nhân lực mới có trình
độ kiến thức và kỹ năng cao.
2.4 Giải pháp giảm chi phí và sử dụng hiệu quả các nguồn lực văn phòng của
Cảng Hậu Giang hiện nay
2.4.1. Các giải pháp vĩ mô
Cần hoàn thiện các quy định về giá, phí tại cảng biển. Quyết định đưa ra 3 nhiệm
vụ thực hiện Quy hoạch gồm: thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật về quy
hoạch; hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về hàng hải; phát triển kết cấu hạ tầng.
Trong đó, thực hiện nghiên cứu đề xuất sửa đổi Bộ Luật Hàng hải 2015 theo lộ
trình và theo trình tự, thủ tục quy định Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; rà
soát, sửa đổi các nghị định, thông tư hướng dẫn liên quan tạo thuận lợi cho phát triển,
quản lý, sử dụng hiệu quả kết cấu hạ tầng hàng hải; tập trung hoàn thiện các văn bản
quy phạm pháp luật về giá, phí tại cảng biển để nâng cao hiệu quả đầu tư cảng biển,
tăng tính hấp dẫn đối với các hãng tàu, thu hút hàng container trung chuyển quốc tế,
bảo đảm hài hòa lợi ích quốc gia và các bên liên quan.
Rà soát, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến cơ chế chính sách
để thực hiện khả thi, hiệu quả các mục tiêu của quy hoạch cảng biển, bảo đảm tính
thống nhất, đồng bộ với thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 -
2030, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng địa phương.
Cần cụ thể hóa quy hoạch để thu hút đầu tư phát triển hạ tầng cảng biển. Kế hoạch
xác định tổ chức lập điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt
Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 phù hợp với Quy hoạch tổng thể quốc
gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Triển khai lập các quy hoạch kỹ thuật chuyên ngành hàng hải, cụ thể hóa quy
hoạch tổng thể phát triển cảng biển để triển khai phát triển kết cấu hạ tầng cảng biển
và kết cấu hạ tầng hàng hải liên quan khác trong thực tiễn...
Chính sách, giải pháp thực hiện Quy hoạch gồm: Thu hút nguồn vốn cho phát
triển hạ tầng; phát triển nguồn nhân lực; phát triển khoa học và công nghệ; bảo đảm an lOMoAR cPSD| 58137911
sinh xã hội; bảo vệ môi trường; bảo đảm nguồn lực tài chính; bảo đảm quốc phòng -
an ninh; cơ chế, chính sách đột phá trong huy động nguồn lực tổ chức thực hiện các quy hoạch.
Đáng chú ý, về thu hút nguồn vốn cho phát triển hạ tầng tập trung, Kế hoạch xác
định bố trí đủ nguồn vốn cho công tác quy hoạch để đảm bảo tiến độ thực hiện quy
hoạch; xây dựng cơ chế thu hút, tiếp nhận nguồn lực cho công tác lập quy hoạch từ các
tổ chức, cá nhân tài trợ cho công tác lập quy hoạch để giảm bớt áp lực ngân sách.
Cân đối ngân sách, bố trí đủ nguồn vốn đầu tư xây dựng hạ tầng hàng hải công
cộng (hệ thống luồng hàng hải, các công trình đèn biển, khu neo đậu tránh, trú bão cho
tàu thuyền, kết cấu hạ tầng phục vụ công tác bảo đảm an toàn hàng hải, quản lý nhà
nước chuyên ngành hàng hải, tìm kiếm cứu nạn, các công trình phụ trợ) theo lộ trình
quy hoạch phát triển cảng biển được phê duyệt, tạo sức lan tỏa và thu hút đầu tư cảng
biển và các hạ tầng liên quan tại khu vực.
Tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương để bố trí nguồn lực thực
hiện khả thi, hiệu quả các mục tiêu của quy hoạch. Huy động đa dạng các nguồn lực từ
ngân sách và ngoài ngân sách, nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công
tác quy hoạch và đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cảng biển theo quy hoạch. Thể chế
hóa các giải pháp huy động, sử dụng nguồn lực để đảm bảo triển khai hiệu quả, khả thi.
Tiếp tục tăng cường các mối quan hệ với các tổ chức liên quan thuộc các đối tác
chiến lược của Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia khác, các tổ chức
quốc tế như Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB) và các tổ chức khác để thu hút vốn đầu tư hạ tầng cảng biển, kết cấu hạ tầng
giao thông kết nối với các cảng biển.
Rà soát việc quản lý, sử dụng nguồn thu phí cho thuê kết cấu hạ tầng hàng hải, đề
xuất cụ thể cơ chế sử dụng từ nguồn thu này đáp ứng cho các dự án cấp thiết lĩnh vực
hàng hải. Nghiên cứu áp dụng ưu đãi đầu tư đối với các dự án đầu tư sử dụng mặt nước,
khu vực biển (quy định tại Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 ngày 17/6/2020) để tăng
cường thu hút nhà đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng hàng hải. lOMoAR cPSD| 58137911
2.4.2. Các giải pháp thực tế
Để duy trì trạng thái làm việc tốt, cần cung cấp cho người lao động môi trường
làm việc tốt với đầy đủ các trang thiết bị phục vụ cho công việc. Nơi làm việc được
thiết kế và bố trí một cách khoa học nhằm tạo điều kiện tối đa cho người lao động. Bầu
không khí văn hóa cởi mở là điều kiện để người lao động hăng say học tập và ứng dụng
tốt kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm học được vào thực tế.
Quan tâm hơn đến công tác bố trí công việc nhằm đảm bảo sự phù hợp giữa người
lao động và công việc. Bố trí công việc phù hợp với năng lực, sở trường của bản thân
người lao động, phù hợp với những kiến thức kỹ năng được đào tạo. Luân phiên thay
đổi công việc cho người lao động, nhằm tránh sự nhàm chán trong công việc, đồng thời
tạo điều kiện cho người lao động học hỏi được những kinh nghiệm, tạo ra sự mới mẻ,
thách thức trong công việc Xây dựng các tiêu chí đánh giá rõ ràng, minh bạch trong
việc luân chuyển, sắp xếp, đề bạt người lao động
Xây dựng tiêu chuẩn tuyển dụng nhân viên có chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật
cần chú ý loại hình được đào tạo, kỹ năng nghề nghiệp, tuổi đời, sức khỏe, hồ sơ lý
lịch,… Xây dựng tiêu chuẩn tuyển lao động đối với các công việc lao động phổ thông
như: bốc xếp, vệ sinh công nghiệp,…cần chú ý tuyển lao động có sức khỏe tốt, hồ sơ
lý lịch rõ ràng. Tổ chức kiểm tra sát hạch về trình độ văn hóa, trình độ nhận thức, và
nâng dần các yêu cầu tối thiểu khi tuyển dụng.
Thực hiện đầy đủ các phúc lợi bắt buộc theo quy định. Xây dựng chương trình
phúc lợi tự nguyện. Tạo điều kiện thuận lợi để mỗi người lao động có thể vui chơi học
tập và phát triển năng khiếu của cá nhân thông qua các phong trào thi đua, hoạt động văn hóa, văn nghệ,... KẾT LUẬN
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã giúp cho việc vận
dụng những hiểu biết về các quy luật phát triển của xã hội để nhận thức các quy luật
phát triển triết học, tính phức tạp và mâu thuẫn của sự vận động của nó; nắm bắt quá
trình lịch sử - triết học trong tất cả các mối liên hệ của chúng, qua đó chỉ ra con đường
chủ yếu quy định khuynh hướng phát triển tư tưởng triết học của nhân loại. Do vậy, lOMoAR cPSD| 58137911
chúng ta có cơ sở chắc chắn để nói rằng: triết học Mác ra đời là bước ngoặt cách mạng
trong sự phát triển tư tưởng triết học, và từ đó, lịch sử triết học thực sự trở thành một
khoa học. Lý luận cơ bản về cặp phạm trù nguyên nhân kết quả đưa ra không chỉ xác
định các biện pháp phòng ngừa cụ thể mà còn đưa ra những chỉ dẫn có tính nguyên tắc,
định hướng cho việc nghiên cứu, đề xuất các biện pháp nâng cao giải vấn đề tiết giảm
chi phí và sử dụng hiệu quả các nguồn lực văn phòng của Cảng Hậu Giang hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mác-Ăngghen Toàn tập (2002). t.18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Lênin Toàn tập (1977). t.13, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.
3. B. Russell (1957), Sự nhận thức của con người, (Tiếng Nga), Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
4. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Triết
học Mác – Lênin (Chủ nghĩa duy vật biện chứng) (2016). t.1, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
5. Tần Ngôn Trước (2018), Thời đại kinh tế tri thức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Hà, Mô hình và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Tạp chí Cộng sảm, số 12/2017.
7. Nguyễn Linh Khiếu, Thời kỳ phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, Tạp chí Cộng sảm, số 9/2017.
8. http://www.tapchicongsan.org.vn/
9. http://www.dangcongsan.vn/ 10.
http://tapchicongthuong.vn/ 11.
http://hdll.vn / 12.
http://ww.congdoanvn.org.vn / 13.
http://liluanchinhtri.vn / 14.
http://tcdn.gov.vn / 15.
http://www.ilo.org /